Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
nguyễn huy tuấn
Xem chi tiết
phoenix
16 tháng 12 2019 lúc 20:50

- Nội dung: Bức tranh cảnh vật làng quê trầm lặng mà ko đìu hiu. Thiên nhiên và con người hòa quyện một cách nên thơ. Qua đó, ta thấy cái nhìn "vãn vọng" của vị vua thi sĩ có tâm hồn gắn bó máu thịt vs cuộc sống bình dị...

- Nghệ thuật: + Kết hợp điệp ngữ và tiểu đối sáng tạo.                                                                                                             + Nhịp thơ êm ái, hài hòa.                                                                                                                                 + Sử dụng ngôn ngữ miêu tả đậm chất hội họa.

Khách vãng lai đã xóa
Nguyễn Thị Xuân Tân
Xem chi tiết
Nguyễn Ý Nhi
Xem chi tiết
Nya arigatou~
Xem chi tiết
Linh Phương
9 tháng 11 2016 lúc 20:47

bài Sông núi nước Nam có 2 nội dung:
- khẳng định chủ quyền lãnh thổ và độc lập dân tộc
- kêu gọi tinh thần chiến đấu để giữ vững chủ quyền đó và thể hiện lòng căm ghét quân thù
 

Linh Phương
9 tháng 11 2016 lúc 20:46

Nội dung:

Cũng như bài Sông núi nước Nam, bài Phò giá về kinh
- Hai câu đầu nêu rất vắn tắt chiến thắng lẫy lừng của dân tộc trong cuộc chiến tranh chống quân Mông – Nguyên xâm lược.
- Hai câu sau là lời động viên xây dựng, phát triển đất nước trong cảnh thái bình, đồng thời khẳng định sự bền vững muôn đời của đất nước.
Tuy cách nhau đến hai thế kỉ nhưng hai bài thơ Sông núi nước Nam và Phò giá về kinh có nhiều điểm tương đồng:
- Về nội dung: cả hai bài đều thể hiện khí phách kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
- Về hình thức: cả hai bài đều ngắn gọn, súc tích mà mạnh mẽ, cô đúc mà thâm trầm. Cảm xúc hoà trong ý tưởng, được thể hiện qua ý tưởng.
Bài thơ Phò giá về kinh có số câu là 4, mỗi câu 5 chữ
Là thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật

Linh Phương
9 tháng 11 2016 lúc 20:48

Nghệ thuật của bài 1:

nghệ thuật

+được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt

+ngôn ngữ thơ bình dị mà sâu sắc, bố cục chặt chẽ

+giọng thơ hào sả, mạnh mẽ, hình thức diễn đạt khô thúc và ngắn gọn. Đó chính là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt Nam bằng thơ

Nguyễn Thế Mãnh
Xem chi tiết
Linh Phương
1 tháng 10 2016 lúc 19:13

     Quê hương là nơi bắt nguồn cuộc sống của chúng ta là nơi có những người luôn sẵn sàng giúp đỡ bảo vệ động viên chúng ta. Tôi yêu quê hương không chỉ nó đẹp mà nó còn mang đậm tình người với những câu chuyện cổ tích của bà. Với tiếng cười nói của trẻ thơ. Là nơi tôi có những kỉ niệm cùng với những đứa bạn. Cùng thả diều chơi những trò chơi dân gian. Quê hương là nơi mỗi khi tôi đi xa tôi nhớ về. Cũng là nơi cho tôi nguồn động lực để tiếp tục bước đi. Quê hương là con đường làng thân thuộc với mái đình và lũy tre. Là nơi gắn những đôi trai tài gái sắc với nhau. Quê hương tôi đẹp lắm, không phải đẹp vì tên gọi của nó mà nó đẹp bởi bên trong con người và phẩm chất cao quý.

Chúc bạn học tốt!hihi

Nguyễn Trần Thành Đạt
1 tháng 10 2016 lúc 21:20

"Quê hương là con diều biếc, tuổi thơ con thả trên đồng, quê hương là con đò nhỏ, êm đềm liễu rủ màn tre" là những câu thơ nói về quê hương. Quê hương là một nơi mà con người sinh ra, lớn lên và gắn bó với nọ, có thể nói quê hương là nơi sinh ra tình cảm của con người. 

Lê Dung
1 tháng 10 2016 lúc 19:13
Trần Nhân Tông (1258 – 1308) tên thật là Trần Khâm, con đầu của vua Trần Thánh Tông. Sau khi lên ngôi, ông tỏ ra là một vị vua nổi tiếng khoan hòa, nhân ái và yêu nước. Ông đã cùng vua cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên – Mông thắng lợi vẻ vang (1285, 1288). Vốn theo đạo Phật và là người sáng lập dòng thiền Trúc Lâm theo hướng Việt Nam hóa đạo Phật, cuối đời, vào năm 1298, ông đi tu và trụ trì ở chùa Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay). Vua Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của đời Trần. 

Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ta được ông sáng tác trong một dịp về thăm quê. Các vua đời Trần cho xây ở quê một hành cung gọi là cung Thiên Trường để thỉnh thoảng về nghỉ ngơi. Mỗi dịp về đó, các vua thường có thơ lưu lại, nay còn giữ được vài bài, trong đó có bài này. Ngày tháng sáng tác không thấy ghi cụ thể nhưng chắc chắn bài thơ ra đời sau chiến thắng quân Nguyên – Mông lần thứ ba không lâu, vào giai đoạn cuộc sống yên lành của nhân dân đang được khôi phục lại (nghĩa là vào khoảng những năm 90 của thế kỉ XIII).

Phiên âm chữ Hán: Thiên Trường vãn vọng
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền. Dịch nghĩa: Buổi chiều ở phủ Thiên Trường trông ra
Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói phủ,
Cảnh vật bóng chiều chập chờn nửa như có nửa như không.
Mục đồng lùa trâu về nhà tiếng sáo véo von 
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng. Dịch thơ: Trước xóm sau thôn tựa khói lồng 
Bóng chiều man mác có dường không 
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết 
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Ngô Tất Tố dịch) Bài thơ tả cảnh buổi chiều ở phủ Thiên Trường. Đây là khung cảnh một vùng quê tĩnh lặng như muôn vàn cảnh quê khác lúc chiều buông. Chỉ đếm được vài đường nét: mấy mái nhà tranh thấp thoáng trong làn sương mờ mờ như khói; dăm trẻ mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu thổi sáo, dẫn trâu về chuồng; vài đôi cò trắng chao nghiêng cánh chấp chới liệng xuống đồng… Hai câu thơ đầu: Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
(Trước xóm, sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không). Đây là cảnh hoàng hôn, sự vật trước xóm, sau thôn chìm dần vào màn sương đang từ từ buông xuống, hòa lẫn với những làn khói tỏa ra từ mái bếp. Trong bóng chiều man mác, mọi vật thấp thoáng ẩn hiện, dường như có, dường như không. Bức tranh quê với những sắc màu quen thuộc của ánh tà dương vàng còn rớt lại trên ngọn tre, của sương tím, cò trắng, lúa xanh… chỗ đậm, chỗ nhạt cùng tiếng sáo véo von gợi cảm giác về một cuộc sống thanh bình đã trở lại sau bao năm binh lửa. Hình ảnh trong bài thơ không có gì đặc biệt, rất giản dị, bình thường nhưng lại gây xúc động lạ lùng. Tại sao như vậy? Bởi dân ta đã phải đổ xương máu, phải chịu bao đau thương, tang tóc mới giành lại được cuộc sống yên ấm từ tay lũ giặc dữ xâm lược. Hai câu thơ cuối: Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Mục đồng sáo vẳng trâu về hết 
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng). 

Nhà thơ đã lựa chọn được hai hình ảnh tiêu biểu cho cảnh đồng quê lúc chiều về : trẻ chăn trâu thổi sáo dẫn trầu về chuồng và cò trắng từng đôi sà xuống cánh đồng đã vắng bóng người.

 

Lời thơ không đơn thuần là kể và tả mà nó còn biểu hiện một xúc cảm kì lạ và một niềm vui đang xốn xang, rạo rực trong lòng nhà thơ. Ngắm đàn trâu no căng đang chậm rãi nối đuôi nhau về làng, trên lưng vắt vẻo mấy chú mục đồng ung dung thổi sáo; phóng tầm mắt ra xa (vọng), thấy trên thảm lúa xanh, dăm ba cánh cò trắng muốt đang chao liệng, thử hỏi lòng nào không xao xuyến, bâng khuâng, không dạt dào yêu mến?!

Cảnh tượng buổi chiều ở nông thôn được tác giả phác họa rất đơn sơ nhưng vẫn đậm đà sắc quê, hồn quê. Điều đó chứng tỏ tác giả là vị vua xuất thân từ nông dân, đã cùng lăn lộn, cùng vào sinh ra tử với dân để đánh đuổi ngoại xâm, giành lại cho đất nước cảnh sống thanh bình. Dù có địa vị tối cao nhưng tâm hồn nhà vua – thi sĩ vẫn gắn bó máu thịt với quê hương và dân chúng. Bài thơ tuy ngắn nhưng nó xứng đáng là thơ của mọi thời bởi cho dù mấy trăm năm đã trôi qua mà sức mạnh rung cảm và chinh phục lòng người của nó vẫn nguyên vẹn như thuở ban đầu.
Nguyễn Hồng Hạnh
Xem chi tiết
Lương Huyền Ân
10 tháng 12 2018 lúc 12:56

Bạn tham khảo nhé!!!

- Nội dung: Bức tranh cảnh vật làng quê trầm lặng mà ko đìu hiu. Thiên nhiên và con người hòa quyện một cách nên thơ. Qua đó, ta thấy cái nhìn "vãn vọng" của vị vua thi sĩ có tâm hồn gắn bó máu thịt vs cuộc sống bình dị...

- Nghệ thuật: + Kết hợp điệp ngữ và tiểu đối sáng tạo. + Nhịp thơ êm ái, hài hòa. + Sử dụng ngôn ngữ miêu tả đậm chất hội họa.

Lê Nguyễn Phương Anh
Xem chi tiết
Nguyễn đức mạnh
Xem chi tiết
Lê Dung
2 tháng 10 2016 lúc 14:12

  Chương trình Ngữ văn cấp Trung học cơ sở (THCS) đã đưa vào thêm một số tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, trong đó có bài Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông. Có lẽ người làm chương trình đã cân nhắc nhiều khi phải chọn một trong ba tác phẩm: Xuân hiểu, Hạnh Thiên Trường hành cung và Thiên trường vãn vọng. Hạnh Thiên Trường hành cung là một tuyệt tác song hơi khó đối với học sinh THCS. Xuân hiểu thật trong sáng, dễ hiểu, song lại không thể hiện được nhiều phương diện tư tưởng và tình cảm của tác giả như Thiên Trường vãn vọng.

Người viết phần này ở Sách giáo khoa đã chọn bản dịch của Ngô Tất Tố:

Trước xóm sau thôn tựa bóng lồng,

Bóng chiều man mác có dường không.

Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng(1).

Bản dịch khá hay, tuy  nhiên, khi có điều kiện, nên cân nhắc so sánh thêm với bản dịch của Trần Lê Văn, ít nhất cũng nên cho học sinh đọc thêm bản dịch này:

Thôn trước thôn sau nhạt khói lồng,

Bóng chiều nửa có nửa hư không.

Đi trong tiếng sáo trâu về hết,

Cò trắng song song liệng xuống đồng(2).

Xin ghi phiên âm nguyên văn bài thơ để tiện so sánh hai bản dịch và làm cơ sở cho việc phân tích:

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,

Bán vô bán hữu tịch dương biên.

Mục đồng địch lí quy ngưu tận,

Bạch lộ song song phi hạ điền.

Bản dịch của Trần Lê Văn không lưu giữ được bóng dáng những chú mục đồng như bản dịch của Ngô Tất Tố dẫu vẫn có thể cho thấy gián tiếp qua hình ảnh “Đi trong tiếng sáo trâu về hết”. Tuy nhiên, nhìn chung, có lẽ bản dịch của Trần Lê Văn sát và hay hơn.

Một trong những yếu tố tạo nên nhịp điệu êm ái, hài hòa ở thơ của Trần Nhân Tông là việc sử dụng khá nhiều điệp ngữ, nhiều lúc còn kết hợp điệp ngữ và tiểu đối. Chẳng hạn, ở bài Hạnh Thiên Trường hành cung, bài thơ chỉ có 56 chữ, tác giả đã điệp đến 12 chữ: thanh, u, châu, bách, thiên, vô, sự, hữu, thu, dĩ, du, niên. Cả 8 câu đều dùng tiểu đối toàn bộ hoặc bộ phận, trong 8 câu đã có đến 4 câu ngắt nhịp theo mô hình 3/4, khác với lối ngắt nhịp thông thường ở thơ Đường luật:

Cảnh thanh u / vật diệc thanh u,

Nguyệt vô sự / chiếu nhân vô sự.

Thủy hữu thu / hàm thiên hữu thu,

Kim niên du / thắng tích niên du.

Trong Thiên Trường vãn vọng, ở 2 câu đầu, tác giả đã điệp 2 chữ thôn và bán, đồng thời kết hợp với tiểu đối bộ phận (thôn hậu / thôn tiền: bán vô/ bán hữu). Bản dịch của Trần Lê Văn đã giữ được gần như trọn vẹn những biện pháp tu từ ấy mặc dù “thôn trước thôn sau” là chưa sát ý với “thôn hậu thôn tiền” (sau thôn, trước thôn). Ở câu thứ nhất, Trần Lê Văn giữ được nghĩa chữ “đạm” (nhạt), Ngô Tất Tố giữ được nghĩa chữ “tự” (tựa) nhưng cả hai đều phải thêm chữ “lồng” làm cho hình ảnh của cả câu ít nhiều đã khác so với nguyên bản. Chữ yên trong thơ cổ rất khó dịch. Yên có nghĩa là khói song cũng chỉ tất cả những gì mù mịt trong không trung giống như khói, bởi vậy, dịch là “mờ tựa khói” như GS. Lê Trí Viễn có lẽ sát và ổn hơn(3). Phải chăng nên chỉnh câu thơ dịch của Trần Lê Văn bằng cụm từ này, thành Thôn trước thôn sau mờ tựa khói? Trong thơ Đường luật, câu đầu có thể gieo vần hoặc không. Có như vậy thì sự xuất hiện của cụm từ “bán vô bán hữu” ở câu tiếp theo mới được tự nhiên, hợp lôgic. Ở câu thứ hai, Ngô Tất Tố đã thêm chữ “man mác”. Man mác có thể dùng để tả cảnh song cảnh ấy thường nhuốm một nỗi buồn lâng lâng, lan tỏa, đặt ở đây e không phù hợp với tâm cảnh tác giả và cũng không ăn khớp với hình ảnh được miêu tả ở hai câu sau. Ở câu thứ ba, đi trong tiếng sáo rõ ràng là sát nghĩa, nên thơ hơn là sáo vẳng. Ở câu cuối, song song hay từng đôi đều ổn, tuy sắc thái biểu cảm và tác dụng gợi cảm cũng có khác nhau chút ít. Cuối cùng là việc dịch tên đề thơ, một vấn đề thường không đơn giản. Ít nhất đã có ba cách dịch khác nhau. Bản ở Hợp tuyển: Ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường (Sđd, tr.96), bản ở SGK Ngữ văn 7: Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra, bản ở Đến với thơ hay: Từ cung Thiên Trường ngắm cảnh đồng quê buổi chiều. Điểm nhìn ở cách dịch thứ nhất không rõ; đối tượng nhìn ở cách dịch thứ hai thiếu xác định, ở cách dịch thứ ba lại quá cụ thể!

Đưa ra vài nhận xét trên đây, chúng tôi chỉ muốn bày tỏ một ước vọng: làm sao có được bản dịch hay nhất của các tác phẩm ưu tú viết bằng chữ Hán của tiền nhân để con em chúng ta có thể tiếp thu được đầy đủ tinh hoa của truyền thống văn hóa dân tộc?

GS. Lê Trí Viễn cho rằng, ở bài Thiên Trường vãn vọng, “nhà thơ là thiền sư, con mắt thế tục nhưng tâm thiền”. Tuy nhiên, với đối tượng là học sinh phổ thông, giáo sư chủ trương: “Tạm gác phía thiền cảm. Hãy dừng ở thế tục, ở cảm quan hiện thực”.

SGK Ngữ văn 7 về cơ bản cũng chủ trương như vậy.

Bài thơ tả một cảnh thôn quê đơn sơ, đạm bạc như muôn vàn cảnh thôn quê lúc chiều xuống song lại có sức chứa đựng lớn lao kỳ vĩ và có ý nghĩa hiện thực sâu rộng.

Để làm rõ điều đó, GS. Lê Trí Viễn đã gắn việc phân tích mọi từ ngữ, chi tiết, hình ảnh của bài thơ với hoàn cảnh sáng tác - “sau chiến thắng quân Nguyên Mông lần thứ hai, lần thứ ba và sau một thời gian khôi phục lại cuộc sống yên lành cho đất nước” - và với “tầm mắt và tầm nghĩ, điệu xúc động của một ông vua thi sĩ”, Trần Nhân Tông, ông vua “đã tự thân lăn lộn trong dân, cùng nhân dân vào sinh ra tử gian khổ biết chừng nào mới đánh đuổi được quân giặc, giành lại được cho đất nước, cho dân cảnh sống thanh bình nảy”. Do đó, “bài thơ ngắn này không phải là một khắc mà thơ của một thời đại, rất tiêu biểu cho một thời đại vẻ vang vào bậc nhất trong lịch sử dân tộc ta”(4).

Xin tìm hiểu thêm đặc sắc nghệ thuật của bài thơ này xét từ góc độ “thế tục” và “cảm quan hiện thực”. Bài thơ đã phác họa được một bức tranh sinh động, có phông nền, đường nét, màu sắc, hình khối, có đôi chỗ khác với không ít những bài thơ thiền viết về thiên nhiên thường ít màu sắc, đường nét, tuy có thể “mang một loạt hình ảnh thiên nhiên nhưng mục đích cuối cùng của thiền gia không phải là miêu tả chính thiên nhiên đó mà là dùng thiên nhiên như một “công cụ ngoại hóa” mang tải những tư tưởng của Thiền tông”. Nói cách khác, “Thiên nhiên trong thơ thiền gia mang tính chất là những biểu tượng để thiền gia chuyển tải các tư tưởng thiền”(5).

Từ cung Thiên Trường, cặp mắt “vãn vọng” của ông vua thi sĩ đã quét từ chiều rộng (từ xa đến gần, từ “sau thôn” đến “trước thôn”) đến chiều dài theo hướng con đường dẫn các chú mục đồng cùng đàn trâu dần khuất vào ngõ xóm, rồi chiều cao theo hướng những cánh cò liệng từ trên không xuống cánh đồng, nhờ đó, đã dựng lên được một không gian nghệ thuật mang tính lập thể.

Hai câu đầu của bài thơ có thể gợi liên tưởng tới bốn câu thơ trong bài Dã sắc (Sắc đồng nội) cũng tả cảnh chiều hôm của Phạm Trọng Yêm, nhà chính trị, nhà thơ nổi tiếng đời Tống:

Phi yên diệc phi vụ

Mịch mịch ánh lâu đài

Bạch điểu hốt điểm phá

Tàn dương hoàn chiếu khai

Nghĩa là:

Chẳng phải khói cũng chẳng phải sương mù

Mịt mùng in bóng lên lâu đài

Cánh chim trắng bỗng xé toang

Mặt trời sắp lặn còn lóe chiếu

Cảnh sắc bảng lảng của trời chiều lúc hoàng hôn là rất khó tả một cách chính diện và trực tiếp; cả hai nhà thơ đều dùng thủ pháp “thực giả, hư chi; hư giả, thực chi”, tức dùng cái hư và cái thực làm nổi bật lẫn nhau. Ở Phạm Trọng Yêm, lâu đài, cánh chim trắng, mặt trời sắp lặn là những yếu tố “thực” làm nổi bật cái mông lung huyền ảo “chẳng phải khói cũng chẳng phải sương mù”; ở Trần Nhân Tông cũng vậy: tác giả không tả bản thân cảnh mặt trời sắp lặn, xóm thôn mà là cáisau thôn và trước thôn, cái bên mặt trời lặn, cái nhạt tựa khói và nửa không nửa có, tức cái thầncủa khung cảnh. Bởi vậy, dịch “thôn hậu, thôn tiền” thành “thôn trước, thôn sau” là chưa lột được cái thần đó. Cảnh sắc sau thôn và trước thôn đều giống nhau, đều “nhạt tựa khói” lúc hoàng hôn, đó còn là dấu hiệu đặc trưng của cảnh ở đồng bằng, nếu tả cảnh sau núi và trước núi thì không thể nói như thế. Như vậy là chỉ qua 2 câu thơ đầu, ta đã thấy Trần Nhân Tông có một cặp mắt quan sát rất tinh tế, vừa có một tâm hồn thi sĩ, vừa có tài năng của một họa sĩ.

Về đặc điểm nghệ thuật của 2 câu sau, xin được kết hợp nói ở phần dưới.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng sự biểu hiện thiền cảm, thiền ý, thiền tâm... ở những bài thơ miêu tả thiên nhiên của Trần Nhân Tông không rõ ràng bằng ở những bài thơ viết về cùng đề tài của nhiều nhà sư thời Lý- Trần. Cần nói thêm: ngay so sánh với những bài thơ khác miêu tả thiên nhiên của chính Trần Nhân Tông, sự biểu hiện thiền ý ở bài Thiên Trường vãn vọng cũng kín đáo hơn, do đó, nói như Nguyễn Kim Sơn và Trần Thị Mĩ Hà, “ngộ được thiền ý trong đó không phải là đơn giản”... Hai tác giả này đã lý giải sự bộc lộ thiền ý ở bài thơ này một cách khá đầy đủ và thỏa đáng: “Cả bài thơ không dùng một điển tích Phật giáo nào, cảnh vật cũng chỉ là một làng quê hết sức bình thường. Nhưng trong cái tưởng như bình thường đó lại chứa đựng cả một quan niệm về thế giới của tác giả. Thôn xóm như được  bao phủ bởi một lớp sương huyền ảo, trở nên “mờ mờ” không rõ ràng. Cảnh vật cũng ở trạng thái không hề xác định “nửa như có” mà cũng “nửa như không” trong ánh chiều tà của một ngày. Trên cánh đồng, trẻ mục đồng dắt trâu về trong tiếng sáo: cái có lại chuyển dần thành cái không. Trên nền “không” của cánh đồng đó, lại xuất hiện một cái “có”: đôi cò trắng song song đáp xuống đồng. Tất cả nằm giữa hai bờ hư thực, vừa mờ ảo như được phủ trong khói, vừa rõ ràng đến mức trông thấy cả đôi cò đáp xuống cánh đồng mênh  mông”(6).

Chúng tôi cho rằng có thể làm rõ thêm thiền ý thiền cảnh ở tính chất vừa động vừa tĩnh ở hai câu sau. Quy ngưu là động, quy ngưu tận là vừa động vừa tĩnh; nếu nói xuy địch là động, còn địch lí ở đây là vừa động vừa tĩnh. Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên (Tuyệt cú - Đỗ Phủ) là động,Bạch lộ song song phi hạ điền ở đây là vừa động vừa tĩnh. Chính mặt tĩnh này ở hai câu cuối cùng với chất tĩnh đậm đặc ở hai câu trên đã làm cho bài thơ tràn ngập cái thường được gọi là thi tình họa ý. Cũng có thể xét từ góc độ sự biểu hiện thiền tâm thiền cảm thường mang tính chất đối cảnh vô tâm, tâm thân lưỡng vong để cho rằng không nên thêm ý man mác vào câu thứ hai.

Không nên nghĩ rằng thiền ý bộc lộ không rõ ràng là chất thiền không sâu đậm mà thực ra là ngược lại. Thiền tông cho rằng bình thường tâm thị đạo, pháp nhĩ tự nhiên cho nên ở đây không có một thuật ngữ Phật giáo nào (như vẫn thường thấy trong các bài kệ và phần lớn các bài thơ thiền khác), không có một hình ảnh thiên nhiên mang tính chất biểu tượng thuần túy nào, đó chính là sự thể hiện trí tuệ tối cao, thiền lí sâu đậm. Vấn đề đặt ra ở đây là vì sao sự thể hiện thiền lí sâu đậm ấy lại có thể kết hợp một cách nhuần nhuyễn với cảm quan hiện thực như đã nói trên. Trước hết, phải tìm nguyên nhân ở ngay giáo lí của Thiền tông, Thiền học không muốn hướng con người vào một cõi tồn tại khác sau cái chết mà là khuyên bảo con người hãy chấp nhận hiện thực như nó đang tồn tại, vấn đề là cần thay đổi thái độ với chính hiện thực ấy. Điều đó giải thích vì sao trong không ít bài thơ, thậm chí trong cả một số bài kệ, của một số thiền sư ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc, vẫn thấy bóng dáng của hiện thực ở những mức độ khác nhau. Các nhà sư theo phái Thiền tông lạc đạo nhưng vẫn cư trần. Nguyên nhân quan trọng khác là ở cuộc đời hết sức đặc biệt của thiền sư - ông vua thi sĩ này, cuộc đời luôn gắn bó với vận mệnh của nhân dân, của dân tộc. Tất nhiên, không phải ở bài thơ nào của Trần Nhân Tông cũng có được sự kết hợp hài hòa như vậy (ví dụ như trong các bài Tảo mai, Mộ xuân tức sự). Trong Thiên Trường vãn vọng, mọi vật đều ở bên ranh giới của hư-thực, có-không, động-tĩnh, đó là đặc điểm của cảnh hoàng hôn của làng quê thanh bình, đó cũng là cảnh giới Phật. Một vấn đề khác cần đặt ra: có nên gọi Thiên Trường vãn vọng là thơ thiền không? Theo tôi, không nên gọi tất cả các bài thơ do thiền sư sáng tác ra là thơ thiền vì sự thể hiện thiền ý, thiền cảm... ở đó luôn có những mức độ khác nhau. Ở Thiên Trường vãn vọng, sự thể hiện thiền ý rất sâu sắc song theo tôi chỉ nên xem đây là một bài thơ nhuốm tư tưởng thiền mà không phải là một bài thơ thiền vì ở đây cảm quan hiện thực cũng không kém phần sâu đậm, đặc biệt là ở câu thứ tư. Trong thơ Đường, câu cuối bao giờ cũng để lại một dư âm vang vọng. Khó có thể nói đây là một câu thơ mang thiền ý sâu đậm. Xin mượn lời bình câu thơ này của giáo sư Lê Trí Viễn để bày tỏ ý kiến của mình: “Bạch lộ là cò trắng. Lúa đang lên xanh, chân ruộng xắp nước, cò rủ nhau xuống ruộng kiếm ăn. Một nét vui đồng ruộng nhưng được nhấn mạnh, tách riêng từng đôi. Dường như giấu trong đó một niềm vui hạnh phúc tình yêu, hoặc cao hơn, một sự sinh sôi của sự sống. Từng đôi có trống có mái chứ không tán loạn, tan tác như thời còn giặc. Cả một cảnh êm ả như dàn ra, bao bọc cho những lứa đôi này: cò trắng, lúa xanh, cá tôm dưới gốc. Chuẩn bị sẵn sàng, kín đáo cho no ấm và cho hạnh phúc sinh sôi.

Với tất cả những điều phân tích trên, có thể khẳng định Thiên Trường vãn vọng là một tuyệt tác, một trong những bài thơ tứ tuyệt Đường luật cô đọng nhất, một trong những bài thơ trữ tình hay nhất của văn học trung đại Việt Nam1

__________________

Trần Quang Hiếu
Xem chi tiết
Lê Thị Bích Hằng
26 tháng 9 2016 lúc 17:00

thất  ngôn tứ tuyệt là:

Một bài có 4 câu mỗi câu có  7 tiếng 

Đường Luật là thơ nhà Đường

Lê Thị Bích Hằng
26 tháng 9 2016 lúc 17:01

nếu câu trả lời đúng theo ý bạn thì nhớ tịk cho ms nha