Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Trần H khánh my
Xem chi tiết
trân cute
15 tháng 3 2019 lúc 20:11

Tham khảo sgk mha bạn 

Vôngang Amađêu Môda (Wolfgang Amadeus Mozart) - nhạc sĩ, nhà soạn nhạc thiên tài người áo. 
Môda sinh ra trong một gia đình nhạc sĩ nghèo ở thành phố Danxbuôc (Salzbourg), miền Nam nước áo. Cha ông là Lêôpôn Môda - phó nhạc sư trong dàn nhạc giáo đường của tòa giám mục Danxbuôc. Ngay từ thuở ban nhỏ, Môda đã nổi tiếng là thần đồng âm nhạc. Lên 5 tuổi, Môda đã tham gia biểu diễn trong dàn nhạc giáo đường Danxbuôc cùng với cha mình. Năm 12 tuổi, Môda đã nhận viết một vở nhạc kịch cho nhà hát ôpêra ở Viên. Năm 14 tuổi, Môda đã sáng tác thành công vở nhạc kịch Vua Mitơriđát xứ Pông và tên tuổi ông đã vang khắp châu Âu. Suốt từ năm 6 tuổi cho đến gần trọn đời mình, Môda được mời đi biểu diễn nhiều nơi, nhiều nước như Đức, Italia, Hà Lan, Pháp, Anh ... Tuy nhiên, ông vẫn sống trong cảnh nghèo khó và bệnh tật. Ông có 6 người con, mà đến 4 người bị chết vì không đủ tiền thuốc thang chạy chữa khi bị ốm đau. Năm 1791, ông nằm liệt giường vì một cơn sốt hiểm nghèo và ít ngày sau thì mất, lúc đó ông mới 36 tuổi. 

Môda đã để lại một di sản âm nhạc đồ sộ và vô giá với 626 tác phẩm lớn nhỏ, trong đó có 24 vở ôpêra nổi tiếng, 50 bản giao hưởng, cùng nhiều bản ca khúc, hòa tấu, bài hát trữ tình ... Môda là một trong những người thầy âm nhạc. Ông tìm tòi sự trong sáng, thanh nhàn trong giai điệu và đã đạt tới sự vĩ đại qua sự đơn giản và kiều diễm. Môda thật sự là "một thiên tài phát sáng" như nhận xét của nhạc sĩ Nga Traicôpxki. 
--------------------------------------... 
Tiểu sử 

[sửa] Thời thơ ấu 

Wolfgang Amadeus Mozart sinh ngày 27 tháng giêng, 1756, tại Salzburg, Thánh chế La Mã (nay Áo). Leopold Mozart, một nhạc sĩ vĩ cầm và cũng là một giáo viên, đã đích thân giáo dục con trai của ông. Wolfgang không phải cắp sách đến trường; thay vào đó cậu được học tại nhà với cha và chị gái của cậu. Âm nhạc là môn học chính. Tuy nhiên, cậu bé Mozart vẫn được học toán, môn học cậu rất thích, và các môn khác như La tinh, tiếng Pháp, tiếng Ý và một ít tiếng Anh. Cậu cũng đọc rất nhiều văn học kịch nghệ, đó là chất liệu mà cậu sẽ dùng để viết opera sau này. 

Wolfgang không thích chơi những trò chơi trẻ con bình thường, trừ phi có liên quan tới âm nhạc. Nhờ sự chăm lo dạy dỗ của người cha, vốn là một nhạc sĩ nổi tiếng của Wien, đến năm 3 tuổi đã nghe hiểu được âm nhạc, 4 tuổi đánh được đàn dương cầm cổ và organ. Cậu bắt đầu soạn nhạc cho đàn phím từ lúc năm tuổi, viết những bản nhạc hòa tấu khi cậu lên sáu. Những bản sônat cho đàn vĩ cầm được xuất bản khi cậu lên tám. Thật ra có thể nói rằng Mozart đã khởi đầu sự nghiệp âm nhạc trước thời gian cậu lên năm và theo đuổi cho đến ngày qua đời, ngót ba mươi năm âm nhạc. 

Học vấn của Mozart phát triển cùng những chuyến du lịch, được xem như những cột mốc trong cuộc đời cậu. Khi cậu lên sáu, Wolfgang và người chị, lớn hơn cậu năm tuổi và cũng là một thần đồng âm nhạc, cùng đi với cha của họ đến München. Cuối năm đó họ chơi nhạc cho Hoàng hậu của Viên. Năm lên 7, cậu đã tổ chức những buổi diễn nhạc ở Paris, và được một nhà xuất bản ở đây xuất bản một tập nhạc, gồm 4 bản violon và orcgan. Sau đó, cha cậu lại dẫn cậu đi khắp các nước Ý, Anh..., gia đình Mozart nổi danh khắp những nơi cậu đến, và Wolfgang, với tài năng sớm phát triển của cậu, đã chinh phục mọi người. Quan trọng hơn, Mozart có cơ hội thưởng thức âm nhạc thịnh hành trong các thành phố này. Mozart đã gặp những nhạc sĩ khác và bắt đầu thành hình quan điểm về sự nghiệp của họ. 

Mozart có ký ức chi tiết âm nhạc phi thường, ông có thể hợp nhất tinh hoa âm nhạc khác nhau của quốc gia này với quốc gia khác vào trong tác phẩm của mình. Tại Luân Đôn, Mozart gặp Johann Christian Bach, con trai của nhạc gia vĩ đại Johann Sebastian Bach, Christian bị gây ấn tượng, đã trở thành người dẫn dắt nhạc sĩ Mozart trẻ và quan tâm theo dõi sự nghiệp của cậu. Trở về nước, Mozart nghiên cứu tổng phổ âm nhạc của J. C. Bach, và ảnh hưởng của Bach được thể hiện trong tác phẩm của Mozart vào thời gian ấy. 

[sửa] Sự nghiệp 

Khoảng cuối năm 1769, năng khiếu âm nhạc sớm phát triển của Mozart đã bắt đầu nở rộ, tuy mới chỉ lên mười ba, cậu bắt đầu sự nghiệp sáng tác một cách nghiêm túc. Đức Tổng giám mục tại Salzburg đã chấp nhận Mozart như một nhạc trưởng, bằng cách cấp một khoản thu nhập cho cậu. Hai cha con Mozart đã thực hiện ba chuyến viễn du sang Ý để công diễn, họ đã được công nhận và gây được sự chú ý đến sự nghiệp của cậu trong giới quý tộc ở đó. Tại Milano Mozart được ủy nhiệm viết opera, vở Mitridate. Vở này sau đó, do chính Mozart chỉ huy, đã được tán thưởng nồng nhiệt. Trở về Salzburg, Mozart biên soạn một loạt symphony và nhạc phụng sự cho Giáo hội. 

Việc trở về Salzburg của Wolfgang vào 1773 là một trong những cột mốc, lúc ấy có một sự bùng nổ sáng tác khác thường, và một sự chuyển tiếp ra khỏi ảnh hưởng âm nhạc Ý để thiên về phong cách âm nhạc Đức, được đại diện bởi Joseph Haydn. 

Vị Tổng giám mục mới, Ngài Hieronymus, Bá tước Colloredo, không mấy hài lòng với tần suất yêu cầu của Mozart. Về phần Mozart, khi thấy mức sống của Salzburg đã tăng lên nhiều, nhưng sự yêu chuộng nghệ thuật thì xuống dốc đáng đau buồn, lúc ấy, mối quan hệ của Mozart với Bá tước Colloredo ngày càng trở nên gay gắt. 

Cuối cùng, vào tháng 8 năm 1777, ở tuổi hai mươi mốt, Wolfgang xin từ nhiệm, và Bá tước Colloredo đã đồng ý. Thời gian này, Leopold quyết định rằng ông phải còn ở lại phục vụ nhà thờ. Cho nên Wolfgang cùng mẹ đã chuyển đi München, rồi đến Mannheim. 

Trong những thành phố này, Mozart có cơ hội để trình diễn với một số những nhạc sĩ tinh tế nhất Châu Âu, nhưng không có việc làm lâu dài nào. 

Tuy vậy, Mozart đã lưu lại Mannheim một ít lâu. Anh đã phải lòng một ca sĩ mười sáu tuổi vừa tài năng vừa xinh đẹp, tiểu thư Aloysia Weber. Wolfgang đã làm kinh hoảng người cha, khiến ông ấy phải ra sức thuyết phục con trai chuyển tới Paris. 

Tại Paris, Mozart biên soạn giáo trình âm nhạc, tiếp xúc các nhà xuất bản, viết bất cứ cái gì anh có thể bán hoặc trình diễn - những bản sônat cho đàn violin và đàn phím, một concero cho sáo và thụ cầm, những bản biến tấu đàn phím, và symphony Paris của anh. Nhưng thành phố này tỏ ra là sự chán nản khác. Mozart tiếp tục đánh vật với khoản tài chính eo hẹp và lại bị đè nặng thêm bằng cái chết của người mẹ. Buồn bã và miễn cưỡng, anh trở về Salzburg quê cha, mang theo nợ nần, nhưng tin tưởng rằng viễn cảnh của mình sẽ sáng sủa hơn. Người yêu của anh, tiểu thư Aloysia, trong thời gian ấy đã chuyển đi với gia đình tới Wien, nơi mà người ta muốn cô ấy kết hôn với một diễn viên kiêm họa sĩ tài tử, Joseph Lange. 

Khi nhận nhiệm vụ nhạc trưởng và đệm đại phong cầm cho nhà thờ lớn, Mozart cảm thấy những nhiệm vụ đó quá tẻ nhạt. Vào 1781 anh tới München để diễn opera, vở Idomeneo, một thành công rực rỡ. Sau đó, được tòa Tổng giám mục triệu hồi về Wien, Mozart đã tìm thấy một công việc có uy tín. Nhưng mối quan hệ căng thẳng giữa vị giáo sĩ và nhạc sĩ đã khiến Mozart cuối cùng đã tự rút lui vào tháng 6 năm đó. 

Có lẽ trong những tháng kế tiếp Mozart đã gặp Haydn lần thứ nhất, người nhạc sĩ này đang viếng thăm Wien. Tình bằng hữu phát triển đã mang lại ảnh hưởng cho tốt công việc của cả hai nhạc sĩ về sau. Mozart, trong thời gian ấy, đã cư ngụ với gia đình Weber, và rồi, vào năm 1782, kết hôn với tiểu thư Constanze, em gái của Aloysia, mặc dù gặp sự phản đối mạnh mẽ của cha ruột. Từ đó, có một sự lãnh đạm giữa Wolfgang và cha của anh mà không bao giờ hàn gắn được. Trong những vấn đề tài chánh, cả Wolfgang lẫn Constanze đều không thận trọng. Họ đã sớm rơi vào tình trạng khó khăn. 

Không có khả năng để giữ một sự chỉ địn

Nguồn : tiểu thuyết về nhạc sĩ Mô-Da? | Yahoo Hỏi & Đáp

Môda (1756-1791) 
--------------------------------------... 
Vôngang Amađêu Môda (Wolfgang Amadeus Mozart) - nhạc sĩ, nhà soạn nhạc thiên tài người áo. 
Môda sinh ra trong một gia đình nhạc sĩ nghèo ở thành phố Danxbuôc (Salzbourg), miền Nam nước áo. Cha ông là Lêôpôn Môda - phó nhạc sư trong dàn nhạc giáo đường của tòa giám mục Danxbuôc. Ngay từ thuở ban nhỏ, Môda đã nổi tiếng là thần đồng âm nhạc. Lên 5 tuổi, Môda đã tham gia biểu diễn trong dàn nhạc giáo đường Danxbuôc cùng với cha mình. Năm 12 tuổi, Môda đã nhận viết một vở nhạc kịch cho nhà hát ôpêra ở Viên. Năm 14 tuổi, Môda đã sáng tác thành công vở nhạc kịch Vua Mitơriđát xứ Pông và tên tuổi ông đã vang khắp châu Âu. Suốt từ năm 6 tuổi cho đến gần trọn đời mình, Môda được mời đi biểu diễn nhiều nơi, nhiều nước như Đức, Italia, Hà Lan, Pháp, Anh ... Tuy nhiên, ông vẫn sống trong cảnh nghèo khó và bệnh tật. Ông có 6 người con, mà đến 4 người bị chết vì không đủ tiền thuốc thang chạy chữa khi bị ốm đau. Năm 1791, ông nằm liệt giường vì một cơn sốt hiểm nghèo và ít ngày sau thì mất, lúc đó ông mới 36 tuổi. 

Môda đã để lại một di sản âm nhạc đồ sộ và vô giá với 626 tác phẩm lớn nhỏ, trong đó có 24 vở ôpêra nổi tiếng, 50 bản giao hưởng, cùng nhiều bản ca khúc, hòa tấu, bài hát trữ tình ... Môda là một trong những người thầy âm nhạc. Ông tìm tòi sự trong sáng, thanh nhàn trong giai điệu và đã đạt tới sự vĩ đại qua sự đơn giản và kiều diễm. Môda thật sự là "một thiên tài phát sáng" như nhận xét của nhạc sĩ Nga Traicôpxki. 
--------------------------------------... 
Tiểu sử 

[sửa] Thời thơ ấu 

Wolfgang Amadeus Mozart sinh ngày 27 tháng giêng, 1756, tại Salzburg, Thánh chế La Mã (nay Áo). Leopold Mozart, một nhạc sĩ vĩ cầm và cũng là một giáo viên, đã đích thân giáo dục con trai của ông. Wolfgang không phải cắp sách đến trường; thay vào đó cậu được học tại nhà với cha và chị gái của cậu. Âm nhạc là môn học chính. Tuy nhiên, cậu bé Mozart vẫn được học toán, môn học cậu rất thích, và các môn khác như La tinh, tiếng Pháp, tiếng Ý và một ít tiếng Anh. Cậu cũng đọc rất nhiều văn học kịch nghệ, đó là chất liệu mà cậu sẽ dùng để viết opera sau này. 

Wolfgang không thích chơi những trò chơi trẻ con bình thường, trừ phi có liên quan tới âm nhạc. Nhờ sự chăm lo dạy dỗ của người cha, vốn là một nhạc sĩ nổi tiếng của Wien, đến năm 3 tuổi đã nghe hiểu được âm nhạc, 4 tuổi đánh được đàn dương cầm cổ và organ. Cậu bắt đầu soạn nhạc cho đàn phím từ lúc năm tuổi, viết những bản nhạc hòa tấu khi cậu lên sáu. Những bản sônat cho đàn vĩ cầm được xuất bản khi cậu lên tám. Thật ra có thể nói rằng Mozart đã khởi đầu sự nghiệp âm nhạc trước thời gian cậu lên năm và theo đuổi cho đến ngày qua đời, ngót ba mươi năm âm nhạc. 

Học vấn của Mozart phát triển cùng những chuyến du lịch, được xem như những cột mốc trong cuộc đời cậu. Khi cậu lên sáu, Wolfgang và người chị, lớn hơn cậu năm tuổi và cũng là một thần đồng âm nhạc, cùng đi với cha của họ đến München. Cuối năm đó họ chơi nhạc cho Hoàng hậu của Viên. Năm lên 7, cậu đã tổ chức những buổi diễn nhạc ở Paris, và được một nhà xuất bản ở đây xuất bản một tập nhạc, gồm 4 bản violon và orcgan. Sau đó, cha cậu lại dẫn cậu đi khắp các nước Ý, Anh..., gia đình Mozart nổi danh khắp những nơi cậu đến, và Wolfgang, với tài năng sớm phát triển của cậu, đã chinh phục mọi người. Quan trọng hơn, Mozart có cơ hội thưởng thức âm nhạc thịnh hành trong các thành phố này. Mozart đã gặp những nhạc sĩ khác và bắt đầu thành hình quan điểm về sự nghiệp của họ. 

Mozart có ký ức chi tiết âm nhạc phi thường, ông có thể hợp nhất tinh hoa âm nhạc khác nhau của quốc gia này với quốc gia khác vào trong tác phẩm của mình. Tại Luân Đôn, Mozart gặp Johann Christian Bach, con trai của nhạc gia vĩ đại Johann Sebastian Bach, Christian bị gây ấn tượng, đã trở thành người dẫn dắt nhạc sĩ Mozart trẻ và quan tâm theo dõi sự nghiệp của cậu. Trở về nước, Mozart nghiên cứu tổng phổ âm nhạc của J. C. Bach, và ảnh hưởng của Bach được thể hiện trong tác phẩm của Mozart vào thời gian ấy. 

[sửa] Sự nghiệp 

Khoảng cuối năm 1769, năng khiếu âm nhạc sớm phát triển của Mozart đã bắt đầu nở rộ, tuy mới chỉ lên mười ba, cậu bắt đầu sự nghiệp sáng tác một cách nghiêm túc. Đức Tổng giám mục tại Salzburg đã chấp nhận Mozart như một nhạc trưởng, bằng cách cấp một khoản thu nhập cho cậu. Hai cha con Mozart đã thực hiện ba chuyến viễn du sang Ý để công diễn, họ đã được công nhận và gây được sự chú ý đến sự nghiệp của cậu trong giới quý tộc ở đó. Tại Milano Mozart được ủy nhiệm viết opera, vở Mitridate. Vở này sau đó, do chính Mozart chỉ huy, đã được tán thưởng nồng nhiệt. Trở về Salzburg, Mozart biên soạn một loạt symphony và nhạc phụng sự cho Giáo hội. 

Việc trở về Salzburg của Wolfgang vào 1773 là một trong những cột mốc, lúc ấy có một sự bùng nổ sáng tác khác thường, và một sự chuyển tiếp ra khỏi ảnh hưởng âm nhạc Ý để thiên về phong cách âm nhạc Đức, được đại diện bởi Joseph Haydn. 

Vị Tổng giám mục mới, Ngài Hieronymus, Bá tước Colloredo, không mấy hài lòng với tần suất yêu cầu của Mozart. Về phần Mozart, khi thấy mức sống của Salzburg đã tăng lên nhiều, nhưng sự yêu chuộng nghệ thuật thì xuống dốc đáng đau buồn, lúc ấy, mối quan hệ của Mozart với Bá tước Colloredo ngày càng trở nên gay gắt. 

Cuối cùng, vào tháng 8 năm 1777, ở tuổi hai mươi mốt, Wolfgang xin từ nhiệm, và Bá tước Colloredo đã đồng ý. Thời gian này, Leopold quyết định rằng ông phải còn ở lại phục vụ nhà thờ. Cho nên Wolfgang cùng mẹ đã chuyển đi München, rồi đến Mannheim. 

Trong những thành phố này, Mozart có cơ hội để trình diễn với một số những nhạc sĩ tinh tế nhất Châu Âu, nhưng không có việc làm lâu dài nào. 

Tuy vậy, Mozart đã lưu lại Mannheim một ít lâu. Anh đã phải lòng một ca sĩ mười sáu tuổi vừa tài năng vừa xinh đẹp, tiểu thư Aloysia Weber. Wolfgang đã làm kinh hoảng người cha, khiến ông ấy phải ra sức thuyết phục con trai chuyển tới Paris. 

Tại Paris, Mozart biên soạn giáo trình âm nhạc, tiếp xúc các nhà xuất bản, viết bất cứ cái gì anh có thể bán hoặc trình diễn - những bản sônat cho đàn violin và đàn phím, một concero cho sáo và thụ cầm, những bản biến tấu đàn phím, và symphony Paris của anh. Nhưng thành phố này tỏ ra là sự chán nản khác. Mozart tiếp tục đánh vật với khoản tài chính eo hẹp và lại bị đè nặng thêm bằng cái chết của người mẹ. Buồn bã và miễn cưỡng, anh trở về Salzburg quê cha, mang theo nợ nần, nhưng tin tưởng rằng viễn cảnh của mình sẽ sáng sủa hơn. Người yêu của anh, tiểu thư Aloysia, trong thời gian ấy đã chuyển đi với gia đình tới Wien, nơi mà người ta muốn cô ấy kết hôn với một diễn viên kiêm họa sĩ tài tử, Joseph Lange. 

Khi nhận nhiệm vụ nhạc trưởng và đệm đại phong cầm cho nhà thờ lớn, Mozart cảm thấy những nhiệm vụ đó quá tẻ nhạt. Vào 1781 anh tới München để diễn opera, vở Idomeneo, một thành công rực rỡ. Sau đó, được tòa Tổng giám mục triệu hồi về Wien, Mozart đã tìm thấy một công việc có uy tín. Nhưng mối quan hệ căng thẳng giữa vị giáo sĩ và nhạc sĩ đã khiến Mozart cuối cùng đã tự rút lui vào tháng 6 năm đó. 

Có lẽ trong những tháng kế tiếp Mozart đã gặp Haydn lần thứ nhất, người nhạc sĩ này đang viếng thăm Wien. Tình bằng hữu phát triển đã mang lại ảnh hưởng cho tốt công việc của cả hai nhạc sĩ về sau. Mozart, trong thời gian ấy, đã cư ngụ với gia đình Weber, và rồi, vào năm 1782, kết hôn với tiểu thư Constanze, em gái của Aloysia, mặc dù gặp sự phản đối mạnh mẽ của cha ruột. Từ đó, có một sự lãnh đạm giữa Wolfgang và cha của anh mà không bao giờ hàn gắn được. Trong những vấn đề tài chánh, cả Wolfgang lẫn Constanze đều không thận trọng. Họ đã sớm rơi vào tình trạng khó khăn.

Xem chi tiết
๖ۣۜHả๖ۣۜI
20 tháng 11 2021 lúc 11:22

Phan Huỳnh Điểu sinh ngày 11 tháng 11 năm 1924 - mất ngày 29 tháng 6 năm 2015 là một trong những nhạc sĩ tiêu biểu nhất của nền âm nhạc đương đại Việt Nam với những đóng góp to lớn cho sự phát triển của âm nhạc Việt Nam trong thế kỉ XX.

Thu Uyên Vũ
Xem chi tiết
miko
17 tháng 1 2022 lúc 18:36

Wolfgang Amadeus Mozart  một nhà soạn nhạc người Áo. Ông là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất trong lịch sử âm nhạc. Mặc dù ông đã mất trước ngày sinh nhật lần thứ 36 của mình nhưng Mozart đã để lại hơn 600 tác phẩm. Mozart sinh ngày 27 tháng 1 năm 1756 tại Salzburg.

CHÚC BẠN HỌC TỐT :33

 

Trần Thái Hà
7 tháng 12 2022 lúc 22:12

Ông tên là Mozart's Birthplace sinh năm 27/1/1756 (Áo)và mất năm 5/12/ 1791 vào năm 35 tuổi (Áo). Ông là nhạc sĩ nổi tiếng của nước Áo nói chung và thế giới nói chung. Lúc mất ông đã để lại hơn 600 tác phẩm. Một số tác phẩm nổi tiếng: cây sáo thần, Sô-nát cho dương cầm,.....

~~~~~~~~~~~HT~~~~~~~~~~

Nguyễn Ngọc Thy Thuận
Xem chi tiết
Lê Phương Mai
12 tháng 1 2022 lúc 14:12

TK:
 

+)Văn Cao: (15 tháng 11 năm 1923 – 10 tháng 7 năm 1995) là một nhạc sĩhuyền thoại của Việt Nam. Ông là tác giả của "Tiến quân ca" - quốc ca của nước Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những gương mặt quan trọng nhất của tân nhạc. Bên cạnh tư cách là một nhạc sĩ, Văn Cao còn là mộthọa sĩ, nhà thơ với nhiều tác phẩm giá trị.

 

+)Thuộc thế hệ nhạc sĩ tiên phong, Văn Cao tham gia nhóm Đồng Vọng, sáng tác các ca khúc lãng mạn "Bến xuân", "Suối mơ", "Thiên Thai", "Trương Chi",... ghi dấu ấn trong lịch sử tân nhạc Việt Nam. Sau khi gia nhập Việt Minh, Văn Cao viết "Tiến quân ca", "Trường ca Sông Lô", "Tiến về Hà Nội",... trở thành nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc kháng chiến.

-  hoàn cảnh ra đời của bài hát quốc ca : tháng 7 năm 1976 
Nguyễn Ngọc Thy Thuận
12 tháng 1 2022 lúc 14:12

alo

Nguyễn Ngọc Thy Thuận
12 tháng 1 2022 lúc 14:13

có ai ko giúp mik với

phạm bảo nam
Xem chi tiết
Ngọc Yến
18 tháng 5 2021 lúc 21:54

lớp mấy hả bạn

Nguyễn Minh Anh
9 tháng 7 2021 lúc 10:23

các cao độ của các nốt nhạc có trong bài TĐN số 4(SGK trang 25) gồm: Đô Rê Mi Fa(Pha) Son La Si Đô(C2)

 

Thiên Thanh
Xem chi tiết
Cherry
8 tháng 3 2021 lúc 17:31

Những bài hát nổi tiếng là:

March in D major, K. 62 March in D major, K. 189 March in C major, K. 214 March in D major, K. 237 March in F major, K. 248 March in D major, K. 249 March in D major, K. 290 March in D major, K. 335, số 1 March in D major, K. 335, số 2 March in C major, K. 408, số 1 March in D major, K. 408, số 2

Anti Spam - Thù Copy - G...
10 tháng 3 2021 lúc 13:35

2 bài hát phổ biến nhất của nhạc sĩ Mô-da là Khát vọng mùa xuân và Hành khúc Thổ Nhĩ Kì.

Huỳnh Anh
10 tháng 4 2021 lúc 17:58
Những bản nhạc piano nổi tiếng của Mozart1. Rondo a La Turka (từ Sonata cho Piano trong A Major; K. 331)

Tác phẩm Mozart cực kỳ nổi tiếng này trích 1 đoạn trong bản Piano Sonata A Major. Đây là bản Sonata thứ mười một mà Mozart viết cho nhạc cụ và thường bao gồm 3 chương theo kiểu nhanh-chậm-nhanh. Không giống như nhiều biệt danh, Mozart được cho là đã thực sự chọn chính mình Mạnh mẽ, Hạnh Phúc cho cao trào cuối, giống như âm thanh của ban nhạc Marching Thổ Nhĩ Kỳ.

Tác phẩm có chủ đề mở đầu hấp dẫn, khoảnh khắc nhẹ nhàng hơn. Hình thức Rondo cho phép Mozart thể hiện sức mạnh phát minh vô hạn của mình vì sau mỗi lần thematic restatement theo chủ đề, ông tạo ra một giai điệu mới khác. Phần Coda là phần cuối cùng của tác phẩm nhưng nó không mất đi tinh thần và năng lượng của nó khi kết thúc một bản sonata một cách tuyệt vời và thú vị.

 

2. Fantasia in D minor K.397

Được cho là do Mozart sáng tác vào năm 1782, tác phẩm piano ngắn này đã chứng tỏ là một trong những tác phẩm phổ biến nhất của nhà soạn nhạc. Đúng như tên gọi cho thấy một tác phẩm giả tưởng; có nghĩa là hình thức âm nhạc của nó chứa đầy những khúc quanh và khúc ngoặt; điều thường không thấy trong các tác phẩm Cổ điển. Fantasia được sáng tác theo một trong những phím tối hơn của Mozart và arpeggios mở đầu phản ánh sự không chắc chắn, dẫn đến một đoạn Adagio có cảm giác như một aria opera.

Sau đó đoạn bị ngắt đột ngột bởi một đoạn presto làm người nghe cảm nhận như trí tưởng tượng của Mozart dường như bay nhanh trước khi trở lại nhịp độ ban đầu.

Nhiều yếu tố theo chủ đề có thể tạo ấn tượng rằng tác phẩm có phần sơ sài, được liên kết cẩn thận và liên quan. Điều này chỉ trở nên rõ ràng khi bạn thực sự nắm rõ những giai điệu trong từng bản nhạc. Đáng buồn thay, những nốt cuối cùng của Fantasia đã không được Mozart hoàn thành, các tác phẩm bị bỏ dở vào thời điểm ông qua đời. Có lẽ Mozart có sáng tác những phần khác trong tâm trí hoặc một kết thúc theo một cách hoàn toàn khác; chúng ta sẽ không bao giờ biết

 

3. 12 Biến thể "À, con sẽ nói với mẹ"; K.265 - 12 Variations on “Ah, vous dirai-je, Maman”;  K.265

Tiêu đề của tác phẩm này có thể không quen thuộc với bạn cho đến khi bạn nghe những đoạn mở đầu và nhận ra bài hát thiếu nhi bất hủ Twinkle, twinkle, little star. Trong tác phẩm Mozart người ta dễ dàng nhìn Mozart trong những năm tháng tuổi trẻ, chúng ta cảm nhận nhà soạn nhạc trong tâm trạng vui vẻ thể hiện không chỉ kỹ năng sáng tác mà còn rõ ràng là những món quà piano của anh ấy. Giai điệu ban đầu không bao giờ bị mất hoàn toàn vì cả tay trái và tay phải lần lượt thay đổi chủ đề. Chỉ bằng biến thể tám, chúng ta bắt gặp một khoảnh khắc nhẹ nhàng hơn khi Mozart trở về những tháng năm thơ ấu.

Những đám mây sớm xuất hiện và Mozart đưa chúng ta trở lại giai điệu heeky canon ban đầu. Khi chúng ta đạt đến biến thể thứ mười một, Mozart đánh dấu nhịp độ là Adagio, cho phép một khoảnh khắc lắng dịu dàng ngắn gọn trước khi bước vào biến thể cuối cùng nhẹ nhàng và nhanh chóng hơn. Trong biến thể cuối cùng này, Mozart rút ra tất cả các điểm dừng âm nhạc ngay khi bạn có thể nghi ngờ anh ta đã hết ý tưởng, đưa tác phẩm đến kết thúc tuyệt vời.

 

4. Bản hòa tấu piano số 21 tại C Major K. 467

Sẽ không phải là không có lý khi có thể tuyên bố rằng Bản concerto này đã trở nên nổi tiếng vì những lý do khác hơn là sự đổi mới và tài năng. Việc sử dụng tình cảm quá mức trong bộ phim El Elira Madigan, có thể khiến người nghe chỉ đơn giản cho rằng đó là một tác phẩm đẹp nhưng không đáng chú ý. Điều này không hoàn toàn xuất phát từ sự thật. Từ đoạn mở đầu cho piano độc tấu, chúng tôi nhận thức sâu sắc về kỹ năng của Mozart như là một nhà soạn nhạc. Màn mở đầu của piano này là một cadenza ngắn tô điểm cho chủ đề đầu tiên.

Mozart khai thác triệt để cuộc đối thoại và phát triển chất liệu âm nhạc giữa nghệ sĩ độc tấu và dàn nhạc, với một số phần biểu cảm tuyệt vời cho phần wind. Andante ( phần movement thứ 2), tràn ngập sự đối lập được đặt cẩn thận làm tăng thêm sự kích tính của đoạn. Nó đầy ma thuật và bí ẩn, khác xa với tình cảm mà nó được liên kết. Trong phần Finale, Mozart cũng không thất vọng. Cảm giác của sức sống trong các đoạn độc tấu di chuyển nhanh được gạch chân với một chút tinh nghịch. Chromaticism được sử dụng để tạo hiệu ứng kịch tính tuyệt vời, nhưng cuối cùng, bản concerto quay trở lại một số thang âm chiến thắng.

 

5. Piano Sonata số 15, trong C K.545

Bản Sonata này có lẽ là bản Sonata nổi tiếng nhất trong tất cả các bản Sonata dành cho piano. Nó thường, và sai, khi nhiều người cho rằng tác phẩm này thích hợp cho nghệ sĩ piano mới bắt đầu. Điều này là để bỏ qua hình thức cấu trúc đáng chú ý của tác phẩm này khác với những bản Sonata cổ điển. Hãy xem xét thực tế rằng sự tái cấu trúc không trở lại trong khóa bổ âm mà trong sự chi phối của F chính. Điều đáng chú ý là Mozart cũng hoàn thành Bản giao hưởng số 39 của ở thời điểm tương tự; một công việc đáng chú ý theo đúng nghĩa của nó.

Sự đơn giản rõ ràng của Sonata này như một lời nhắc nhở nhiều tác phẩm của Mozart có thể lấp lánh với những giai điệu đáng nhớ nhưng có một chút nữa được xây dựng theo cách mới lạ và kỹ lưỡng. Sonata có ba phần Allegro; Andante và Rondo: Allegretto. Andante ở G Major và tìm thấy Mozart ở giai điệu hay nhất. Với dấu hiệu thời gian là ba / bốn tiếng vang nhỏ của một Minuet chậm đòi hỏi phải kiểm soát hoàn toàn cân bằng giữa hai tay. Đoạn kết Finale đưa chúng ta vào một bản rondo, có lẽ là hình thức âm nhạc yêu thích của Mozart vì nó mang đến cho ông cơ hội gần như vô tận để sáng tác chất liệu âm nhạc mới. Đó là một rondo thực sự đáng nhớ và có thể dễ dàng để chơi, hoạt bát nhưng luôn có một cảm giác trang trí tinh tế.

Các tác phẩm trên đây đại diện cho một phần rất nhỏ của âm nhạc piano mà Mozart sáng tác trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình. Mỗi tác phẩm dường như rẽ sang một góc mới và mang đến cho bất kỳ nghệ sĩ piano đầy tham vọng nào một thử thách tuyệt vời.

nguyễn thị mai linh
Xem chi tiết
anhthu bui nguyen
25 tháng 9 2018 lúc 20:01

NGƯỜI ÁO

K MK NHA.

~GIÚP MK LÊN 200 ĐIỂM NHA CÁC BẠN~

Chibi tím
25 tháng 9 2018 lúc 20:03

Linh tinh quá bn ơi, có ngày sẽ bị khóa nick đó nha!

ý kiến gì nhắn tin cho mik!

~ Chibi tím~

Đoàn Mai Phương
25 tháng 9 2018 lúc 20:04

Mô-da là người nước Áo nha bạn

h7 nguyen
Xem chi tiết
Vũ Thu Trang
4 tháng 6 2021 lúc 10:22

MẤT VÀO NGÀY 5/12/1791 , LÚC ÔNG 35 TUỔI

Khách vãng lai đã xóa
응 우옌 민 후엔
4 tháng 6 2021 lúc 10:19

Vôn-gang A-ma-đơ Mô-da là nhạc sĩ thiên tài, một ngôi sao chói lọi, một thần đồng trong lịch sử âm nhạc thế giới. Tất cả những từ đẹp đẽ nhất để nói về tài năng âm nhạc đều xứng đáng có thể dành cho ông. Mô-da được mệnh danh là “Mặt trời âm nhạc” do tài năng kiệt xuất, độc nhất vô nhị, cũng như tính chất âm nhạc rất trong trẻo, rực rỡ, tươi sáng. Ngay từ khi còn sống, cuộc đời của Mô-da đã có nhiều chi tiết đặc biệt. Vì thế, theo dòng thời gian, cuộc đời ông được tô điểm bằng nhiều câu chuyện mang nét huyền thoại, không rõ hư hay thực.

Mô-da sinh ngày 27/1/1756 trong một gia đình âm nhạc ở thị trấn San-buốc, nước Áo. Cha là Lê-ô-pôn, một nghệ sĩ chơi đàn violon có tiếng trong dàn nhạc của nhà quí tộc ở San-buốc, ông cũng là người dạy dỗ âm nhạc cho Mô-da. Gia đình Mô-da có 2 người con, đó là Nan-nếc, chị gái và Mô-da. Hai chị em cùng tỏ ra có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc. Nan-nếc nhiều hơn em trai năm tuổi, từ khi 4 tuổi, cô đã có biểu hiện của một tài năng âm nhạc, chỉ sau một năm luyện tập đã đánh được những bản nhạc khá hóc búa. Tuy nhiên, tài năng của người em còn vượt xa hơn. Sở dĩ, người ta gọi Mô-da là thần đồng âm nhạc vì tài năng của ông đặc biệt và được bộc lộ từ lúc còn rất nhỏ.

Một buổi sáng mùa thu năm 1758, bà Anna  Maria- mẹ của Môda ở nhà cùng cậu con trai, ông Lê-ô-pôn đã đi làm, còn Nan-nếc thì đi học. Như lệ thường, bà ngồi vào đàn clavơxanh (đàn piano cổ) và bắt đầu chơi những bản nhạc mà hàng ngày Nan-nếc vẫn luyện tập. Trước đó, bà cẩn thận đặt Mô-da ngồi trên chiếc ghế, phía bên phải cây đàn, để vừa đánh đàn vừa dễ dàng quay sang nói chuyện và trông nom cậu bé.

Trong khi mẹ chơi đàn, Mô-da rất chăm chú nghe và quan sát những ngón tay đang di chuyển của bà mẹ, có vẻ như những bản nhạc đang thu hút được sự chú ý của cậu. Không lâu, sau khi đã chơi một số bản nhạc ngắn, bà Maria đứng lên, đi vào bếp để lấy một cốc nước. Trước khi đi, bà đẩy chiếc ghế mà Mô-da đang ngồi sát lại cây đàn, cho cậu bé bám vào thành đàn đề phòng cậu có thể bị ngã.

Khi đang rót nước vào cốc, bà Maria chợt nghe thấy bản nhạc vừa chơi vang lên từ phòng khách, thầm ngạc nhiên nghĩ rằng cô con gái hôm nay lại đi học về sớm, bà hỏi vọng ra ngoài phòng khách: “ Sao về học sớm vậy, Nan-nếc ? ”. Không có tiếng trả lời, bà liền nghiêng người nhìn ra phía ngoài. Bỗng nhiên bà  sững người, suýt đánh rơi cả chiếc cốc trên tay, khi nhìn thấy cậu con trai bé nhỏ của mình đang mải miết đánh lại bản nhạc mà lúc trước bà đã tập. Tuy mức độ thuần thục và tốc độ của bản nhạc chưa thật chính xác, nhưng đó chính là bản nhạc mà bà vừa chơi. Không tin được ở mắt mình, sau giây lát định thần, bà Maria tiến gần lại cây đàn, nơi cậu bé vẫn đang say sưa chơi nhạc, bà hỏi:

-Con trai của mẹ, tại sao con đánh được bài này ? Chị Nan-nec đã dạy con từ khi nào vậy ?

-Không, chị đã dạy con đâu, vừa nghe mẹ chơi đàn, con chỉ đánh lại thôi. Bà mẹ càng ngạc nhiên :

-Con nói gì? Vừa nghe mẹ chơi mà con đã đánh được như vậy sao? Không thể tin nổi ? Thấy cậu con trai tỏ vẻ chú ý và rất thích thú với cây đàn, bà Maria hỏi:

-Nếu con muốn tiếp tục được đánh đàn, hãy nghe mẹ chơi đoạn nhạc ngắn này, rồi con thử đánh lại xem.

Tay trái giữ vai Mô-da, còn tay phải bà chạy trên những phím đàn một giai điệu ngắn. Ngay khi giai điệu vừa kết thúc, bàn tay bé xíu của cậu bé  đặt lên phím đàn, không hề có chút ngập ngừng, cậu đánh lại giai điệu vừa xuất hiện. Cậu chơi chính xác cứ như đã từng tập nó nhiều lần. Bà Maria lại chuyển sang một giai điệu khác, lần này đó là một câu nhạc do bà tự nghĩ ra, Mô-da cũng đánh lại chính xác. Rồi những câu tiếp theo, ngày  càng trở nên dài hơn, khó nhớ hơn, cậu bé cũng đánh lại được gần như là hoàn hảo. Đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, càng thử, bà Maria càng thấy được khả năng đặc biệt của con trai mình.

Đến trưa, khi ông Lê-ô-pôn về nhà, việc đầu tiên, bà Maria gọi ông đến bên cây đàn để cho ông chứng kiến khả năng đặc biệt của cậu con trai. Bây giờ đến lượt ông bố ngỡ ngàng khi thấy con trai mình, mọi ngày chỉ bình thường như những cậu bé khác, bỗng nhiên có những biểu hiện đặc biệt của một thiên tài âm nhạc. Sau khi kiểm tra kỹ năng khiếu của con trai bằng những đoạn nhạc khá hóc búa, ông tự hào nói với vợ: “ Đó là một tài năng đặc biệt, rồi em xem, mai đây, mọi người sẽ nhắc đến thằng bé nhà mình nhiều đấy”.

Điều đó đã sớm xảy ra, chỉ ít lâu sau, dưới sự hướng dẫn của ông Lê-ô-pôn, hai đứa con của ông đã cùng nhau luyện tập đồng thời hai loại nhạc cụ là violon và clavơxanh, chúng có thể biểu diễn độc tấu cũng như hoà tấu một cách khá thuần thục. Trong khi người khác phải mất nhiều năm mới có thể học để hoàn thiện kỹ thuật chơi một trong hai nhạc cụ này, thì chỉ trong hai năm, những đứa con ông đã nắm được kỹ thuật trình diễn thành thạo, đặc biệt là Mô-da. Cậu vừa có kỹ thuật tốt, có nhạc cảm và tỏ ra có tâm lý vững vàng trong khi biểu diễn. Chính vì thế Mô-da thường được ông Lê-ô-pôn giới thiệu trong các cuộc trình diễn âm nhạc ở San-buốc, sau đó là thành phố Viên- thủ đô nước Áo, và khắp các thành phố lớn của Châu Âu.

* * * * * * * * * * * * * * * * * *

Một buổi sáng trước khi đi làm, ông Lê-ô-pôn gọi Mô-da đến và trao cho cậu một bản nhạc. Ông muốn con trai mang bản nhạc tới nhà ông chủ rạp hát, đó là món quà của ông Lê-ô-pôn tặng con gái ông chủ rạp hát nhân dịp sinh nhật cô bé.

Mô-da hiếm khi được ra khỏi nhà một mình, mọi cảnh vật trên đường đều rất mới lạ với cậu bé. Trên đường tới nhà ông chủ rạp hát phải qua dòng kênh nhỏ, Mô-da dừng lại trên thành cầu và ngắm nhìn không chán mắt cảnh những chiếc thuyền trôi dưới dòng kênh. Bỗng làn gió mạnh thổi tới, bản nhạc rời khỏi tay Mô-da và bay nhanh xuống dòng kênh.

Mô-da buồn bã quay về nhà, cậu chưa biết sẽ nói gì với cha về chuyện vừa xảy ra. Ông Lê-ô-pôn đi làm chưa về. Mô-da ngồi vào đàn và chơi những khúc nhạc ngắn, trong đầu cậu chợt loé lên một suy nghĩ. Mô-da liền sáng tác một bản nhạc và mang nó đến nhà ông chủ rạp hát, thay cho bản nhạc đã rơi xuống dòng nước.

Hôm sau, ông Lê-ô-pôn tới chơi nhà ông chủ rạp. Trước khách mời, ông này tươi cười nói với ông Lê-ô-pôn:

- Bản nhạc của bác hay tuyệt. Bác có muốn nghe lại không?

Lê-ô-pôn nhã nhặn cảm ơn. Con gái ông chủ rạp đàn những nốt nhạc đầu tiên. Ông Lê-ô-pôn thoáng giật mình vì thấy đó không phải là khúc nhạc của mình. Ông tiến lại gần cây đàn và nhìn vào bản nhạc. Quả thật như vậy, đó không phải là bản nhạc của ông sáng tác, ông nhận ra những nốt nhạc được viết bởi cậu con trai mình.

Bản nhạc kết thúc, những tiếng vỗ tay vang lên. Ông chủ rạp hồ hởi nói:

- Đó là một khúc nhạc thật trong sáng và đáng yêu. Tôi và con gái rất hài lòng khi nhận được món quà này của bác.

Khi về tới nhà, ông Lê-ô-pôn gọi Mô-da tới và hỏi xem chuyện gì đã xảy ra. Cậu bé kể lại câu chuyện về bản nhạc rơi xuống dòng nước. Ông Lê-ô-pôn không mắng cậu bé, ông chỉ xoa đầu con trai và nói:

- Con đã viết được khúc nhạc thật hay, cha tự hào vì điều đó. Cha tin sau này con sẽ trở thành một nhạc sĩ lớn.

            Lời tiên đoán của ông Lê-ô-pôn đã sớm trở thành sự thật. Ít năm sau, Mô-da đã trở thành nhạc sĩ nổi tiếng khắp châu Âu và thế giới.

Câu chuyện trên xảy ra khi Mô-da mới 6 tuổi.

* * * * * * * * * * * * * * * * * *

Vào thời kỳ đó, thành Viên là nơi tập trung của những nhạc sĩ giỏi nhất thế giới, họ tìm đến đây để học tập, sáng tác âm nhạc và muốn khẳng định khả năng, danh tiếng của mình. Vì thế Viên được coi là thủ đô của nền âm nhạc Châu Âu, ở đây người dân rất yêu âm nhạc, thành phố có nhiều nhà hát, nhiều dàn nhạc xuất sắc và các nhạc sĩ tài ba. Tuy nhiên nhờ tiếng tăm nổi như cồn của thần đồng âm nhạc San-buốc, khi mới sáu tuổi, Mô-da đã cùng với chị gái được biểu diễn âm nhạc trong hoàng cung của nước Áo. Buổi diễn này có mặt rất đông cận thần, đại sứ các nước, có hoàng tử và công chúa tham dự  và đặc biệt là sự có mặt của nữ hoàng của nước Áo thời bấy giờ là Ma-ri-a Tê-rê-da. Phần đầu của buổi hoà nhạc do hai chị em cùng chơi, hoà tấu bốn tay trên cây đàn clavơxanh, trình độ biểu diễn của hai chị em đã đạt tới trình độ xuất sắc và nhận được sự tán thưởng rất nhiệt tình của giới thượng lưu nước. Điều này không hề đơn giản, vì những người ở đó đều có sự am hiểu về âm nhạc. Phần tiếp theo, Mô-da biểu diễn một mình những khúc nhạc tuỳ hứng mà cậu ưa thích. Những âm thanh vang lên, một làn âm thanh hoà quyện nhau như một dòng suối ùa ra tưởng chừng như bất tận, cung điện như tràn ngập ánh sáng, tràn ngập hương thơm và màu sắc của vô vàn loài hoa trên thế gian.

Khi tiếng đàn cuối cùng của Mô-da vừa tắt, nữ hoàng Tê-rê-da giơ cao hai bàn tay lên, cả cung điện như thừa lệnh của nữ hoàng, cùng rền lên những đợt vỗ tay tưng bừng, những lời ngợi khen ùa ra, tưởng như không thể dứt. Một nhạc sĩ già, vóc người nhỏ nhắn, ăn mặc trang trọng, bước đến gần cậu, đặt tay lên vai, nhìn thật lâu vào đôi mắt đang tập trung và gương mặt hơi tái đi vì cảm xúc của cậu bé. Ông khẽ kêu lên:

- Không thể ngờ được ! Thật là siêu phàm !

Nữ hoàng quay lại phía ông, nói gần như đáp lại lời ông:

- Đúng thế, ông Hay-đơn ! Đây thật sự là một hiện tượng siêu phàm !

Người đàn ông đứng đó, chính là nhạc sĩ Hay-đơn nổi tiếng và vĩ đại của thành Viên, Ông cúi đầu, nói với Mô-da bằng một giọng trầm, như nói với một người bạn tâm tình:

- Ta ngày xưa cũng đã sáng tác âm nhạc từ năm lên sáu đấy, cháu ạ. Nhưng ta khổ cực lắm ! Ta là đứa trẻ mồ côi, cháu hiểu không, tức là không còn cha mẹ nữa ấy mà ! Cháu giỏi lắm, nhất định cháu còn  có khả năng tiến rất xa.

Đúng lúc đó, hoàng tử Giô-dép, là con trai cả của Tê-rê-da, một người cũng có nhiều năm học tập âm nhạc, tiến lại trao cho Mô-da một cây violon và nói giọng thách thức:

- Cậu bé quê mùa, còn  đủ sức chơi thêm một bản nữa không ?

Mô-da nhìn thẳng vào mắt Giô-dép và đỡ lấy cây đàn. Sau khi biểu diễn nhiều, cậu đã rất mệt. Lướt nhìn quanh như muốn tìm một hình ảnh nào đó quen thuộc, ánh mắt cậu dừng lại trước công chúa út đang ngồi ngoan ngoãn trên chiếc đệm gần nữ hoàng. Cô bé mặc áo xa-tanh mầu hồng, thêu thùa rất đẹp. Cô có đôi mắt đầy thiện cảm, đang mở to nhìn Mô-da, trông cô giống như Lu-i-da, người bạn thân thiết nhất của Mô-da đang sống ở San-buốc. Cảm giác đó làm Mô-da vui hẳn lên, cậu nhắm mắt lại, nghiêng người, đưa chiếc ác-sê lướt trên dây đàn, một dòng âm thanh óng mượt và trong vắt như từ trên trời buông xuống, trong giây lát, căn phòng bỗng trở nên lặng tờ. Mô-da đã ứng tác bản nhạc thật hay, thật bất ngờ mà không hề chuẩn bị trước. Khi tiếng nhạc dứt, cậu phải nghiêng mình đáp lễ đến bốn năm lần mà tiếng hoan hô vẫn vang lên. Quay người lại phía nữ hoàng định chào lần cuối, bỗng nhiên, Mô-da thấy choáng váng, mọi vật chao đảo, cậu bước thêm một bước và ngã nhào xuống tấm thảm trên sàn.

Viên quan hầu đứng ở gần cửa kêu lên, vội bước tới, nhưng công chúa út đã nhanh hơn, cô vụt nhảy khỏi chỗ ngồi, chạy lại đỡ Mô-da dậy. Mô-da ngẩng đầu lên và nhìn thấy ánh mắt đầy ân cần, trìu mến đang nhìn mình tha thiết.

- Lu-i-da !- Mô-da buột miệng kêu lên.

- Không phải Lu-i-da đâu ! Tôi là Tô-ni ! Mà thôi, cậu đừng xấu hổ nhé ! Cái sàn này trơn lắm. Mọi ngày chơi ở đây, tôi vẫn bị ngã luôn ấy mà !

Những lời an ủi giản dị, thân tình ấy làm Mô-da muốn khóc lên vì cảm động. Cậu lập cập đứng thẳng dậy, không biết nói gì, nước mắt cứ định trào ra. Công chúa nắm tay Mô-da dắt cậu lại gần chiếc ghế của Tê-rê-da, nữ hoàng hỏi:

- Con có đau không ?

Mô-da nhìn công chúa Tô-ni với ánh mắt biết ơn, trả lời:

- Con không sao ạ ! Công chúa thật tốt bụng ! Khi lớn lên, lệnh bà cho cô ấy kết bạn với con được không ạ ? Con thích sẽ được chơi thân với cô ấy !

Tô-ni nói ngay:

- Sao lại không ? Thưa mẫu hậu, con cũng thích được chơi với cậu nhạc sĩ này. Mẫu hậu sẽ đồng ý chứ ?

Nữ hoàng Tê-rê-da trong lúc đang có tâm trạng phấn chấn liền cười và nói vui:

- Để sau này ta nhận nó vào cung dạy nhạc cho con nhé ! Sẽ tha hồ mà kết thân với nhau !

     Tức thì, công chúa  Tô-ni vòng tay ôm hôn mẹ, trông cô bé có vẻ rất sung sướng, còn  Mô-da thì đứng ngây người không biết sao.

 Nhưng về sau, tình bạn ấy chẳng bao giờ diễn ra, Mô-da không thể hình dung nổi, công chúa Tô-ni xinh đẹp và tốt bụng ngày ấy, sau này lại trở thành một hoàng hậu hết sức thâm hiểm của nước Pháp. Công chúa Tô-ni lớn lên, trở thành hoàng hậu Ma-ri Ăng-toan-nét, một người có nhiều tham vọng, đầy quyền hành và những mưu mô ghê gớm. Hai năm sau khi Mô-da qua đời, hoàng hậu Ma-ri Ăng-toan-nét bị Toà án Cách mạng Pháp xử tử vào năm 1793, cùng với chồng là nhà vua Lu-y thứ 16.

* * * * * * * * * * * * * * * * * *

Những ngày tháng Hai năm 1790  ở Viên rất lạnh giá. Gió rét căm căm. Buổi tối, một làn sương mỏng bao trùm lên thành phố, càng tăng vẻ u ám. Một cỗ xe ngựa mang biểu trưng hoàng gia nước Áo dừng lại trước cửa nhà Mô-da, trong xe không thắp đèn, hai vị quan hầu của hoàng cung vội vã bước xuống, chạy vội vào phòng Mô-da, gõ cửa. Mô-da đang ngồi sáng tác bên cây đàn dương cầm, một ngọn nến lớn toả sáng trước mặt.

-Thưa nhạc sư- Viên quan hầu nói- Thánh thượng mệt nặng, Người sai chúng tôi đến triệu ngài, xin hãy đi ngay cùng chúng tôi.

Mô-da ngạc nhiên đứng dậy, vội vàng mặc áo khoác, trở vào dặn vợ- Công-xtăng mấy câu, rồi bước ra xe. Anh được đưa tới Suên-brun, lâu đài của hoàng gia nước Áo.

Đêm lạnh lẽo mù mịt. Lối sỏi quen thuộc như đưa anh trở về quá khứ của mình. Lòng buồn vui lẫn lộn, xen cả chút mệt mỏi, lo âu. Giô-dép cần gì đến anh, một nhạc sĩ nghèo nàn, quẫn bách, trong đêm giá rét buồn bã này ?

Mô-da được đưa tới một căn phòng lớn, có thắp những ngọn nến to. Một chiếc giường rộng trải đệm màu trắng, trên đó là một người đàn ông khổ người to lớn nhưng gầy guộc, khuôn mặt lúc thì đỏ vì sốt cao, lúc lại tái vì những cơn đau. Mấy vị ngự y chăm sóc sức khoẻ cho nhà vua, đang ngồi trên những chiếc ghế nhỏ ở một góc, thì thầm trao đổi gì với nhau. Thấy Mô-da bước vào, họ đứng dậy chào. Một người đến bên hoàng đế, thông báo, Mô-da được lệnh cho tiến lại gần.

Hướng về phía Mô-da, vua Giô-dép nói thều thào:

- Ta muốn anh đánh cho ta nghe những bản nhạc của anh, bản nhạc nào thật ấm áp, yêu đời, bởi vì lúc này, ta đang phải đơn độc chiến đấu với thần chết !

Mô-da cúi thấp người, tỏ ý tuân lệnh, những người hầu cận đẩy chiếc đàn piano vào phòng. Ngồi xuống ghế, anh đặt tay lên phím đàn, nhớ lại khúc nhạc tuổi thơ ấu mình hay dạo. Ngẩng mặt lên, anh thấy những bức chân dung rất lớn treo trên tường. Có cả chân dung nữ hoàng Tê-rê-da và công chúa út Tô-ni thời con gái. Anh bỗng quên đi không khí bệnh tật xung quanh, vẻ mặt khắc khổ của nhà vua, quên đi những ánh nến lung linh như ma quái trên tường, quên đi cả bao điều cay cực, bất công mà đời anh đã phải gánh chịu. Anh chìm vào khúc nhạc tuyệt vời của mình. Âm thanh tràn khắp phòng như những tia lửa rực sáng, ấm áp. Khúc nhạc tươi rói, mạnh mẽ, tuôn trào từ trong tâm hồn, lướt trên những ngón tay, chứa đầy sức sống tuổi thanh xuân. Mô-da như đang nhìn thấy mùa xuân đã xa rồi ở Viên, hoa táo và hoa mận nở trắng trong các khu vườn xanh mát, màu nắng mai trên những ngọn tùng cao óng ánh, như những ngọn tháp nhọn dát đầy vàng. Anh nhớ lại tuổi thơ kỳ diệu  của mình, một thần đồng âm nhạc, khi ấy Giô-dép đang còn là một thái tử đầy hiếu thắng, đã thách thức đưa cho anh cây đàn violon để thử tài. Anh đã thắng cuộc, nhưng rồi chóng mặt ngã nhào xuống thảm, và cô bé Tô-ni dịu dàng hồi ấy chưa là hoàng hậu nước Pháp, đã chạy đến nâng anh dậy. Trí tưởng tượng và âm nhạc đưa anh đi mãi. Mô-da thấy lại mẹ anh, vẻ mặt hiền hậu, thường thích ủ tay cho con bằng những củ khoai tây nướng nóng, trước khi anh dạo đàn. Anh thấy lại chị Nan-nếc, hồi đó còn xinh đẹp, thông minh, còn tài năng biết bao nhiêu ! Và ông bố anh, ngày ấy đang tràn đầy nghị lực, vui vẻ tự tin, dắt tay anh, đưa anh đi tới những ngả đường rộng mở trước ngưỡng cửa cuộc đời.

Mô-da chợt choàng tỉnh khi nghe tiếng thở mạnh của vua Giô-dép. Anh quay sang và nhìn thấy những giọt nước mắt đang lăn trên khuôn mặt gầy guộc của đức vua.

- Hãy dừng lại, Mô-da, ta xin cảm ơn anh- Nhà vua nói chậm rãi, nhưng rõ ràng, ngừng một lát, ông nói tiếp- Anh là người đã biết sống xứng đáng, vì cái đẹp của cuộc đời ! Còn ta, ta chỉ biết sống vì trật tự của nó ! Ta đã làm hết sức, nhưng tới phút này, trước khi nằm xuống, ta cũng chưa rõ đã đạt tới mục đích hay chưa ? Ta có tất cả, quyền lực, triều đình, quân đội, đất đai. Còn anh, anh có trái tim và đôi tay như bao người khác. Nhưng biết đâu, những thế kỷ sau, dân tộc áo sẽ đánh giá anh hơn cả ta ! Ta chưa bao giờ có cảm giác nhỏ bé trước quyền lực, những có những giây phút, ta thấy mình thật nhỏ bé trước cái đẹp vĩnh cửu của cuộc đời.

Mô-da giữ yên đôi tay trên phím đàn, xung quanh là một sự im lặng thiêng liêng. Anh hiểu là nhà vua đang thốt ra những lời tự thú của một người đang hấp hối, không còn là lời nói của một ông vua, với kẻ thần dân nghèo hèn. Trong thâm tâm anh vẫn kính trọng Giô-dép, đó là một ông vua có ý chí, có hiểu biết và khao khát làm được những công việc vĩ đại. Ông muốn trở thành minh quân, những có lẽ đã không đạt được. Hơn bao giờ hết, anh cảm thấy buồn rầu sâu sắc, thậm chí còn thương hại ông ta, mặc dù đối với anh, đó là con người đang có địa vị cao sang tột đỉnh.

Nhà vua Giô-dép qua đời ngày 20/2/1790. Những lời nói của Giô-dép ngày ấy, đến nay đã trở thành sự thật, lịch sử đánh giá rất cao vai trò của Mô-da. Mô-da là con người của cả nhân loại, trong khi Giô-dép chỉ là một ông vua của nước Áo.

* * * * * * * * * * * * * * * * * *

Vào một đêm tháng Năm, năm 1791, có một cơn mưa giông dữ dội đổ xuống thành Viên. Ngôi nhà của Mô-da chìm trong im lặng khi mọi người đều đã đi ngủ, anh bước xuống phòng khách để tắt ngọn nến cuối cùng. Chợt nghe thấy tiếng gõ cửa khá mạnh, Mô-da thầm ngạc nhiên vì không hiểu trong đêm mưa to, gió lớn lại rất khuya khuắt như thế này, người nào có việc gì mà tìm đến anh. Dừng ở giữa phòng, nghe tiếng gõ vẫn vang lên, Mô-da do dự bước đến gần cánh cửa, tay cầm ngọn  nến, anh cất tiếng:

- Ai thế ?

Lẫn trong tiếng mưa rơi, Mô-da vẫn nghe rõ tiếng người rành rọt:

- Xin hãy mở cửa ? Tôi muốn gặp ngài Mô-da.

- Tôi đây, nhưng xin ông đi cho, đã khuya rồi lắm. Nếu có việc gì, ngày mai mời ông quay lại.

- Thưa ngài, việc của tôi rất gấp, chỉ xin gặp ngài ít phút thôi, tôi hứa sẽ không dám làm phiền ngài lâu.

Mô-da rất do dự những nghe lời nói khẩn thiết của người lạ, anh kéo then cài, hé cánh cửa, nhìn ra bên ngoài. Đúng lúc ấy, một ánh chớp loé lên, làm Mô-da nhìn rõ hình dáng người lạ mặt, khiến anh rùng mình lùi lại. Đó là một người cao lớn, chắc phải là đàn ông, ông ta đội chiếc mũ che mưa rộng vành, mặc trang phục toàn bộ bằng vải mầu đen. Ghê gớm hơn, nhờ ngọn nến và ánh chớp loé sáng, Mô-da còn thấy ông ta che mặt bằng chiếc khăn đen, dáng vẻ thật lạ lùng, đặc biệt. Định khép cửa lại, nhưng không kịp, người lạ mặt đã giơ tay giữ lấy cánh cửa, giọng nói của ông ta trầm xuống:

- Thưa ngài, xin đừng sợ, tôi có lí do để mang trang phục như thế này. Nhưng đảm bảo với ngài, tôi sẽ không làm điều gì khiến ngài phải phật ý. Hãy để tôi vào phòng, xin ngài hãy nghe tôi nói.

Nghe những lời này, Mô-da đã bình tâm lại đôi chút, khép cánh cửa lại. Mô-da quay vào phòng và đối mặt với con người lạ lùng đó.

- Tôi xin được trao đổi với ngài câu chuyện của tôi trong phòng riêng được không ? Tôi muốn được giữ kín chuyện này.

- Tôi không có phòng riêng, vả lại mọi người trong nhà đã ngủ hết rồi, có chuyện gì, xin ông nói ngay cho- Ngập ngừng rồi Mô-da hỏi- Ông có muốn ngồi không ?

Người lạ mặt quay người nhìn xung quanh, những giọt nước mưa từ chiếc mũ rộng vành của ông ta bắn ra thành một vòng. Tiến lại gần hơn một  bước, ông ta nói khẽ :

- Tôi xin được vào ngay câu chuyện của tôi.- Dừng lại, ông ta nói tiếp - Để giữ bí mật cho việc này, xin ngài đừng để ý đến cách ăn mặc của tôi. Thưa nhạc sĩ, tôi cũng làm nghề sáng tác âm nhạc, tôi làm việc đó cho một nhà thờ ở cách xa vùng này. Thưa ngài, tôi có một gia tài lớn, nhưng tôi mới mắc phải một căn bệnh nguy hiểm, căn bệnh đã đến giai đoạn cuối và thời đại này chưa có cách chữa. Bác sĩ nói, có thể tôi chỉ sống được ít ngày nữa. Vậy là tôi sẽ chết mà không để lại dấu ấn gì cho cuộc đời, những bản nhạc tôi viết, chưa bao giờ gây được tiếng vang nào cả. Xin hãy nhận lời cho tôi việc này. Hãy viết một bản nhạc và bán nó cho tôi, tôi biết ngài đang rất khó khăn, nhưng với số tiền của tôi, ngài sẽ vượt qua được những khó khăn đó.

- Tại sao ông lại chọn tôi ? Ông cần bản nhạc như thế nào ?

- Bởi vì ngài đang là người giỏi nhất ? Tôi cần một Khúc cầu hồn (Requiem). Hãy viết một bản cầu hồn thật đặc biệt, có 12 chương. Làm nhanh cho tôi, đừng để bất kỳ ai biết và ngài sẽ nhận được những gì xứng đáng.

Trên bàn tay đi găng tay mẫu đen của người đàn ông kia, từ lúc nào đã xuất hiện một túi tiền, bước thêm vài bước, ông ta đặt nó lên bàn. Rồi ông ta đi ra cửa, quay lại, nói bằng giọng nhẹ nhàng, nhưng rất rõ:

- Xin hãy giữ kín cho. Một bản cầu hồn có 12 chương. Ông ta kéo cửa và bước vào màn đêm.

Gió lạnh thổi ùa vào, Mô-da vội bước lại, đóng cánh cửa, anh nhìn ra ngoài, thấy cỗ xe ngựa đang lăn bánh rất nhanh giữa trời mưa, anh ngạc nhiên vì chẳng nghe thấy cả tiếng vó ngựa.

Mô-da quay vào và ngồi xuống ghế, im lặng hồi lâu, anh bỗng cảm thấy mệt mỏi rã rời, mọi việc diễn ra như một giấc mơ, Mô-da thầm nghĩ. Nhưng nhìn thấy túi tiền nằm nghiêng trên bàn, anh thở dài, vì hiểu rằng đó không phải là giấc mơ mà là sự thật.

Với khoản tiền 50 đuy-ca đó, gia đình Mô-da đã có điều kiện trang trải, mua sắm những vật dụng cần thiết. Nhưng kể từ hôm đó, hình ảnh về con người lạ mặt và yêu cầu lạ lùng của ông ta cứ ám ảnh Mô-da mãi. Vội vàng hoàn thành xong những bản nhạc khác đang viết dở, Mô-da suy nghĩ và bắt đầu viết khúc nhạc cầu hồn, với cảm giác như mình đang mắc vào một món nợ rất lớn. Hình ảnh người đàn ông lạ mặt thường xuyên xuất hiện trong tâm trí của Mô-da và anh liên tưởng đến ông ta giống như thần chết đang đến đòi nợ mình. Rồi có những khi anh tự hỏi, mình đang viết khúc cầu hồn này cho ai, cho con người lạ lùng đó hay để cầu hồn cho chính mình. Sức khoẻ của anh trước đây đã rất yếu, lại càng suy sụp đi từ đó.

Người lạ mặt còn quay lại thêm hai lần nữa, vẫn vào những lúc đêm rất khuya, và vẫn với bộ trang phục kỳ quái của mình. Ông ta tỏ vẻ hài lòng với những ý tưởng  và những khúc nhạc Mô-da đã viết xong, nhưng vẫn hối thúc anh phải làm nhanh hơn nữa. Mô-da nhận được số tiền lớn hơn so với lần trước, và nhờ thế, vợ anh là Công-xtăng có điều kiện đi chữa bệnh.

Những ngày cuối đời, Mô-da đã làm việc với mức độ phi thường, anh dồn sức vào việc hoàn thành bản cầu hồn, anh muốn đó sẽ là một bản nhạc vĩ đại. Tuy mang tính chất cầu hồn, nhưng bản nhạc phải toát lên tấm lòng yêu cuộc sống, yêu con người bi thiết, bản nhạc mà Mô-da có dự cảm là đang đang dành cho chính bản thân mình.

Đêm 19/11/1791, khi Mô-da mới chỉ viết hết chương thứ tám trong bản cầu hồn, một cơn sốt nặng ập đến, tay và chân anh cứng lại, cử động rất khó khăn, nhưng trí tuệ vẫn rất minh mẫn.  Ý nghĩ đau khổ và bất lực vì phải bỏ lại trên đời một gia đình nghèo túng, bơ vơ, làm Mô-da day dứt không nguôi.

Ngày 3/12, biết mình đã đi đến chặng cuối của cuộc đời, nằm trên giường bệnh trong nhà, Mô-da cho gọi Đuy-xmay-ê là người học trò thông minh và đáng tin cậy nhất đến. Đưa Đuy-xmay-ê tập bản thảo khúc cầu hồn, anh đã kể lại cho người học trò  nghe toàn bộ câu chuyện về sự ra đời của bản nhạc này. Mô-da nhờ Đuy-xmay-ê viết nốt bốn chương còn lại để hoàn tất bản nhạc, anh hướng dẫn Đuy-xmay-ê viết theo phác thảo và ý đồ của mình và dặn, nếu người lạ mặt đó tìm đến, hãy đưa trả bản nhạc và không nhận thêm tiền của ông ta nữa.

            Mô-da qua đời vào ngày 5/12/1791. Nhớ lời thầy dặn, sau đó Đuy-xmay-ê  đã viết tiếp bốn chương còn lại của bản nhạc này một cách khá xuất sắc. Giữ bản nhạc này một thời gian, Đuy-xmay-ê dặn vợ Mô-da rằng, nếu thấy người đàn ông nào đến đòi bản cầu hồn, hãy chỉ ông ta tới gặp Đuy-xmay-ê. Chờ đợi mãi, nhưng con người bí ẩn đó đã không xuất hiện, có thể ông ta sợ câu chuyện bị vỡ lở, hoặc có thể ông ta đã chết trước Mô-da. Cuối cùng, Đuy-xmay-ê đưa trả bản nhạc cho vợ Mô-da là Công-xtăng, và kể lại tất cả. Về sau, bản nhạc được gửi tới nhà in và vẫn giữ tên tác giả là Mô-da. Câu chuyện từ đó lan rộng ra và người ta thường đặt câu hỏi. Trong cuộc đời mình, Mô-da đã bán bản nhạc nào chưa, hay Khúc cầu hồn là bản duy nhất Mô-da định bán và chưa thực hiện được. Dù sao, bản  Khúc cầu hồn vẫn là sáng tác cuối cùng của nhạc sĩ vĩ đại, và nó xứng đáng là một kiệt tác trong nền âm nhạc thế giới.

* * * * * * * * * * * * * * * * * *

Đến những phút cuối trong đời, Mô-da vẫn khăng khăng từ chối không để thầy tu đến rửa tội. Trái lại ông chỉ ao ước: “ Trời ơi ! Giá có ai kịp đánh cho tôi được nghe một đoạn nhạc trong vở Cây sáo thần của tôi, thì hay quá ! “

Nhạc trưởng Rô-xne là bạn của Mô-da, đêm ấy, mới ở buổi biểu diễn vở nhạc kịch Cây sáo thần, từ nhà hát trở về, rẽ vào thăm Mô-da và kể cho ông nghe kết quả của đêm biểu diễn. Mô-da nhắc lại đề nghị và Rô-xne ngồi ngay xuống chiếc piano, đánh cho ông nghe bản tình ca của chàng Pa-pa-ghê-nô, chàng nông dân hiền lành và vui tính. Tiếng đàn vang lên, những âm thanh ríu rít, vui vẻ như nhảy nhót trong thinh không, và Mô-da hài lòng thiếp đi trong nụ cười. Đêm ấy, ông mê sảng trong cơn sốt cao và không tỉnh lại được nữa. Lúc mười hai giờ đêm, khi tiếng chuông nhà thờ Xanh Ê-chiên vẳng lại, ông bừng tỉnh, mở mắt, nhưng cái nhìn đã trở nên trống rỗng, như nhìn vào cõi hư vô. Ông  nhắm mắt lại như ngủ, yên lặng, không kêu rên một lời, và lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng vào  rạng sáng ngày 5/12/1791.

Cái chết của Mô-da là một tổn thất nặng nề với nền âm nhạc của nước Áo và với thành Viên, nhạc sĩ vĩ đại này qua đời khi đang trong giai đoạn sung sức nhất của sự nghiệp sáng tác âm nhạc. Tuy nhiên, do không cộng tác và có những bất đồng với giáo hội lúc còn sống, vị tổng giám mục nhất định không cho phép chôn thi hài của Mô-da ở nghĩa trang chính trong thành phố. Gia đình buộc phải an táng thi hài của ông ở nghĩa trang Xanh Mac, một nghĩa trang dành cho người nghèo, nôi chôn cất những kẻ lang thang, cơ nhỡ. Đó lại là một sự bất công nữa dành cho Mô-da, sau bao nhiêu điều tốt đẹp ông đã để lại cho cuộc sống.

Buổi chiều ngày 6/12, mây đen và giá lạnh bao phủ khắp bầu trời, không khí u tối và ảm đạm lạ lùng. Vì rất yếu, nên vợ Mô-da không thể đi đưa tang chồng. Bà phải nhờ những người bạn và học trò của Mô-da lo liệu giúp. Lúc đầu, khi đám tang rời khỏi ngôi nhà của Mô-da, chầm chậm đi trên các đường phố, có  rất đông người đi theo linh cữu, họ muốn được tiễn biệt người nhạc sĩ tài năng nhất của thành Viên,  con người mà họ mến mộ, yêu quí. Nhưng thời tiết hôm đó quá khắc nghiệt, trước khi cỗ xe bắt đầu chuyển bánh, bão tuyết đã nổi lên. Vì thế, cỗ xe tang do ngựa kéo, càng tiến về phía ngoại ô, số người đi theo ngày càng thưa dần. Khi chiếc xe vượt qua chiếc cầu, ranh giới giữa nội thành và ngoại thành, Đuy-xmay-ê  và những học trò khác của Mô-da quay đầu nhìn lại, họ thấy số người đi theo chỉ còn rất ít. Sang tới ngoại ô, cỗ xe phải tiếp tục lăn bánh trên con đường lầy lội, gập ghềnh, hai bên đường chỉ có những cánh đồng hoang, hiu quạnh. Giông bão ở đây còn dữ dội hơn nhiều so với trong thành phố, tuyết bay mù mịt khắp nơi, đến nỗi chỉ đứng cách nhau vài mét đã không nhìn rõ mặt. Chỉ còn một đoạn đường ngắn nữa là vào tới nghĩa trang, bỗng nhiên chiếc xe sa xuống vũng lầy, không thể đi tiếp được nữa. Người thì đẩy, người thì kéo, người thì thúc ngựa, nhưng đường quá trơn nên cỗ xe chẳng hề nhúc nhích. Có ai đó chợt nghĩ ra, đề nghị mọi người tạm tìm chỗ trú mưa, đợi mưa gió ngớt đi, sẽ mang thi hài của Mô-da vào trong nghĩa trang chôn cất.

Tất cả nhanh chóng tản ra tìm chỗ trú mưa, để lại cỗ xe nằm giữa đường, nhưng quanh đó chẳng có chỗ nào có thể dừng chân được.  Trời bắt đầu sâm sẩm tối, tiếng gió rít và tiếng tru của những con chó hoang vẳng lại nghe ghê rợn, ngay cả những cái cây mà mọi người chạy đến để trú chân cũng bị vặn vẹo, nghiêng ngả. Không thể tiếp tục đứng như thế được nữa, họ bảo nhau chuyển thi hài Mô-da vào trong nghĩa trang chôn cất, để có thể sớm quay về thành phố. Mọi người cất tiếng gọi nhau và cùng chạy lại cỗ xe ngựa. Đến nơi, họ vô cùng ngạc nhiên vì không hiểu bằng cách nào, cỗ xe đã vượt qua vũng lầy và để tới cổng nghĩa trang, nhưng trên xe ngựa, thi hài của Mô-da không còn nữa. Chỉ thấy đôi ngựa đang dậm chân, vùng vẫy, có vẻ rất bồn chồn, sợ sệt. Những người phu đào huyệt hỏi nhau, xem ai mang quan tài vào nghĩa trang hay chưa. Nhưng tất cả cùng quả quyết, không ai làm việc đó, vả lại trong lúc mưa bão dữ dội như thế thì chẳng ai có thể làm nổi. Hai người học trò của Mô-da chạy vào trong nghĩa trang để tìm kiếm, sau ít phút họ quay ra và nói, không phát hiện ra điều gì trong đó.

Cuối cùng thì mọi người cũng chẳng muốn ở lại, để tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra. Họ giục nhau mau chóng quay trở về, giống như  tháo chạy khỏi nơi mưa gió, quạnh hiu và bí ẩn này. Những ngày tiếp theo, bão tuyết và giông tố liên miên, chẳng ai lai vãng đến nghĩa địa nữa. ít lâu sau, vài học trò thân tín của Mô-da cùng vợ ông có quay lại nghĩa trang để tìm hiểu thêm, họ có hỏi những người phu đào huyệt, những tất cả đều lắc đầu, không thể giải thích được điều gì đã xảy ra.

Từ đó đến nay, đã có bao nhiêu cuộc tìm kiếm ngôi mộ của Mô-da, nhưng không đạt được kết quả. Thi hài của Mô-da có thể đã được trả về với đất, hoà lẫn với cát bụi, hoàn toàn vô danh, vô tăm tích, giống như bao nhiêu người chết nằm trong nghĩa địa này.

Sau này, khi tên tuổi Mô-da ngày càng trở nên nổi tiếng, tại nghĩa trang Xanh Mac, người ta đã xây dựng một ngôi mộ rất đẹp để tỏ lòng biết ơn nhạc sĩ tài năng này. Ngày ngày, những người từ khắp nơi trên thế giới đến đây, họ đặt lên mộ ông những bó hoa tươi thắm và cùng im lặng, như muốn để nghe thấy những điệu nhạc tuyệt vời của ông. Tuy nhiên, trong ngôi mộ trang trọng đó không có thi hài của Mô-da. Ngôi mộ đặc biệt đó cũng giống như bao nhiêu điều đặc biệt khác trong cuộc đời Mô-da, mãi nhắc nhở chúng ta không quên được một  tài năng âm nhạc kiệt xuất trong lịch sử nhân loại.

Khách vãng lai đã xóa

       vãi ca5

Khách vãng lai đã xóa
Vinh Quang
Xem chi tiết
Phạm Lê Thúy Anh
22 tháng 9 2021 lúc 10:22

Ông tên thật là Nguyễn Tăng Hích, sinh năm 1928, quê quán Hải Lăng, Quảng Trị. ... Năm 1935 Trần Hoàn theo học tại Quốc học Huế. Ông tự học nhạc và bắt đầu sáng tác từ năm 16, 17 tuổi. Ông bắt đầu nối tiếng với ca khúc Sơn nữ ca viết năm 20 tuổi khi đang ở chiến khu Quảng Bình