Những câu hỏi liên quan
Xuân emma
Xem chi tiết
Phạm Tùng Anh
16 tháng 9 2021 lúc 9:22

Kim Đồng (1929 – 15 tháng 2 năm 1943) là bí danh của Nông Văn Dèn (một số sách báo ghi nhầm thành Nông Văn Dền), một thiếu niên người dân tộc Nùng, ở thôn Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Anh là người đội trưởng đầu tiên của tổ chức Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Đội TNTP HCM được thành lập ngày 15 tháng 5 năm 1941. Bí danh của năm đội viên đầu tiên là: Kim Đồng, Cao Sơn, Thanh Minh, Thanh Thủy, Thủy Tiên.

Tên thật

Kim Đồng, tên thật là Nông Văn Dèn. Dèn tiếng Tày, Nùng có nghĩa là Tiền. Một số sách báo đội mũ cho chữ Dèn thành chữ Dền, tuy nhiên Dền không có nghĩa gì cả. Có thể khi sinh Dèn, cha mẹ Dèn mong đứa con trai của mình sau này sẽ có cuộc sống tốt, có nhiều tiền bạc nên mới đặt tên như vậy. Ngoài ra cái tên Dèn còn mang ý nghĩa là đứa con yêu, đứa con quý như tiền bạc vậy.

Gia đình Kim Đồng

Cha của Kim Đồng, người làng Nà Mạ, tên là Nông Văn Ý. Trong một lần sang quê vợ ở làng Kép Ké (Nà Sác) bị nạn, chết không xác định được nguyên nhân chính xác.

Mẹ Kim Đồng tên là Lân Thị He, quê làng Kép Ké, sinh năm 1890. Bà là một phụ nữ chăm chỉ, hết lòng vì chồng con, giỏi nghề dệt và làm giấy bản (chỉa sla), là hội viên Hội phụ nữ cứu quốc. Sức khỏe bà yếu (bị bệnh khớp) nên từ nhỏ Kim Đồng đã làm nhiều việc của người lớn, điều đó sớm hình thành trong Kim Đồng những tính cách của "người lớn": Quyết đoán, năng động, không ngại khó...

Kim Đồng có hai chị gái, một anh trai và một em gái. Chị gái cả tên là Nông Thị Nhằm (Nhằm, tiếng Tày, Nùng là Mong nhớ). Lấy chồng trong làng tên là Lý Văn Kinh thường được gọi là Kinh Xình, nhà anh Kinh Xình là nơi hội họp, đón tiếp, bảo vệ cán bộ cách mạng. Trong ngôi nhà này, ngày 14/2/1943, lãnh đạo chủ chốt Châu uỷ Hà Quảng họp, nhờ hành động dũng cảm của Kim Đồng mà thoát cả lên núi phía sau nhà. Chị gái thứ hai là Nông Thị Lằng cũng lấy chồng trong làng. Anh trai là Nông Văn Tằng (bí danh là Phục Quốc) sớm tham gia cách mạng, là đội viên giải phóng quân, chiến đấu và hy sinh ở Chợ Đồn (Bắc Kạn). Để anh Phục Quốc có điều kiện hoạt động cách mạng, 12 tuổi, Kim Đồng đã thay anh đi làm phu, chặt cây, trồng cỏ ở đồn Sóc Giang. Em gái là Nông Thị Slấn (Slấn tiếng Tày, Nùng có nghĩa là tin tưởng), xinh đẹp, chăm chỉ. Một lần qua suối, không may trượt chân ngã, chết đuối.

Hi sinh

Kim Đồng đã cùng đồng đội làm nhiệm vụ giao liên, đưa đón Việt Minh và chuyển thư từ. Trong một lần đi liên lạc, khi cán bộ đang có cuộc họp, anh phát hiện có quân Pháp đang tới nơi cư trú của cán bộ, Kim Đồng đã đánh lạc hướng họ để các bạn của mình đưa bộ đội về căn cứ được an toàn. Kim Đồng chạy qua suối, quân Pháp theo không kịp liền nổ súng vào anh. Kim Đồng ngã xuống ngay bên bờ suối Lê Nin (Cao Bằng) ngày 15 tháng 2 năm 1943, khi vừa tròn 14 tuổi.

Danh hiệu

Tháng 7 năm 1997, Kim Đồng được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Nguyễn Anh Tuấn
16 tháng 9 2021 lúc 9:23

Tiểu sử

Kim Đồng, tên thật là Nông Văn Dèn. Dèn tiếng Tày, Nùng có nghĩa là Tiền. Một số sách báo đội mũ cho chữ Dèn thành chữ Dền, tuy nhiên Dền không có nghĩa gì cả. Có thể khi sinh Dèn, cha mẹ Dèn mong đứa con trai của mình sau này sẽ có cuộc sống tốt nên mới đặt tên như vậy. (1929 – 15 tháng 2 năm 1943) 

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Mai Phương Uyên
16 tháng 9 2021 lúc 9:29

bạn bảo ba mẹ bạn đi mua cuốn sách tuổi thơ dữ dội ý nó có tiểu sử về anh nông văn dền(kim đồng) mik chỉ nhớ anh ấy là người đưa tin và trong 1 lần đưa tin anh bị giặc bắt và tra tấn dã man thui 

sorry bạn

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Nguyễn Mạnh Tuyển
Xem chi tiết
I don
17 tháng 5 2018 lúc 15:44

Đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp có tên khai sinh Võ Giáp, bí danh: Văn.

Sinh ngày 25/8/1911 tại xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.

Từ năm 1925 đến 1926, đồng chí tham gia phong trào học sinh ở Huế, năm 1927 tham gia Đảng Tân Việt cách mạng (một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng Cộng sản Việt Nam).

Năm 1930, đồng chí bị địch bắt và kết án 2 năm tù. Sau khi ra tù, đồng chí tiếp tục hoạt động tuyên truyền, gây cơ sở cách mạng trong thanh niên, học sinh. Năm 1936, đồng chí hoạt động trong phong trào dân chủ bán hợp pháp của Đảng ở Hà Nội; là biên tập viên các báo của Đảng: “Tiếng nói của chúng ta”, “Tiến lên”, “Tập hợp”, “Thời báo”, “Tin tức”… Tham gia phong trào Đông Dương đại hội, đồng chí được bầu làm Chủ tịch Ủy ban báo chí Bắc Kỳ.

Tháng 6/1940, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và được cử sang Trung Quốc gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Đầu năm 1941, đồng chí về nước, tham gia công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở căn cứ địa Cao-Bắc-Lạng.

Tháng 12/1944, đồng chí được đồng chí Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.

Tháng 4/1945, tại Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ, đồng chí được cử vào Ủy ban Quân sự Bắc Kỳ. Từ tháng 5/1945, đồng chí là Tư lệnh các lực lượng vũ trang cách mạng mới, thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân; tháng 6/1945, đồng chí được đồng chí Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Ủy ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng.

Tháng 8/1945, đồng chí được cử vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. Tại Đại hội Quốc dân Tân Trào, đồng chí được bầu vào Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam; là Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và được bổ sung vào Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Tháng 3/1946, đồng chí là Chủ tịch Quân sự, Ủy viên trong Chính phủ Liên hiệp; khi thành lập Quân ủy Trung ương, được cử làm Bí thư Quân ủy Trung ương. Tháng 10/1946, là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, được Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy quyền làm Tổng Chỉ huy Quân đội Nhân dân và Dân quân tự vệ Việt Nam. Tháng 1/1948, đồng chí được phong quân hàm Đại tướng, Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Tháng 2/1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.

Từ tháng 9/1955 đến tháng 12/1979, đồng chí là Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Tháng 9/1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.

Tháng 12/1976, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V và lần thứ VI của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương.

Từ tháng 1/1980, đồng chí là Phó Thủ tướng thường trực; từ tháng 4/1981 đến tháng 12/1986, là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ).

Đồng chí liên tục được bầu làm Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII.

Do công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, uy tín lớn trong và ngoài nước, đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.

Bình luận (0)
Võ Công Hoàng Đạt
17 tháng 5 2018 lúc 15:44

Đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp có tên khai sinh Võ Giáp, bí danh: Văn.

Sinh ngày 25/8/1911 tại xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.

Từ năm 1925 đến 1926, đồng chí tham gia phong trào học sinh ở Huế, năm 1927 tham gia Đảng Tân Việt cách mạng (một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng Cộng sản Việt Nam).

Năm 1930, đồng chí bị địch bắt và kết án 2 năm tù. Sau khi ra tù, đồng chí tiếp tục hoạt động tuyên truyền, gây cơ sở cách mạng trong thanh niên, học sinh. Năm 1936, đồng chí hoạt động trong phong trào dân chủ bán hợp pháp của Đảng ở Hà Nội; là biên tập viên các báo của Đảng: “Tiếng nói của chúng ta”, “Tiến lên”, “Tập hợp”, “Thời báo”, “Tin tức”… Tham gia phong trào Đông Dương đại hội, đồng chí được bầu làm Chủ tịch Ủy ban báo chí Bắc Kỳ.

Tháng 6/1940, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và được cử sang Trung Quốc gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Đầu năm 1941, đồng chí về nước, tham gia công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở căn cứ địa Cao-Bắc-Lạng.

Tháng 12/1944, đồng chí được đồng chí Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.

Tháng 4/1945, tại Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ, đồng chí được cử vào Ủy ban Quân sự Bắc Kỳ. Từ tháng 5/1945, đồng chí là Tư lệnh các lực lượng vũ trang cách mạng mới, thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân; tháng 6/1945, đồng chí được đồng chí Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Ủy ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng.

Tháng 8/1945, đồng chí được cử vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. Tại Đại hội Quốc dân Tân Trào, đồng chí được bầu vào Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam; là Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và được bổ sung vào Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Tháng 3/1946, đồng chí là Chủ tịch Quân sự, Ủy viên trong Chính phủ Liên hiệp; khi thành lập Quân ủy Trung ương, được cử làm Bí thư Quân ủy Trung ương. Tháng 10/1946, là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, được Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy quyền làm Tổng Chỉ huy Quân đội Nhân dân và Dân quân tự vệ Việt Nam. Tháng 1/1948, đồng chí được phong quân hàm Đại tướng, Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Tháng 2/1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.

Từ tháng 9/1955 đến tháng 12/1979, đồng chí là Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Tháng 9/1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.

Tháng 12/1976, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V và lần thứ VI của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương.

Từ tháng 1/1980, đồng chí là Phó Thủ tướng thường trực; từ tháng 4/1981 đến tháng 12/1986, là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ).

Đồng chí liên tục được bầu làm Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII.

Do công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, uy tín lớn trong và ngoài nước, đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.

Hk tốt
Bình luận (0)
❤  Hoa ❤
17 tháng 5 2018 lúc 15:56

Đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp có tên khai sinh Võ Giáp, bí danh: Văn.

Sinh ngày 25/8/1911 tại xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.

Từ năm 1925 đến 1926, đồng chí tham gia phong trào học sinh ở Huế, năm 1927 tham gia Đảng Tân Việt cách mạng (một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng Cộng sản Việt Nam).

Năm 1930, đồng chí bị địch bắt và kết án 2 năm tù. Sau khi ra tù, đồng chí tiếp tục hoạt động tuyên truyền, gây cơ sở cách mạng trong thanh niên, học sinh. Năm 1936, đồng chí hoạt động trong phong trào dân chủ bán hợp pháp của Đảng ở Hà Nội; là biên tập viên các báo của Đảng: “Tiếng nói của chúng ta”, “Tiến lên”, “Tập hợp”, “Thời báo”, “Tin tức”… Tham gia phong trào Đông Dương đại hội, đồng chí được bầu làm Chủ tịch Ủy ban báo chí Bắc Kỳ.

Tháng 6/1940, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và được cử sang Trung Quốc gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Đầu năm 1941, đồng chí về nước, tham gia công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở căn cứ địa Cao-Bắc-Lạng.

Tháng 12/1944, đồng chí được đồng chí Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.

Tháng 4/1945, tại Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ, đồng chí được cử vào Ủy ban Quân sự Bắc Kỳ. Từ tháng 5/1945, đồng chí là Tư lệnh các lực lượng vũ trang cách mạng mới, thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân; tháng 6/1945, đồng chí được đồng chí Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Ủy ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng.

Tháng 8/1945, đồng chí được cử vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. Tại Đại hội Quốc dân Tân Trào, đồng chí được bầu vào Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam; là Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và được bổ sung vào Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Tháng 3/1946, đồng chí là Chủ tịch Quân sự, Ủy viên trong Chính phủ Liên hiệp; khi thành lập Quân ủy Trung ương, được cử làm Bí thư Quân ủy Trung ương. Tháng 10/1946, là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, được Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy quyền làm Tổng Chỉ huy Quân đội Nhân dân và Dân quân tự vệ Việt Nam. Tháng 1/1948, đồng chí được phong quân hàm Đại tướng, Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Tháng 2/1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.

Từ tháng 9/1955 đến tháng 12/1979, đồng chí là Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Tháng 9/1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.

Tháng 12/1976, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V và lần thứ VI của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương.

Từ tháng 1/1980, đồng chí là Phó Thủ tướng thường trực; từ tháng 4/1981 đến tháng 12/1986, là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ).

Đồng chí liên tục được bầu làm Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII.

Do công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, uy tín lớn trong và ngoài nước, đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.

~~hok tốt ~~

Bình luận (0)
🌟$Blackpink$🌟
Xem chi tiết
hot boy lạnh lùng
15 tháng 3 2019 lúc 20:23

Kim Đồng (1929 – 15 tháng 2 năm 1943) là bí danh của Nông Văn Dèn (một số sách báo ghi nhầm thành Nông Văn Dền), một thiếu niên người dân tộc Nùng, ở thôn Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Anh là người đội trưởng đầu tiên của tổ chức Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Đội TNTP HCM được thành lập ngày 15 tháng 5 năm 1941. Bí danh của năm đội viên đầu tiên là: Kim Đồng, Cao Sơn, Thanh Minh,Thanh Thủy, Thủy Tiên.

Tên thật

Kim Đồng, tên thật là Nông Văn Dèn. Dèn tiếng Tày, Nùng có nghĩa là Tiền. Một số sách báo đội mũ cho chữ Dèn thành chữ Dền, tuy nhiên Dền không có nghĩa gì cả. Có thể khi sinh Dèn, cha mẹ Dèn mong đứa con trai của mình sau này sẽ có cuộc sống tốt, có nhiều tiền bạc nên mới đặt tên như vậy. Ngoài ra cái tên Dèn còn mang ý nghĩa là đứa con yêu, đứa con quý như tiền bạc vậy.

Gia đình Kim Đồng

Cha của Kim Đồng, người làng Nà Mạ, tên là Nông Văn Ý. Trong một lần sang quê vợ ở làng Kép Ké (Nà Sác) bị nạn, chết không xác định được nguyên nhân chính xác.

Mẹ Kim Đồng tên là Lân Thị He, quê làng Kép Ké, sinh năm 1890. Bà là một phụ nữ chăm chỉ, hết lòng vì chồng con, giỏi nghề dệt và làm giấy bản (chỉa sla), là hội viên Hội phụ nữ cứu quốc. Sức khỏe bà yếu (bị bệnh khớp) nên từ nhỏ Kim Đồng đã làm nhiều việc của người lớn, điều đó sớm hình thành trong Kim Đồng những tính cách của "người lớn": Quyết đoán, năng động, không ngại khó...

Kim Đồng có hai chị gái, một anh trai và một em gái. Chị gái cả tên là Nông Thị Nhằm (Nhằm, tiếng Tày, Nùng là Mong nhớ). Lấy chồng trong làng tên là Lý Văn Kinh thường được gọi là Kinh Xình, nhà anh Kinh Xình là nơi hội họp, đón tiếp, bảo vệ cán bộ cách mạng. Trong ngôi nhà này, ngày 14/2/1943, lãnh đạo chủ chốt Châu uỷ Hà Quảng họp, nhờ hành động dũng cảm của Kim Đồng mà thoát cả lên núi phía sau nhà. Chị gái thứ hai là Nông Thị Lằng cũng lấy chồng trong làng. Anh trai là Nông Văn Tằng (bí danh là Phục Quốc) sớm tham gia cách mạng, là đội viên giải phóng quân, chiến đấu và hy sinh ở Chợ Đồn (Bắc Kạn). Để anh Phục Quốc có điều kiện hoạt động cách mạng, 12 tuổi, Kim Đồng đã thay anh đi làm phu, chặt cây, trồng cỏ ở đồn Sóc Giang. Em gái là Nông Thị Slấn (Slấn tiếng Tày, Nùng có nghĩa là tin tưởng), xinh đẹp, chăm chỉ. Một lần qua suối, không may trượt chân ngã, chết đuối.

Hi sinh

Kim Đồng đã cùng đồng đội làm nhiệm vụ giao liên, đưa đón Việt Minh và chuyển thư từ. Trong một lần đi liên lạc, khi cán bộ đang có cuộc họp, anh phát hiện có quân Pháp đang tới nơi cư trú của cán bộ, Kim Đồng đã đánh lạc hướng họ để các bạn của mình đưa bộ đội về căn cứ được an toàn. Kim Đồng chạy qua suối, quân Pháp theo không kịp liền nổ súng vào anh. Kim Đồng ngã xuống ngay bên bờ suối Lê Nin (Cao Bằng) ngày 15 tháng 2 năm1943, khi vừa tròn 14 tuổi.

Bình luận (0)
No Name
15 tháng 3 2019 lúc 20:23

Dũng cảm, vượt khó khăn.

Bình luận (0)
ßσss™|๖ۣۜHắc-chan|
15 tháng 3 2019 lúc 20:25

Kim Đồng (1929 – 15 tháng 2 năm 1943) là bí danh của Nông Văn Dèn (một số sách báo ghi nhầm thành Nông Văn Dền), một thiếu niên người dân tộc Nùng, ở thôn Nà Mạ, xã Trường Hà,huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Anh là người đội trưởng đầu tiên của tổ chức Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Đội TNTP HCM được thành lập ngày 15 tháng 5 năm 1941. Bí danh của năm đội viên đầu tiên là: Kim Đồng, Cao Sơn, Thanh Minh, Thanh Thủy, Thủy Tiên.

Tên thật

Kim Đồng, tên thật là Nông Văn Dèn. Dèn tiếng Tày, Nùng có nghĩa là Tiền. Một số sách báo đội mũ cho chữ Dèn thành chữ Dền, tuy nhiên Dền không có nghĩa gì cả. Có thể khi sinh Dèn, cha mẹ Dèn mong đứa con trai của mình sau này sẽ có cuộc sống tốt, có nhiều tiền bạc nên mới đặt tên như vậy. Ngoài ra cái tên Dèn còn mang ý nghĩa là đứa con yêu, đứa con quý như tiền bạc vậy.

Gia đình Kim Đồng

Cha của Kim Đồng, người làng Nà Mạ, tên là Nông Văn Ý. Trong một lần sang quê vợ ở làng Kép Ké (Nà Sác) bị nạn, chết không xác định được nguyên nhân chính xác.

Mẹ Kim Đồng tên là Lân Thị He, quê làng Kép Ké, sinh năm 1890. Bà là một phụ nữ chăm chỉ, hết lòng vì chồng con, giỏi nghề dệt và làm giấy bản (chỉa sla), là hội viên Hội phụ nữ cứu quốc. Sức khỏe bà yếu (bị bệnh khớp) nên từ nhỏ Kim Đồng đã làm nhiều việc của người lớn, điều đó sớm hình thành trong Kim Đồng những tính cách của "người lớn": Quyết đoán, năng động, không ngại khó...

Kim Đồng có hai chị gái, một anh trai và một em gái. Chị gái cả tên là Nông Thị Nhằm (Nhằm, tiếng Tày, Nùng là Mong nhớ). Lấy chồng trong làng tên là Lý Văn Kinh thường được gọi là Kinh Xình, nhà anh Kinh Xình là nơi hội họp, đón tiếp, bảo vệ cán bộ cách mạng. Trong ngôi nhà này, ngày 14/2/1943, lãnh đạo chủ chốt Châu uỷ Hà Quảng họp, nhờ hành động dũng cảm của Kim Đồng mà thoát cả lên núi phía sau nhà. Chị gái thứ hai là Nông Thị Lằng cũng lấy chồng trong làng. Anh trai là Nông Văn Tằng (bí danh là Phục Quốc) sớm tham gia cách mạng, là đội viên giải phóng quân, chiến đấu và hy sinh ở Chợ Đồn (Bắc Kạn). Để anh Phục Quốc có điều kiện hoạt động cách mạng, 12 tuổi, Kim Đồng đã thay anh đi làm phu, chặt cây, trồng cỏ ở đồn Sóc Giang. Em gái là Nông Thị Slấn (Slấn tiếng Tày, Nùng có nghĩa là tin tưởng), xinh đẹp, chăm chỉ. Một lần qua suối, không may trượt chân ngã, chết đuối.

Hi sinh

Kim Đồng đã cùng đồng đội làm nhiệm vụ giao liên, đưa đón Việt Minh và chuyển thư từ. Trong một lần đi liên lạc, khi cán bộ đang có cuộc họp, anh phát hiện có quân Pháp đang tới nơi cư trú của cán bộ, Kim Đồng đã đánh lạc hướng họ để các bạn của mình đưa bộ đội về căn cứ được an toàn. Kim Đồng chạy qua suối, quân Pháp theo không kịp liền nổ súng vào anh. Kim Đồng ngã xuống ngay bên bờ suối Lê Nin (Cao Bằng) ngày 15 tháng 2 năm 1943, khi vừa tròn 14 tuổi.

Danh hiệu

Tháng 7 năm 1997, Kim Đồng được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.

Bình luận (0)
Uất Ngụy Thiên Di-Ice
Xem chi tiết
Tẫn
17 tháng 5 2018 lúc 10:15
Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890- 1969)

Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một người cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, vì độc lập, tự do của các dân tộc, vì hòa bình và công lý trên thế giới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt đông cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều bí danh, bút danh khác) sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 ở Kim Liêm huyện Nam Đàn, tình Nghệ An, mất ngày 2 tháng 9 năm 1969 tại Hà Nội.

Người sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước lớn lên ở một địa phương có truyền thống yêu nước anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sống trong hoàn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và thanh niên của Người đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong trào đấu tranh chống thực dân. Người sớm có chí đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào

Với tình cảm yêu nước thương dân vô hạn, năm 1911 Người đã rời Tổ quốc đi sang phương Tây để tìm con đường giải phóng dân tộc.

Từ năm 1912 đến năm l917, Nguyễn Tất Thành đến nhiều nước ở Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ, châu Phi, sống hòa mình với nhân dân lao động, Người thông cảm sâu sắc cuộc sống khổ cực của nhân dân lao động và các dân tộc thuộc địa cũng như nguyện vọng thiêng liêng của họ. Người sớm nhận thức được cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam là một bộ phận trong cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới. Người đã hoạt động tích cực nhằm đoàn kết nhân dân các dân tộc giành tự do, độc lập.

Cuối năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp tiếp tục hoạt động trong phong trào Việt kiều và phong trào công nhân Pháp. Năm 1919, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi tới Hội nghị Vesailles bản yêu sách đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam và cũng là quyền tự do cho nhân dân các nước thuộc địa.

Dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp và Người bỏ phiếu tán thành Đảng gia nhập Quốc tế III, Quốc tế Cộng sản và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ một người yêu nước trở thành người cộng sản, Người khẳng định con đường cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới là con đường của chủ nghĩa Mác-Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.

Năng 1921, cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa. Tháng 4 năm 1922, Hội ra báo “Người cùng khổ “ (Le Paria) nhằm đoàn kết, tổ chức và hướng dẫn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Nhiều bài báo của Người đã được đưa vào tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, xuất bản năm l925.

Đây là một công trình nghiên cứu về bản chất của chủ nghĩa thực dân, thức tỉnh và cổ vũ nhân dân các nước thuộc địa đứng lên tự giải phóng. Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Liên Xô, Người làm việc trong Quốc tế Cộng sản. Tháng 10 năm l923, tại Hội nghị Quốc tế nông dân lần thứ nhất Nguyễn Ái Quốc được bầu vào Hội đồng Quốc tế Nông dân. Người là đại biểu duy nhất của nông dân thuộc địa được cử vào Đoàn Chủ tịch của Hội đồng. Người tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V, Đại hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên lần thứ IV, Đại hội Quốc tế Công hội đỏ. Ngườil kiên trì bảo vệ và phát triển sáng tạo tư tưởng của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, hướng sự quan tâm của Quốc tế Cộng sản tới phong trào giải phóng dân tộc .Nguyễn Ái Quốc là Ủy viên thường trực Bộ phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục phương Nam của Quốc tế Cộng sản

Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) chọn một số thanh niên Việt Nam yêu nước đang sống ở Quảng Châu, trực tiếp mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ Việt Nam Các bài giảng của Người được tập hợp in thành cuốn sách “Đườg Kách mệnh" - một văn kiện lý luận quan trọng đặt cơ sở tư tưởng cho dường lối cách mạng Việt Nam. Năm 1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ra báo “Thanh niên”, tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tháng 5 năm 1927, Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu đi Mátxcơva (Liên Xô) ,sau đó đi Berlin (Đức), đi Bruxell (Bỉ) tham dự phiên họp mở rộng của Đại hội đồng Liên đoàn chống chiến tranh đế quốc, sau đó đi Ý và từ đây về Châu Á.

Tử tháng 7 năm 1928 đến tháng 11 năm 1929, Người hoạt đông trong phong trào vận Đảng Việt kiều yêu nước ở Thái Lan, tiếp tục chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Mùa xuân năm 1930, Người chủ trì Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long gần Hương Cảng, thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam (Hội nghị của Đảng tháng 10 năm 1930 đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương), đội tiên phong của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cao trào cách mang 1930-1931, đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh, cuộc tổng diễn tập đầu tiên của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Tháng 6 năm 1931, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh bắt giam tại Hong Kong. Đây là một thời kỳ sóng gió trong cuộc đời hoạt Đảng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc. Mùa xuân năm 1933, Người được trả tự do.

Từ năm 1934 đến 1938, Người nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc thuộc địa tại Matxcova. Kiên trì con đường đã xác định cho cách mang Việt Nam, Người tiếp tục theo dõi chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước.

Tháng 10 năm 1938, Người rời Liên Xô về Trung Quốc bắt liên lạc với tổ chức Đảng chuẩn bị về nước.

Ngày 28 tháng 1 năm 1941, Người về nước sau hơn 30 năm xa Tổ quốc. Bao nhiêu năm thương nhớ đợi chờ khi qua biên giới, Người vô cùng xúc động.

Tháng 5 năm 1941, Người triệu tập Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp hành Trung ương Đảng. quyết định đường lối cứu nước trong thời kỳ mới, thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh). Tổ chức lực lượng vũ trang giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách mạng.

Tháng 8 năm 1942, lấy tên là Hồ Chí Minh, Người đại diện cho Mặt trận Việt Minh và Phân hội Việt Nam, thuộc Hiệp hội quốc tế chống xâm lược sang Trung Quốc tìm sự liên minh quốc tế, cùng phối hợp hành động chống phát xít trên chiến trường Thái Bình Dương. Người bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam trong các nhà lao của tỉnh Qủang Tây. Trong thời gian 13 tháng bi tù, Người đã viết tập thơ “Ngục trung nhật ký" (Nhật ký trong tù) với 133 bài thơ chữ Hán. Tháng 9 năm 1943, Người được trả tự do.

Tháng 9 năm 1944. Người trở về căn cứ Cao Bằng. Tháng 12 năm 1944, Người chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Cuộc chiến tranh thế giới thứ II bước vào giai đoạn cuối với những thắng lợi của Liên Xô và các nước đồng minh. Tháng 5 năm 1945, Hồ Chí Minh rời Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang). Tại đây theo đề nghị của Người, Hội Nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân Đã hop quyếtđịnh tổngkhởi nghĩa. Đại hội Quốc dân đã bầu ra Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Tháng 8 năm 1945, Người lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước Ngày 2 tháng 9 năm J 945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Người đọc “Tuyên ngôn độc lập”, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam độc lập.

Ngay sau đó, thực dân Pháp gây chiến tranh, âm mưu xâm chiếm Việt Nam một lần nữa. Trước nạn ngoại xâm Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi cả nước đứng lên bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc với tinh thần: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Người đã khởi xướng phong trào thi đua yêu nước cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, từng bước giành thắng lợi.

Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân Việt Nam chống thưc dân Pháp xâm lược đã giành thắng lợi to lớn, kết húc vẻ vang bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954), giải phóng hoàn toàn miền Bắc.

Từ năm 1954, Người cùng Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Đại hội Đảng Lao động Việt Nam lần thứ III, họp vào tháng 9 năm 1960, Người khẳng định: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình, thống nhất nước nhà”. Tại Đại hội, Người được bầu lại làm Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng.

Năm 1964, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam. Người động viên toàn thể nhân dân Việt Nam vượt qua khó khăn gian khổ, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Người nói: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do! Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.

Từ năm 1965 đến năm 1969, cùng với Trung ương Đảng, Người tiếp tục lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện sự nghiệp cách mạng trong điều kiện cả nước có chiến tranh, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước.

Ngày 2/9/1969, Người từ trần, hưởng thọ 79 tuổi.

Trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho nhân dân Việt Nam bản Di chúc lịch sử. Người viết: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

Thực hiện Di chúc của Người, toàn dân Việt Nam đă đoàn kết một lòng đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng máy bay B52 của đế quốc Mỹ, buộc Chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định Pari ngày 27 tháng 1 năm 1973, chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam.

Mùa xuân năm 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân Việt Nam đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thực hiện được mong ước thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tu vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người đã vân dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, sáng lập Đảng Mác- Lênin ở Việt Nam, sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, sáng lập Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Người luôn luôn kết hợp chặt chẽ cách mạng Việt Nam với cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Người là tấm gương đạo đức cao cả, cần, kiệm,liêm, chính, chí công. vô tư, vô cùng khiêm tốn, giản dị

Năm 1987, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã công nhận Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất

Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, hội nhập với thế glới, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

# Học tốt

Bình luận (0)
Trịnh Thị Thanh Huyền
17 tháng 5 2018 lúc 10:16

1,Quê hương, gia đình, thời niên thiếu và những hoạt động yêu nước đầu tiên(1890 - 1911)

*Thời thơ ấu ở quê hương

Nguyễn Sinh Cung, tên thời thơ ấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sinh ngày 19-5-1890(1), Tại làng Hoàng Trù( còn gọi là làng Trùa), thuộc xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay là xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Phụ thân của Nguyễn Sinh Cung là ông Nguyễn Sinh Sắc, sinh năm 1862.

Do cha mẹ mất sớm, từ nhỏ Nguyễn Sinh Sắc đã phải chăn trâu cắt cỏ giúp anh. Mặc dù cuộc sống khó khăn, vất vả nhưng Nguyễn Sinh Sắc rất ham mê học tập trong làng ai cũng khen. Tiếng đồn lan khắp xã. Cụ Hoàng Xuân Đường thương một thiếu niên mồ côi, quí đức tính cần cù, ham học, lại hiểu rõ gia cảnh của Nguyễn Sinh Sắc, bèn bàn với anh là Nguyễn Sinh Thuyết xin đem về nuôi, cho ăn học.

Thấy Nguyễn Sinh Sắc say mê học hành, chăm chỉ lao động, năm 1883, cụ Hoàng đã không câu nệ tập tục phong kiến, cho Nguyễn Sinh Sắc thành hôn với người con gái đầu Hoàng Thị Loan, dựng cho hai vợ chồng một căn nhà nhỏ ba gian ở góc vườn. Ông Sắc vừa giúp vợ làm ruộng, vừa học tập, bà Loan có thêm nghề dệt vải để lo cuộc sống gia đình. Bà là phụ nữ cần mẫn đảm đang, giàu lòng thương người. Trong căn nhà ấm cúng đó, năm 1884, bà Hoàng Thị Loan sinh con gái đầu lòng Nguyễn Thị Thanh; năm 1888 sinh con thứ hai là Nguyễn Sinh Khiêm. Nguyễn Sinh Cung là con thứ ba trong gia đình(2). Những người con của ông Nguyễn Sinh Sắc lớn lên đều chịu ảnh hưởng của ông bà, cha mẹ, chăm công việc và rất thương người.

Năm 1894, ông Nguyễn Sinh Sắc đậu cử nhân kỳ thi hương tại trường thi Nghệ An. Hồi đó những người đỗ cử nhân, tú tài được cả làng, cả xã kính nể, nên có người thường coi mình cao hơn người khác, nhưng ông cử nhân Nguyễn Sinh Sắc thì vẫn giữ nếp sống và thái độ  cư xử thân mật, gần gũi với bà con trong xóm, ngoài làng.

 *ở Kinh Đô Huế

Sau khi đỗ cử nhân năm 1895 ông Nguyễn Sinh Sắc vào Huế thi hội, nhưng năm đó ông không đỗ. Quyết chí học hành cho đến nơi đến chốn, ông xin vào học trường Quốc Tử Giám lúc bấy giờ đặt làng An Ninh Thượng cách thành phố Huế 7 km về phía Tây. Hồi đó những người ở tỉnh xa vào học Quốc Tử Giám phải khá giả mới có tiên trọ học. Còn những người nghèo thường phải đưa cả gia đình đi theo để vừa học vừa kiếm sống nuôi nhau. Cuối năm 1895, ông Sắc trở về làng đưa vợ và hai con trai vào Huế.

Năm 1898, khoa Mậu Tuất, ông Sắc dự thi hội lần thứ hai nhưng vẫn không đỗ. Cuộc sống gia đình càng thêm chật vật, khó khăn. Được một người quen giới thiệu, ông Nguyễn Sinh Sắc về dạy học ở làng Dương Nỗ, cách thành phố Huế 6 km về phía Đông (Nay thuộc xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên- Huế).

Chính tại làng Dương Nỗ, Nguyễn Sinh Cung bắt đầu học chữ Hán, tập viết chữ trong cuốn sách Tập đồ hàng tư (3).

Với trí nhớ tốt, các bài học Nguyễn Sinh Cung chỉ đọc ba bốn lần là thuộc(4)..

Năm 1900, Nguyễn Sinh Sắc được cử đi coi thi ở trường thi hương Thanh Hóa. Ông đưa Nguyễn Sinh Khiêm cùng đi để đỡ đần ông, còn Nguyễn Sinh Cung thì về sống với mẹ trong nội thành Huế.

Cuối năm 1900, bà Hoàng Thị Loan sinh người con thứ tư. Cha và anh đi vắng, Nguyễn Sinh Cung vừa tự học, vừa giúp mẹ chăm sóc em mà bà con thường gọi là bé Xin(1), nhưng bé Xin quá yếu cũng qua đời sớm.

Ngày 22 tháng chạp năm Canh Tí (tức ngày 10-2 năm 1901) bà Hoàng Thị Loan lâm bệnh và đột ngột qua đời ở Huế(5).

Được tin vợ qua đời, ông Nguyễn Sinh Sắc vội vã trở lại Huế, đưa con về quê.

Hơn 5 năm sống ở chốn kinh thành, Nguyễn Sinh Cung thấy được nhiều điều mới lạ.

*Từng bứơc trưởng thành trên quê hương:

 Trở lại quê hương, ông Nguyễn Sinh Sắc thu xếp tạm ổn cuộc sống cho các con, nghe lời khích lệ của bà con trong họ, ngoài làng, ông lại tạm biệt quê hương, vào Huế dự kì thi hội năm Tân Sửu đời Thành Thái thứ 13 (tức năm 1901). Lần đi thi này ông mang tên mới là Nguyễn Sinh Huy.

 ở lại quê hương Nguyễn Sinh Cung được bà ngoại gửi đi học chữ Hán.

 Tại khoa thi năm đó ông Nguyễn Sinh Huy đỗ phó bảng(6).

Mấy tháng sau(7) theo tục lệ thời ấy, ông Nguyễn Sinh Huy đưa ba người con về sống ở Kim Liên, quê nội. Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Cung, thế hệ thứ mười hai kể từ khi dòng họ Nguyễn Sinh sống ở làng, được làm lễ vào làng với tên gọi mới là Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành.

Ông Nguyễn Sinh Huy quyết định gửi Nguyễn Tất Thành sang học với thầy Vương Thúc Quý đang mở lớp chữ Hán cho một số thiếu niên trong làng. Thấy Quý tuy đỗ cử nhân nhưng không ra làm quan. Ông muốn Nguyễn Tất Thành được học chữ của thầy, nhưng điều quan trọng hơn, đó là  học lòng yêu nước thương dân của thầy Quý.

Nhà thầy Quý còn là nơi lui tới của các sĩ phu yêu nước trong vùng. Nhiều khi Nguyễn Tất Thành được thầy sai tiếp nước cho những vị khách đặc biệt ấy, nhờ đó cậu thiếu niên Tất Thành dần dần hiểu được thời cuộc và sự day dứt của các bậc cha chú trước cảnh nước mất nhà tan(8).

Lớn dần lên, càng đi  vào cuộc sống của nhân dân, Nguyễn Tất Thành càng thấm thía thân phận cùng khổ của người dân mất nước. Thuế khóa vốn đã nặng nề lại còn thêm thủ đoạn ăn cuớp trắng trợn và dã man của bọn hào lý. Cùng với thuế khóa là nạn bắt phu đi xây dựng thị xã Vinh, phu đi mở mang hệ thống đường giao thông trong tỉnh để thực dân Pháp có điều kiện thuận lợi vơ vét tài nguyên và ở đâu có nổi dậy đấu tranh thì  nhanh chóng điều quân đi đàn áp.

Tháng 9-1905, thực hiện Nghị định của Toàn quyền Đông Dương, loại trường Pháp – bản xứ (école franco-indigène) đuợc mở tại Vinh, tỉnh lỵ của Nghệ An, với lớp đầu tiên của bậc tiểu học, thường gọi là lớp (curs préparatoire). Chương trình học nặng về tiếng Pháp, chỉ còn một số ít học chữ Hán. Nguyễn Tất Thành được phụ thân cho đi học ở Vinh

Tại trường tiểu học Vinh, Nguyễn Tất Thành chú ý đến ba từ được sơn vào gỗ, gắn ở phía trên bảng đen “LIBERTé, éGALITé, FRATERNITé” (Tự do- Bình đẳng- Bác ái). Anh tìm hiểu và biết đó là khẩu hiệu nổi tiếng của đại cách mạng Pháp năm 1789(9). Đối với anh, đó là những điều hoàn toàn mới lạ, khác với những điều mà anh đã học trong sách vở thánh hiền…, vì vậy rất tự nhiên, anh nảy ra ý muốn “tìm hiểu những gì ẩn dấu trong những  từ ấy”. Nhưng chưa hết năm học khoảng cuối tháng 4-1906, anh Thành phải nghỉ học để chuẩn bị cùng cha lên đường vào Huế.

*Tham gia biểu tình chống thuế tháng 4-1908

Vào Huế, cùng với anh, Nguyễn Tất Thành phải học lại lớp dự bị ở trường tiểu học Pháp- Việt Đông Ba, niên khóa 1906-1907 và tiếp theo đó học lớp sơ đẳng vào năm 1907-1908 với tên mới là Nguyễn Sinh Côn(10).

Tháng 4-1908, vào gần cuối năm lớp sơ đẳng của anh Thành, kinh đô Huế lại xôn xao, náo động về một sự kiện mới: bị mất mùa liên tiếp 3 năm, nông dân 6 huyện của tỉnh Thừa Thiên kéo nhau rầm rập về kinh thành. Bà con vây quanh tòa Khâm sứ ở cầu Tràng Tiền để đòi giảm sưu, giảm thuế. Nguyễn Tất Thành đã tham gia những cuộc biểu tình này. Thực dân Pháp đã thẳng tay đàn áp những người nông dân hiền lành.

 Năm học 1908-1909, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt chuyển sang học trường Quốc Học Huế(11).

 Tuy vốn tiếng Pháp còn ít ỏi, Nguyễn Tất Thành bắt đầu tiếp xúc với sách báo Pháp, bao gồm cả sách báo mượn của những người lính lê dương trong quân đội Pháp. “Những người lính lê dương này đọc đủ thứ. Họ là những kẻ chống đối về bản chất” (12).

Sau khi tham gia cuộc biểu tình chống thuế, Nguyễn Tất Thành bắt đầu bị bọn cảnh sát theo dõi và nhà trường để ý đến anh. Bọn quan cai trị thực dân khiển trách Nguyễn Sinh Huy về việc con trai ông phát ngôn bài  Pháp(13).

Khoảng hạ tuần tháng 5-1909, Nguyễn  sinh Huy có mặt ở Bình Định để  chấm thi, sau đó, được bổ nhiệm chức đồng phủ lãnh chức tri huyện Bình Khê(14).

Cuối năm đó, Nguyễn Tất Thành rời trường Quốc học, theo phụ thân vào Bình Định(15)

 Đến Bình khê, Nguyễn  Tất Thành được gửi học tiếp chương trình lớp nhất (cours supéricur) với thầy giáo Phạm Ngọc Thọ lúc ấy đang dạy ở truờng tiểu học Pháp- Việt Quy Nhơn. Ông hiểu khả năng và chí hướng người con trai thứ của mình, nên đã tạo điều kiện cho anh tiếp tục học lên.

Tháng 1-1910, Nguyễn Tất Thành được một tin không vui, ông Nguyễn Sinh Huy bị “triệu hồi” chức tri huyện Bình Khê, bị triều đình gọi “lại kinh hậu cứu” (trở về kinh đô để xem xét sau).

 Với sự giúp đỡ của thầy giáo Phạm Ngọc Thọ, Nguyễn Tất Thành hòan thành chương trình tiểu học vào khoảng tháng 6-1910. Trước biến cố mới của gia đình, anh không theo cha trở về Huế mà quyết định đi tiếp xuống phía Nam.

*Tìm đường ra nước ngoài

Anh Thành đến Phan Thiết vào cuối tháng 8-1910(16). Nhờ gặp được một người có mối quan hệ từ trước với phụ thân, anh được giới thiệu vào làm trợ giáo môn thể dục(17) tại Trường Dục Thanh, đúng vào dịp nhà trường mới khai giảng.

Đầu tháng 2-1911, thầy giáo Nguyễn Tất Thành rời Phan Thiết vào Sài Gòn. Anh ở tạm trú tại các chi nhánh của Liên Thành công ty đặt tại Sài Gòn, như nhà số 3, đường Tổng đốc Phương (nay là số 5, đường Châu Văn Liêm); nhà số 128, Khánh Hội, v.v. (18).

Anh đi vào xóm thợ, làm quen với những thanh niên cùng lứa tuổi đang làm thợ hay học nghề ở Trường kỹ nghệ thực hành (école pratique d’ industrie), Trường đào tạo thợ máy á Đông ở Sài Gòn  (école dé mécaniciens  Asiatiquess de Sai Gòn); anh cũng làm quen với những hiệu giặt là ở gần cảng Nhà Rồng, chuyên nhận giặt quần áo cho các thủy thủ trên tàu của Pháp để xin làm việc trên tàu. Anh đang tìm cách thực hiện những chuyến đi xa.

Ngày 3-6-1911, một thủy thủ của tàu dẫn Nguyễn Tất Thành, với tên mới là Văn Ba, lên tàu gặp thuyền trưởng Maixen (Maisen) và được nhận vào làm phụ bếp trên tàu.

Ngày 5-6-1911, tàu Amiran Latusơ Tơrêvin rời bến cảng Sài Gòn đi Mácxây (Marseille), mang theo một người thanh niên Việt Nam đầy lòng yêu nước, thương dân, ôm ấp một hoài bão lớn lao: tìm hiểu nền văn minh của thế giới, ra sức học hỏi để về giúp nước. Một giai đoạn mới, một bước ngoạt mới mở ra trong cuộc đời Nguyễn Tất Thành.

2, Từ người yêu nước trở thành chiên sĩ cộng sản( 6/ 1911- 12/ 1920)

* Lên đường sang phương Tây qua châu Phi , Mỹ  và trở lại Pháp. Những hoạt động trong phong trào công nhân Pháp, tham gia Đảng Xã hội và bản Yêu sách của nhân dân An Nam

Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc lên đường sang phương Tây, Với chân phụ bếp trên tàu, hằng ngày anh Ba phải làm việc từ 4 giờ sáng, quét dọn sạch sẽ nhà bếp lớn, sau đó, đốt lò, đi khuân than, xuống hầm lấy rau, thịt cá, nước đá… Anh làm việc trong nhiêt độ không bình thường: trong bếp thì rất nóng, ở dưới hầm thì rất lạnh. Anh phải vác nặng từ dưới trèo lên những bậc thang khi con tàu đang tròng trành vì sóng biển. Xong các việc trên, anh phải dọn cho bọn chủ bếp người Pháp ăn. Rồi nhặt rau, rửa xoong chảo, đốt lò lại. Nhà bếp phải lo ăn cho hàng trăm người nên các đồ dùng nấu ăn đều to, nặng. Công việc bận rộn vất vả suốt cả ngày, đến 9 giờ tối mới xong. Mỗi tháng, bọn chủ trả cho anh 45 phrăng là hạng tiền công rẻ mạt.

Với thái độ thân mật, lễ độ với mọi người, anh Ba được các bạn cùng làm trên tàu yêu mến, sẵn sàng giúp đỡ, chỉ bảo những việc còn mới lạ. Sau khi làm xong việc, anh tranh thủ học tập, đọc hoặc viết đến 11, 12 giờ đêm mới nghỉ, để 4 giờ sáng hôm sau lại bắt tay vào những công việc của một ngày mới.

Sau một tháng trời lênh đênh trên biển cả và ghé lại mộ số cảnh để trao đổi hàng, tiếp thêm nhiên liệu, nứơc ngọt, thực phẩm, ngày 6-7-1911, tàu cập bến Mácxây.

Tại Mácxây, ngày 15-9-1911, anh viết thư gửi Tổng thống và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, ký tên Nguyễn Tất Thành, xin được vào học Trường Thuộc địa(19) với “ý muốn trở thành có ích cho đồng bào tôi, muốn cho họ được hưởng những lợi ích của học thức”.

Tháng 10-1911, Pari đã trả lời từ chối yêu cầu của anh.

Đi qua châu Phi và những năm tháng ở Mỹ, Anh

Năm 1912, Nguyễn Tất Thành đang làm vườn cho ông chủ hãng Sácgiơ Rêuyni thì được biết sắp có một chuyến tàu chở hàng đi vòng qua châu Phi, anh vui vẻ nhận lời vì “muốn đi xem các nước”.

Nguyễn Tất Thành theo con tàu tiếp tục đi qua Máctiních (Martinique) (Trung Mỹ), Urugoay và áchentina (Nam Mỹ) và dừng lại ở nước Mỹ cuối năm 1912.

Nguyễn Tất Thành từng đến thăm quận Brúclin (Brooklyn) của thành phố Niu Oóc (New York).

Anh thường đi xe điện ngầm tới khu Háclem (Harlem), để tìm hiểu nguồn gốc lịch sử, cuộc đấu tranh chống áp bức giai cấp và kỳ thị chủng tộc của người da đen.

Khoảng giữa năm 1913, Nguyễn Tất Thành theo con tàu rời Mỹ trở về Lơ Havơrơ đi Anh, như anh nói để học tiếng Anh và xem nước tự nhận là “mặt trời không bao giừ lặn” trên đế quốc của mình hiện tình ra sao.

Để có tiền sống, mới đầu Nguyễn Tất Thành xin làm việc quét tuyết cho một trường học. Sau đó, anh xin chân đốt lò ở trung tâm sưởi ấm của thành phố London. Đây là một công việc rất nặng nhọc: trong hầm hết sức nóng, ra ngoài trời cực kỳ rét, không có đủ quần áo, anh bị cảm, phải nghỉ làm việc hai tuần. Với sô tiền nhỏ dành dụm được, anh trả tiền thuê phòng ở, ăn và trả công thầy dậy tiếng Anh gần hết, Nguyễn Tất Thành phải đến Sở tìm việc và được giới  thiệu làm thuê ở khách sạn CácLơTơn (Carlton) tại thủ đô LuânĐôn (London).

- Trở lại Pháp hoạt động trong phong trào…

 Khoảng cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở lại nước Pháp(20) và cư trú ở Pari.

Khi mới đến Pari, đầu tiên anh Nguyễn được bố trí náu mình trong một căn buồng ở phố  Saron (Charonme), sau được một đồng chí người Italia thu xếp đến ở nhà một đồng chí tên là Moktar người Tuynidi ở quận 13(21). Sau khi đã được các đồng chí Xã Hội Pháp kiếm cho thẻ lao động hợp pháp, giữa năm 1919, anh dọn đến nhà số 10, phố Xtốckhôm (Stockholm), rồi lại chuyển đến số 56, phố Mơxiơ lơ Pơranhxơ (Monsieurr le Prince). Nhờ lăn lộn trong quần chúng lao động ở khu phố Êpinét (ếpinette) nghèo nàn, giữa Pari hoa lệ đó, anh Nguyễn đã nhanh chóng đến được với phái tả của cách mạng Pháp.

Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã Hội Pháp.

Khi được hỏi vì sao vào Đảng, anh trả lời: Chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: “Tự do, Bình Đẳng, Bác ái”.

- Bản yêu sách của nhân dân An Nam

Nhân Hội nghị các nước đế quốc họp ở Vécxay (Versaillé), có đại biểu chính phủ các nước thắng trận: Mỹ, Anh, Pháp, ý, Nhật, Bỉ, v.v một bên, và nước thua trận là Đức một bên, những người yêu nước Triều Tiên, Ai Cập,  Trung Quốc… đưa yêu sách của mình đến Hội nghị và mong được xem xét, giải quyết.

Thay mặt nhóm người Việt Nam yêu nước, Nguyễn ái Quốc tới lâu đài Vécxay trao bản Yêu sách cho văn phòng Hội nghịsau đó lần lượt gửi bản Yêu sách đến các đoàn đại biểu các nước Đồng minh dự Hội nghị, trong đó có đoàn đại biểu chính phủ Mỹ. Hầu hết các đoàn đại biểu đều có thư trả lời Nguyễn ái Quốc.

Sau khi bản Yêu sách bằng tiếng Pháp được in vào ngày 18-6-1919, Nguyễn Tất Thành còn tự tay viết Yêu sách bằng hai thứ chữ: một bản bằng chữ quốc ngữ theo thể văn vần, nhan đề Việt Nam yêu cầu ca và một bản chữ Hán nhan đề An Nam nhân dân thỉnh nguyện thư, chụp in thành truyền đơn. Nguyễn Tất Thành cùng một số kiều bào trong Hội người Việt Nam yêu nước đem phân phát trong các cuộc hội họp, mít tinh, các buổi sinh hoạt câu lạc bộ,…

Những bài báo đầu tiên chống chủ nghĩa…

Từ yêu cầu của thực tiễn đấu tranh, Nguyễn ái Quốc thấy cần phải học viết báo để tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Phong trào công nhân và Chủ nghĩa xã hội ở Pháp đã đưa anh đến với hoạt động báo chí.

Nguyễn ái Quốc kiên trì học tập, học tiếng Pháp, học cách viết báo, ngày đi làm, tối đi hội họp, mittính, tuy khá vất vả, nhưng anh vẫn cố gắng viết để tố cáo tội ác của bọn thực dân.

Bài báo đầu tiên của Nguyễn ái Quốc, đúng với tính cách một bài báo, là bài báo Vấn đề dân bản xứ, đăng báo L’Humanité ngày 2-8-1919(22).

Lên án Chủ Nghĩa Thực Dân, Thúc Đẩy Sự Nghiệp Giải Phóng Các Dân Tộc Thuộc Địa (1921 – 6-1923)

- Nhà số 9 ngõ Côngpoăng

ở Pari, Nguyễn ái Quốc sống chủ yếu băng nghề in phóng ảnh. Do việc làm không ổn định, tiền kiếm được ít, giá sinh hoạt mỗi ngày một đắt đỏ, đời sống gặp nhiều khó khăn nên anh còn phải nhận làm thêm việc vẽ quạt, lọ hoa và chao đèn bằng sơn màu.Từ khi ký tên thay mặt nhóm người yêu nước Việt Nam vào bản yêu sách 8 điểm, sự tìm kiếm việc làm của Nguyễn ái Quốc càng khó khăn, do có sự can thiệp của cơ quan an ninh Pari đối với những chủ hiệu thuê anh làm.

Sau ngày 14-7-1921, Nguyễn  ái Quốc rời ngôi nhà số 6, Vila đề Gôbơlanh đến nơi mới tại gác 2 nhà số 9 ngõ Côngpoăng (compoint). Đó là một căn phòng rộng 9 mét vuông cũ kỹ, nhỏ bé nằm trong ngõ cụt thuộc một khu phố nghèo ở Pari, trong những năm ấy vẫn chưa có ánh sáng điện. Căn phong cho thuê trang bị rất sơ sài: một cái giường cá nhân bằng sắt, một cái bàn nhỏ, một chiếc ghế, một cái tủ áo và vài thứ đồ dùng rẻ tiền.

Công việc kiếm ăn bấp bênh như vậy, nên khi có việc kiếm được tiền, anh vẫn phải tiết kiệm, đề phòng lúc thất nghiệp hay đau ốm. Anh ăn uống tằn tiện, mua những món ăn rẻ tiền: nấu cơm trên bếp đèn cồn với một con cá mắm hoặc một ít thịt, sáng ăn một nửa và dành một nửa đến chiều. Có khi chỉ một chiếc bánh mì với một chiếc pho mát là đủ ăn cho cả ngày.

Về mùa đông lạnh, mỗi buổi sáng trước khi đi làm, anh để một viên gạch vào cạnh lò bếp, chiều về anh lấy viên gạch ra, bọc vào trong những tờ báo cũ, để xuống giường cho nắm cho đỡ rét.

Thường thường, anh chỉ đi làm việc buổi sáng, còn buổi chiều đến thư viện hoặc đi dự những buổi nói chuyện chính trị để nâng cao hiểu biết hay tham dự các buổi míttinh. ở đó anh cũng tham gia phát biểu tranh luận và  khéo léo lái những đề ttài thảo luận sang vấn đề thuộc địa nhằm lên án tội ác của bọn thực dân

- Tham gia đại hội lần thứ  I

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Đảng Cộng sản Pháp họp ở Pari từ ngày 21 đến  ngày 24-10-1922(23). Nguyễn ái Quốc lại được cử làm đai biểu.

Theo lời đề nghị tích cực của Nguyễn ái Quốc, Đại hội đã biểu quyết thông qua Lời kêu gọi những người bản xứ ở các thuộc địa do Ban nghiên cứu thuộc địa đệ trình, với tác giả soạn thảo là Nguyễn ái Quốc và ápđen Kađe.

Nguyễn ái Quốc còn tham gia các Hội nghệ thuật và khoa học, Hội những người bạn của nghệ thuật.Những hội này hàng tuần tổ chức những cuộc đi thăm các bảo tàng, nhà máy, phòng thí nghiệm, xưởng nghệ thuật, nhà hát, có những nhà chuyên môn hướng dẫn và giới thiệu.

Anh cũng vào Hội du lịch để được đi tham quan nhiều nơi ở Pháp , ý, Thụy Sĩ, Đức và cả Tòa thánh Vaăng, không phải chỉ vì thích du lịch mà vì anh muốn biết những nước ấy tổ chức và cai trị như thế nào.

*Tham gia sáng lập hội  Liên Hiệp thuộc địa và Chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Le Paria (Người cùng khổ)

Được sự đồng tình và ủng hộ của Đảng Cộng Sản Pháp, Nguyễn ái Quốc đã cùng với đại biểu các thuộc địa của Pháp có mặt ở Pari đứng ra vận động thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa, một hình thức mặt trận của các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân Pháp thống trị, liên minh với giai cấp vô sản chính quốc cùng đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.

Bản Tuyên ngôn của “Hội Liên Hiệp thuộc địa”, do  Nguyễn ái Quốc viết, được Hội đồng nhất trí thông qua trong cuộc họp ngày 28-5-1922.

Hội Liên Hiệp thuộc địa cho xuất bản tờ báo Le Paria làm cơ quan ngôn luận của Hội,  Nguyễn ái Quốc được Ban Chấp hành Hội phân công làm chủ nhiệm kiêm chủ bút của tờ báo.

Nguyễn ái Quốc trực tiếp phụ trách tờ báo từ số 1 đến số 15 (6-1923). Trước khi rời nước Pháp đi Liên Xô, anh vẫn còn chuẩn bị bài để lại cho các số sau. Trong thời gian đó, anh đã cho đăng trên 30 bài viết và tranh vẽ ký tên Nguyễn ái Quốc hoặc các bút danh đã được xác định. Có số anh viết tới 4 bài, có bài dài đăng liền trong hai số.

Nguyễn ái Quốc được Đảng Cộng sản Pháp coi là một thành viên sáng lập.

Nhân Hội nghị quốc tế Nông dân và Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản dự định triệu tập vào cuối năm 1923,  Nguyễn ái Quốc được chính thức mời qua Nga tham dự và phát biểu về vấn đề thuộc địa.

Ngày 13-6-1923, từ ga Đuy No (Du Nord), anh lên tàu rời Pari.

 3- Những hoạt động trong phong trào công sản quốc tế(1923-1924)

*Lần đầu đến đất nước Liên Xô

Nguyễn ái Quốc lưu lại trên đất Đức từ ngày 18 đến ngày 22-6-1923, chờ tàu biển đi Liên Xô.

Ngày 27-6-1923, anh được đưa xuống tàu biển, mang tên nhà cách mạng Các Lipnếch, rời Hămbuốc và đến cảng Pêtơrôgrát: ngày 30-6-1923. Làm xong thủ tục nhập cảnh, ít ngày sau, Nguyễn ái Quốc được bố trí lên xe lửa đi Mátxcơva.

 *Hoạt động ở quốc tế nông dân

Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân được triệu tập và khai mạc ngày 10-10-1923 trong cung Anđrâyépxki ở Kremli. Tham dự Hội nghị có 158 đại biểu, trong đó có 122 đại biểu chính thức, đại biểu cho nông dân của 40 nước trên thế giới. Nguyễn ái Quốc được mời tham dự với tư cách là đại biểu chính thức của nông dân Đông Dương.

Với những ý kiến đóng góp tích cực, có giá trị lớn về lý luận và thực tiễn. Nguyễn ái Quốc đã giành được sự tín nhiệm của các đại biểu các nước. Ngày 17-10-1923, Hội đồng Quốc tế Nông dân họp phiên đầu tiên, bầu Người vào Đoàn Chủ tịch gồm 11 ủy viên, trong đó Nguyễn ái Quốc là đại biểu duy nhất của nông dân thuộc địa(24).

* Vào trường Đại học phương Đông

Trường Đại học Cộng sản của những người lao động phương Đông – gọi tắt là Trường Đại học phương Đông - được thành lập ngày 21-4-1921, trực thụôc Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Nhiệm vụ của trường là đào tạo cán bộ cách mạng cho các nước phương Đông và các nước cộng hòa Trung á của Liên Xô.

Nguyễn ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên vào học Trường Đại học phương Đông.

Trong thời gian học tập ở Trường Đại học phương Đông, Nguyễn ái Quốc đã trao đổi với nhóm thanh niên Trung Quốc ở trường, tập hợp những tư liệu do họ cung cấp và viết thành cuốn Trung Quốc và thanh niên Trung Quốc(25).

Sau khi học xong lớp ngắn hạn của Trường Đại học phương Đông, trong khi chờ đợi chuyến lên đường về Châu á, Nguyễn ái Quốc được nhận vào làm cán bộ của Ban phương Đồng Quốc tế Cộng sản theo quyết định, do Pêtơrốp ký, đề ngày 14-4-1924.

* Những bài báo viết trên đất nước Liên Xô

Trong thời gian ở Liên Xô, ngoài việc tiếp tục gửi bài, chăm lo cho sự tồn tại và phát triển của tờ báo Le Paria, Nguyễn ái Quốc còn viết nhiều bài gửi đăng tập san của Quốc tế Cộng sản, báo L’ Humanité, La Vie Ouvrière và báo Pravđa.

* Hoàn thành tác phẩm

Bản án chế độ thực dân Pháp

Trong những ngày ở Liên Xô, Nguyễn ái Quốc đã có điều kiện hoàn thành Bản án chế độ thực dân Pháp.

Cuốn sách gồm 12 chương và một phụ lục, đề cấp đến ba nội dung lớn: Tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp; sự thức tỉnh của các dân tộc thuộc địa; và phương hướng đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc theo đường lối của Quốc tế Cộng sản.

*Báo cáo Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ

Theo những tin tức nhận được, Nguyễn ái Quốc biết sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất hiện có nhiều thanh niên yêu nước Việt Nam đang có mặt ở Quảng Câu. Họ có thừa nhiệt huyết nhưng chưa có tổ chức và thiếu một đường lối đúng đắn trong hoạt động. Nguyễn ái Quốc nóng lòng được tới niềm Nam Trung Quốc để “tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”.

Sau nhiều lần đề đạt, nguyện vọng của Nguyễn ái Quốc được Quốc tế Cộng sản chấp nhận. Với tư cách là ủy viên Ban phương Đông của Quốc tế Cộng sản, đồng thời ủy viên Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân, Nguyễn ái Quốc được giao trách nhiệm theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước châu á(26).

Một ngày cuối tháng 10-2924, Nguyễn ái Quốc rời Mátxcơva đi xuống Xibêri, nghỉ lại ở Vlađivôxtốc rồi xuống tàu viễn dương của Liên Xô, đi Trung Quốc. Người đến Quảng Châu ngày 11-11-1924.

II từ sự kiện thành lập đảng cộng sản việt nam đến cuộc kháng chiến chống thực dân pháp thắng lơi:

1, Chuẩn bị điều kiện sáng lập Đảng cộng sản việt nam( 11/1924- 2/1930)

* xây dựng tổ chức cách mạng theo khuynh hướng macxit

Lúc đó Người lấy bí danh là Lý Thụy, làm phiên dịch trong văn phong của Đoàn cố vấn Xôviết tại Quảng Châu.

Nguyễn ái Quốc xây dựng tổ chức cách mạng của mình tuần tự theo từng bước – từ tiếp xúc, tìm hiểu những người yêu nước Việt Nam đang hoạt động ở niềm Nam Trung Quốc lập ra nhóm bí mật làm hạt nhân, sau đó lập ra một tổ chức cách mạng (sau này là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên) và cuối cùng, đặt nó trong mối liên hệ với phong trào cách mạng châu á, tức là trong Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức.

Sau đó, Nguyễn ái Quốc tiến tới thành lập một tổ chức có tính chất quần chúng rộng hơn nhằm tập hợp những thanh niên yêu nước trong và ngoài nước. Tháng 6-1925, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ra đời, công bố chương trình, điều lệ của mình, nói rõ mục đích của Hội là “làm cuộc cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành lại độc lập cho xứ sở), sau đó làm cách mệnh thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản)”(27).

* Báo Thanh Niên và tác phẩm Đường Kách mệnh

Cùng với việc đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị, quân sự, Nguyễn ái Quốc chủ trương xuất bản sách và báo chí, làm phương tiện tuyên truyền.

Báo Thanh niên, cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ra số đầu vào ngày 21-6-1925 tại Quảng Châu.

Báo Thanh niên tập trung tuyên truyền xoay quanh những chủ đề chính sau đây:

1- Đế quốc và thuộc địa.

2- Cách mạng và cải lương.

3- Vì lẽ gì người Việt Nam chưa làm cách mạng được? Những trở ngại về tư tưởng và tổ chức cần vượt qua.

4- Đảng cách mạng - Đảng Cộng sản.

5- Cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới.

6- Đảng cách mạng và mặt trận dân tộc thống nhất.

7- Hướng tới phát động một phong trào đấu tranh của quần chúng.

8- Học tập kinh nghiệm các cuộc cách mạng thế giới.

9- Học tập lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin.

Từ tháng 6-1925 đến tháng 4-1927, tức là thời kỳ có sự chỉ đạo trực tiếp của người sáng lập, Thanh niên ra được 88 số (28)

* Sát cách chiến đấu cùng nhân dân Trung Quốc thời đại cách mạng ở Quảng Đông.

Trong những năm tháng hoạt động ở Trung Quốc, Nguyễn ái Quốc không chỉ quan tâm tới việc tổ chức lực lượng cách mạng Việt Nam, mà còn tham gia những hoạt động giúp đỡ phong trào cách mạng các nước trong khu vực, đặc biệt là phong trào cách mạng sôi sục của Trung Quốc những năm 1925-1927.

Nguyễn ái Quốc là một chiến sĩ quốc tế đã cùng với các đồng chí Trung Quốc, ấn Độ, Triều Tiên, Miến Điện, tích cực vận động thành lập một tổ chức cách mạng có tính chất quốc tế. Ngày 9-7-1925, Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ra đời, nhằm đoàn kết các dân tộc nhỏ yếu bị áp bức trong một tổ chức cách mạng vì mục tiêu cao cả: giải phóng đất nước khỏi sách thực dân, đưa các dân tộc bị nô lệ vào con đường ấm no, hạnh phúc. Nguyễn ái Quốc đã đóng vai trò quan trọng trong tổ chức đó: từ đầu năm 1926, sau khi cải tổ, Người được bầu là Bí thư của Hội kiêm ủy viên phụ trách tài chính. Là người biết nhiều ngoại ngữ, Hội đã giao cho Người thảo các bức điện, thư thăm hỏi gửi các tổ chức và các nước trên thế giới. Ngày 14-5-1926, Người đã thảo bản Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp các dân tộ bị áp bứcủng hộ công nhân bãi công ở Anh, điện thăm hỏi và ủng hộ phong trào cách mạng ở các nước Xyri, Marốc, Triều Tiên, Việt Nam, v.v...(29).

Cuộc đảo chính phản cách mạng của Tưởng không chỉ gây tổn hại lớn cho Đảng Cộng sản Trung Quốc và phong trào cách mạng Trung Quốc mà còn gây nên những mất mát đáng kể cho phong trào cách mạng của các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam. Sau vụ  chính biến đó, những người cách mạng Việt Nam đang hoạt động trên đất Trung Hoa cũng trở thành đối tượng của sự khủng bố. Vì vậy, từ sau tháng 4-1927, Nguyễn ái Quốc không thể tiếp tục ở lại Quảng Châu.

Nguyễn ái Quốc rời Quảng Châu đi Hương Cảng với hy vọng có thể tiếp tục công việc ở đó. Nhưng mật thám Anh bắt Người phải rời Hương Cảng trong vòng 24 tiếng. Người đi Thượng Hải. ở đấy, bọn Quốc dân Đảng cũng đang tiến hành những đợt khủng bố gắt gao. Để che mắt bọn chúng, Người đã đóng vai một nhà buôn giàu, thuê khách sạn hạng sang. Biết không thể ở lại lâu được, Người quyết định rời Thượng Hải trên một chiếc thuyền buôn đi Vlađivôtxtốc để lại phía sau những kỷ niệm sôi nổi, hào hùng của một quãng đời mình trên đất nước Trung Hoa.

* Trở lại Mátxcơva, tìm đường về gần quê hương

Mùa hè năm 1927, Nguyễn ái Quốc trở lại Mátxcơva, được bạn bè và đồng chí trong Quốc tế Cộng sản vui mừng đón Người tư chiến trường nóng bỏng trở về. Sau những ngày vui sum họp, Quốc tế Cộng sản bố trí cho Người đi an dưỡng ở Crưm để lấy lại sức khỏe, chuẩn bị cho những đợt công tác mới.

Trung tuần tháng 11-1927, Nguyễn ái Quốc rời Mátxcơva đi Đức và sau đó bí mật đi Pháp. Đầu tháng 12-1927, từ Pháp, Nguyễn ái Quốc đi dự phiên họp mở rộng của Đại hội đồng Liên đoàn chống đế quốc tại Brúcxen, thủ đô nước Bỉ. ít lâu sau, Người bắt được liên lạc với đại diện Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Pháp. Trong những cuộc tiếp xúc, Người đã trao đổi nhiều ý kiến với Ban lãnh đạo Đảng và đã thẳng thắn phê bình về sự hoạt động kém cỏi của Ban Nghiên cứu thuộc địa, đồng thời đưa ra những kiến nghị cụ thể và sát hợp.

Dẫu hết sức bí mật nhưng cuối cùng mật thám Pháp cũng đã đánh hơi được sự có mặt của Nguyễn ái Quốc ở Pháp. Trước tình hình đó, Người quyết định thay đổi hành trình: đột ngột bí mật quay trở lại Đức vào trung tuần tháng 12-1927 chờ dịp thuận lợi khác. Trong thời gian chờ đợi, Người nhận làm phóng viên cho tờ Die Welt (Thế giới), gửi thư từ trao đổi với những tổ chức quan trọng, chuẩn bị giấy tờ cho cuộc hành trình xích gần lại quê hương. Cuối tháng 4-1928, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản ra quyết định đồng ý để Người được trở về Đông Dương.

Sau khi nhận đủ giấy tờ cần thiết cho cuộc hành trình, Nguyễn ái Quốc rời Béclin qua Thụy Sĩ để đến Italia. Tại biên giới Thụy Sĩ – Italia, Người bị cảnh sát gây khó dễ nhưng rồi cũng qua được. Đến thành phố Milanô, Nguyễn ái Quốc nhanh chóng bắt liên lạc với đại diện Đảng Cộng sản Italia. Tiếp đó, Nguyễn ái Quốc đi Rôma. Tại đây, Người bị mật thám của Giáo hoàng tình nghi và hỏi giấy tờ. Người bình tĩnh trả lời những câu hỏi hiểm hóc của họ. Không có bằng chứng cụ thể cuối cùng họ phải để cho Người tự do. Sau đó, Người đi Napôli, thành phố cảng niềm Nam nước này. Từ đây, Người đáp tàu thủy Nhật Bản đi Xiêm đề về gần quê hương.

* Xây dựng lực lượng cách mạng trong Việt kiều yêu nước ở Xiêm (Thái Lan)

Tháng 7-1928, Nguyễn ái Quốc tới Xiêm. Nước Xiêm là nơi có nhiều Việt kiều sinh sống.

Đầu tiên, Người tới Băng Cốc, từ đó Người đi Bản Đôn, thuộc huyện Phì Chịt, tỉnh Phítxanuloốc, nơi có cơ sở cách mạng của Việt kiều yêu bước. Để giữ bí mật, Người dùng một số bí danh như Thọ, NamSơn, Chín... Việt kiều ở đây thường gọi Người bằng cái tên thân mật và kính trọng là Thầu Chín, nghĩa là “ông già Chín”.

Cuối tháng 7-1923, Nguyễn ái Quốc rời Phì Chịt đến vùng Đông Bắc Xiêm, nơi có đông Việt kiều sinh sống như Uđon, Xa Vang, Na Khôn, Phu Mon, Noọng Khai.

Tại Uđon, Người đã mở lớp huấn luyện ngắn hạn cho các hội viên Chi hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Cũng tại đây, Người chọn một số sách Mácxít phổ thông dịch sang tiếng Việt như Nhân loại tiến hóa sử, A.B.C Chủ nghĩa cộng sản(30) v.v...

Nhằm giáo dục và cổ vũ tinh thần yêu nước trong Việt kiều, Nguyễn ái Quốc đã biểu dương cuộc đời và sự nghiệp của những anh hùng nổi tiếng trong lịch sử bằng thể loại thơ, kịch dễ hiểu.

Nhưng sự xuất hiện cùng một lúc nhiều tổ chức cộng sản tạo nên nguy cơ chia rẽ trong phong trào công nhân Việt Nam, làm suy yếu phong trào. Để đẩy lùi nguy cơ đó, tất phải thống nhất các tổ chức cộng sản lại thành một đảng duy nhất. Có như vậy, giai cấp công nhân Việt Nam mới đủ mức mạnh đảm đương sứ mệnh lịch sử của mình.

Theo dõi sát sao tình hình cách mạng đang diễn ra ở Đông Dương, Quốc tế Cộng sản đã ra Chỉ thị Nguyễn ái Quốc Về việc thành lập một Đảng Cộng sản ở Đông Dương, ngày 27-10-1929, gửi cho các tổ chức cộng sản.

Cuối năm 1929, Nguyễn ái Quốc rời Xiêm và đến Trung Quốc ngày 23-12. Người gặp gỡ những chiến sĩ cách mạng Việt Nam đang hoạt động ở đây để tìm hiểu thêm tình hình, sau đó, Người đi Hương Cảng, chuẩn bị công việc cho Hội nghị hợp nhất.

Ngày 3-2-1930(31), Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng khai mạc tại nhà của một công nhân ở Cửu Long thuộc Hồng Kông.

Sau mấy ngày(32),  làm việc khẩn trương, Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng do Nguyễn ái Quốc dự thảo.

Sau đó, theo ủy nhiệm của Quốc tế Cộng sản,  Nguyễn ái Quốc đã tiến hành một số công tác tại Xiêm (Thái Lan) và Malaixia, đóng góp công sức vào sự phát triển phong trào cách mạng ở các nước này. Sau khi thoát khỏi một cuộc vây bắt ở Xingapo (Singapore – lúc đó thuộc Malaixia) (33),, đầu tháng 5, Người trở lại Hồng Kông.

Đồng thời nhận được báo cáo về những hoạt động của Đảng trong quần chúng công nhân, binh lính, bồi bếp và bà con người Việt Nam buôn bán trong tô giới Pháp ở Thượng Hải. Nguyễn ái Quốc quyết định trực tiếp đi tìm hiểu, kiểm tra tình hình và giúp đỡ các đồng chí ở đó.

Trung tuần tháng 11-1930, Nguyễn ái Quốc từ Thượng Hải trở lại Hồng Kông và tiếp tục theo dõi và chỉ đạo cao trào cách mạng ở Việt Nam.

2, theo dõi và chỉ  đạo phong trào cách mạng ở trong nước (1930- 1941)

Sáng ngày 6-6, cảnh sát Anh bất ngờ bao vây ngôi nhà số 186, phố Tam Lung (Cửu Long), khi đó, chỉ có Nguyễn ái Quốc đang ở nhà. Nguyễn ái Quốc vừa kịp làm tín hiệu “động” xong thì một tên sĩ quan Anh và mấy tên cảnh sát Trung Quốc đã chĩa súng vào người, xích tay, đẩy lên xe bịt kín, giải về sở cảnh sát Hồng Kông.

Đúng vào lúc Nguyễn ái Quốc bị bắt đưa vào Sở cảnh sát cũng là lúc chúng dẫn Hồ Tùng Mậu đi ra để trục xuất khỏi Hồng Kông. Biết đồng chí Nguyễn ái Quốc đã bị bắt, Hồ Tùng Mậu chủ động tìm đến nhà ông Lôdơby (F.H. Loseby) một luật sư tiến bộ người Anh, lúc đó là Chủ tịch Công ty luật gia ở Hồng Kông để nhờ giúp đỡ.

Ngày 1-8-1931 mới mở phiên tòa đầu tiên xét xử vụ án Nguyễn ái Quốc – Tổng Văn Sơ.

Buổi xét xử công khai, nhưng trong ngoài tòa án đều có lệnh giới nghiêm vì “sợ ông Nguyễn ái Quốc trốn”. “Ông Lôdơby là luật sư chính của vụ án, nhưng người bào  chữa trước tòa lại là tiến sĩ Gienkin (Jenkin), bạn đồng nghiệp của luật sư”.

Ông Lôdơby và luật sư Gienkin đã sử dụng pháp luật của nước Anh để bảo vệ Tổng Văn Sơ.

Từ đấy cho đến tháng 9, tòa án họp 8 phiên nữa, chánh án thừa nhận hai điều sai (bắt và hỏi cung trái phép) nhưng vẫn quyết định trục xuất Tống Văn Sơ về Đông Dương. Luật sư Lôdơby phản đối kết luận của tòa án và chống án lên Hội đồng nhà vua ở Luân Đôn. Ông nhờ bạn là luật sư Nôoen Prít (Nowel Pritt) ở Luân Đôn giúp đỡ.

Tháng 7-1932, Nguyễn ái Quốc được luật sư Lôdơby cho biết nhờ Nôoen Prít, luật sư ở Luân Đôn, giúp đỡ, Hội đồng cơ mật nhà vua đã chấp nhận đơn kháng án và vụ án sẽ phải đem xử lại. Nhưng nếu sử lại, chính quyền Hồng Kông có thể mất uy tín vì không có chứng cớ. Điều này có khả năng đưa đến những hậu quả không tốt. Do đó, ông Lôdơby đã đồng ý với chính quyền Hồng Kông lặng lẽ trả tự do cho Tống Văn Sơ mà không cần phải xét xử thêm nữa.

Theo sự thỏa thuận, Tống Văn Sơ sẽ bị trục xuất khỏi Hồng Kông, đến nơi mình tự chọn lấy và nơi đó phải được giữ bí mật.

Ông bà Lôdơby mua cho Nguyễn ái Quốc một vé tàu thủy đi châu Âu. Tàu đến Xingapo, Nguyễn ái Quốc lại bị cảnh sát bắt và trả lại Hồng Kông, Lấy cớ ông Nguyễn đi vào thuộc địa không có giấy phép, nhà cầm quyền Hồng Kông lại bắt giam ông, Ông Lôdơby lại tận tình cứu giúp Nguyễn một lần nữa, bí mật thu xếp cho Nguyễn ái Quốc an toàn rời khỏi Hồng Kông.

ở Hạ Môn, Nguyễn ái Quốc đóng vai trò một nhà trí thức thượng lưu nhàn rỗi, nghỉ ngơi dạo chơi trong rừng, viết bài cho các báo địa phương bằng tiếng Anh với những tên ký khác nhau.

Vào khoảng tháng 7-1933, Nguyễn ái Quốc quyết định rời Hạ Môn lên Thượng Hải, tìm cách bắt liên lạc với Đảng.

Để che mắt bọn mật thám, Người tiếp tục đóng vai một thân sĩ quần áo sang trọng ở khách sạn đắt tiền nhưng đến tối thì “khóa cử phòng lại, ăn khoai trừ bữa và tự giặt lấy áo quần”.

Mùa thu năm ấy, được tin có một đoàn đại biểu hòa bình châu Âu sang các nước Viễn Đông tuyên truyền chống chiến tranh đế quốc; đọc báo, Người được biết trong đoàn có đồng chí Pôn Vayăng Cutuyariê, bạn cũ của Người từ những năm 20 trên đất Pháp. Tại đây Nguyễn ái Quốc và P. Vayăng Cutuyariê đã gặp được nhau.

Vào một buổi chiều cuối mùa xuân năm 1934, một chiếc tàu buôn Liên Xô trên đường về Vlađivôxtốc đã ghé qua Thượng Hải để sửa chữa lặt vặt. Thuyền trưởng được lệnh thả thang tàu đón một hành khách mặc áo dài Trung Quốc từ một chiếc thuyền nhỏ bước lên tàu... Mấy ngày sau, con tàu đã cặp bến cảng Vlađivôxtốp, đưa Nguyễn ái Quốc, người vừa thoạt khỏi nhà tù Víchtoria, trở về với gia đình Quốc tế Cộng sản.

* Trở lại Mátxcơva

Sau một thời gian dừng lại Vlađivôxtốc để hoàn thành thủ tục nhập cảnh vào Liên Xô, Nguyễn ái Quốc đã vượt đường xe lửa xuyên Xibia về Mátxcơva.

Mùa thu năm 1934, Nguyễn ái Quốc được nhận vào học Trường Quốc tế Lênin, là trường bồi dưỡng lý luận dành riêng cho cán bộ các đảng anh em. Kết thúc khóa học tại Trường Quốc tế Lênin(34),, Nguyễn ái Quốc nóng lòng trở về Tổ quốc.

* Nhận công tác tại Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa:

Trong khi chờ thời cơ về nước, vào khoảng mùa thu năm 1936, Nguyễn ái Quốc vào nhận công tác tại Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, ở số nhà 25 đại lộ Tvéckaia. Tại đây Người đã gặp gỡ và làm quen với nhiều chiến sĩ cách mạng ở một số nước châu á, nhờ đó, có những hiểu biết thêm tình hình cách mạng đang diễn ra ở các nước này.

Ngày 29-9-1938, Nguyễn ái Quốc rời Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, bỏ lại bản luận án đang viết dở. Một buổi chiều đầu tháng 10, Nguyễn ái Quốc đáp xe lửa rời Mátxcơva đi về phương Đông. Vì các tỉnh ven biển Trung Quốc đã bị Nhật chiếm đóng nên đến Nôvôxibiếcxcơ, hành  trình của Người chuyển xuống phía Nam, vượt biên giới Xô - Trung, vào Urumsi (Tân Cương). Trong những tháng năm ấy, Liên Xô đã viện trợ cho Trung Quốc nhiều phương tiện kỹ thuật chiến tranh. Hàng đoàn xe tải quân sự từ các ngả đến Anma Ata, vượt cửa Hữu nghị đi qua Kunda, một thị trấn ở sát biên giới Xô - Trung, vào Urumsi để đến Lan Châu.

Tại đây, Nguyễn ái Quốc được một cán bộ cao cấp  trong quân đội của Đảng Cộng sản Trung Quốc đón và chuẩn bị cho một chứng minh thư Trung Quốc với tên Hồ Quang, cấp bậc là thiếu tá(35),.

Từ Lan Châu, theo đường dây của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Người đến Tây An.

ở Tây An vài hôm, Người cùng các đồng chí Trung Quốc “hộ tống” mấy chiếc xe bồ chở vải rách (để bên dép) đi Diên An.

Bấy giờ Diên An là “đất thánh cách mạng” của Trung Quốc.

Rời Tây An, Người đi xuống Quảng Tây để tìm cách về gần nước ta, khi đó Quảng Đông với Quảng Châu, Hồng Kông đều đã bị Nhật chiếm. Để giữ bí mật, Người đóng vai lính hầu của một cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Dừng chân tại Quế Lâm, khi đó là tỉnh lỵ của Quảng Tây, Người ở trong trụ sở Văn phòng Quế Lâm của Bát lộ quân, vừa tham gia công việc của Bát lộ quân, vừa tìm cách liên lạc với trong nước.

Từ tháng 2-1939, Nguyễn ái Quốc rời Quế Lâm (Quảng Tây) cùng tướng Diệp Kiếm Anh đi Hoành Dương (Hồ Nam) tham gia lớp huấn luyện du kích tại Nam Nhạc.

Nguyễn ái Quốc tham gia vào lớp huấn luyện khóa II từ ngày 20-6 đến ngày 20-9-1939. Thời gian này Người được biết với danh nghĩa công khai như sau:

Họ và tên: Hồ Quang

Đồng chí Hồ Quang, trên danh nghĩa là tổ trưởng điện đài của Văn phòng Bát lộ quân Quế Lâm, công tác tại lớp huấn luyện du kích cho đến tháng 11 thì rời Hồ Nam trở lại Quế Lâm, đi Long Châu. Lần ấy, một cán bộ của Văn phòng Bát lộ quân dẫn đường cùng đi với Nguyễn ái Quốc đến Long Châu để bắt liên lạc với người trong nước sang, nhưng không gặp được(36),.

Không bắt được liên lạc, Người trở lại Quế Lâm, đi qua Quý Dương để đến Trùng Khánh, nơi có đại diện Đảng Cộng sản Trung Quốc, có phân xã TASS của Liên Xô.

* Đến Côn Minh, bắt liên lạc với tổ chức Đảng

Khoảng cuối năm 1939, Người trở lại Quý Dương, nhưng vẫn không giữ được người đến đón, nên lại tìm đường đi Côn Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam.

Sau khi đến Côn Minh, Nguyễn ái Quốc tìm hiểu phong trào Việt kiều, Nhờ sự giúp đỡ của các đồng chí trong Tỉnh ủy Vân Nam Trung Quốc, cuối cùng Người đã bắt được mối liên lạc với Ban hải ngoại của Đảng ta.

*Tìm đường về nứơc

Cuối tháng 6, Người đáp máy bay lên Trung Khánh gặp Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc để trao đổi ý kiến về thời cuộc. Trước khi đi, Người dặn đi dặn lại nhiều lần các đồng chí ở Côn Minh phải nghiên cứu, chọn hướng xây dựng căn cứ địa, tìm hiểu tình hình trong nước, chuẩn bị chu đáo về mọi mặt để khi Người trở về là có thể lên đường về nước.

Cuối tháng7, Nguyễn ái Quốc trở lại Côn Minh. Nhưng kế hoạch về nước theo hướng Côn Minh – Lào Cai không thực hiện được.

Khoảng tháng 10-1940, Nguyễn ái Quốc cùng một số cán bộ rời Côn Minh về Quế Lâm (Quảng Tây) để tìm đường về nước theo hướng mới.

Vào hạ tuần tháng 12-1940, Người cùng với một số cán bộ rời Quế Lâm đi xuống Tĩnh Tây.

Mấy ngày sau, Nguyễn ái Quốc theo đường Long Lâm qua Nậm Bo, xuống Nậm Quang, một làng sát biên giới Việt – Trung.

Tại Nậm Quang, Người mở lớp huấn luyện cho 43 cán bộ cách mạng Việt Nam.

Sớm mồng hai Tết, tức ngày 28-1-1941, trời chưa sáng, sương mù còn dày đặc, đoàn rời Nậm Quang lên đường về nước.

3, Lãnh đạo nhân dân tổng khởi nghĩa tháng tam, sáng lập nhà nước dân chủ cộng hòa (1941-1945)

* ở Pác Bó, nơi đầu nguồn của cách mạng

Được sự giúp đỡ của cán bộ và đồng bào địa phương, Nguyễn ái Quốc chọn hang Cốc Bó (tiếng Nùng có nghĩa là đầu nguồ), một hang núi kín đáo ở thôn Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng (Cao Bằng), sát biên giới Việt – Trung, làm nơi đứng chân đầu tiên. Từng ngày 8-2-1941, Người bắt đầu sống và làm việc tại hang này.

Cuộc sống của Người những ngày ở Pác Bó thật là gian khổ. Khí hậu trong hang ẩm ướt mùa đông gió lùa tê buốt mà Người chỉ có một tấm chăn mỏng, phải dùng lá khô lót chỗ nằm, có khi phải đốt lửa sưởi suốt đêm. Bữa ăn hàng ngày thường rất đạm bạc: rau rừng, ốc suối, cháo bẹ, rau măng,... thỉng thoảng mới có ít thịt kho mặn với muối ớt.

Ngày ngày, Người dậy sơm chạy ra ngoài hang tập thể dục, leo núi rồi xuống suối tắm, sau đó bắt tay vào công việc. Có khi xuống làng hỏi chuyện đồng bào, có khi lên núi hái củi cùng anh em. Tối về, bên bếp lửa, Người tranh thủ bồi dưỡng kinh nghiệm hoạt động cách mạng cho cán bộ.

* Chủ trì Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng

Sau ba tháng nắm tình hình và chuẩn bị, lấy danh nghĩa đại diện Quốc tế Cộng sản, Nguyễn ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị làm việc từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941 tại một cái lán bên dòng Khuổi Nậm (Pác Bó).

Hội nghị đã nhất trí cần giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc và nhận định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là phát xít Pháp – Nhật và các lực lượng phản cách mạng tay sai của chúng. Đường lối cách mạng trong giai đoạn này “đánh đuổi Pháp – Nhật, làm cho xứ Đông Dương độc lập”.

Với tinh thần đó, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắc là Việt Minh, thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đồng Dương.

*Sáng lập mặt trận việt minh

Để đẩy mạnh việc tuyên truyền, cổ động thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Trung ương (5-1941), tổ chức nhân dân vào các hội cứu quốc của Mặt trận Việt Minh, tích cực xây dựng và phát triển căn cứ địa cách mạng, Nguyễn ái Quốc quyết định xuất bản báo Việt Nam độc lập gọi tắt là Việt lập.

* Lên đường sang Trung Quốc và bị chính quyền địa phương bắt giam

Sang năm 1942, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn ác liệt. Phát xít Đức huy động tất cả lực lượng của châu Âu tấn công dữ dội vào tây nam Liên Xô.

Trên chiến trường châu á và Thái Bình Dương, phát xít Nhật đang làm mưa gió. Sau khi tập kích bất ngờ vào Trân Châu Cảng (Pearl Harbour) sáng 8-12-1941, Nhật tuyên chiến với Mỹ, Anh, úc và Canada, đồng thời cho quân đổ bộ lên đảo Boócnêô (Bornéo), chiếm thêm tô giới Anh ở Thiên Tân, Thượng Hải (Trung Quốc).

ở Đông Dương, với văn bản ký kết ngày 9-12-1941, “bọn phát xít Pháp ở Đông Dương hoàn toàn chỉ là một con chó giữ nhà cho Nhật, phải thẳng tay đàn áp để giữ vững hậu phương cho Nhật, phải bắt lính, bắt phu và cung cấp tiền tài cho Nhật(37),.

Trước chuyển biến mới của tình hình, một nhiệm vụ bức thiết đặt ra cho cách mạng nước ta là phải thực hiện sự liên minh quốc tế; trước mắt, phải phối hợp hành động của phong trào Việt Minh với phong trào chống Nhật của nhân dân Trung Quốc và các lực lượng đồng minh chống phát xít trên chiến trường Thái Bình Dương. Nguyễn ái Quốc quyết định lên đường đi Trung Quốc.

Để đánh lạc hướng bọn mật thám, Nguyễn ái Quốc lấy tên mới là Hồ Chí Minh, ngày 13-8-1942, lên đường đi Trung Quốc với tư cách là đại biểu của phong trào Việt Minh và đại diện của Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội quốc tế chống xâm lược.

Ngày 27-8, Người đến phố Túc  Vinh (thuộc huyện Đức Bảo, Quảng Tây) thì bị tuần cảnh ở đây giữ lại.

Họ tình nghi người là gián điệp, bèn bắt giữ và giải lên Tĩnh Tây.

Nghi rằng Hồ Chí Minh là người Việt Nam mà lại mang nhiều giấy tờ của Trung Quốc, có vẻ là một tội phạm quan trọng, nhà đương cục Tĩnh Tây quyết định đưa nộp lên cơ quan quân sự cao nhất ở Quảng Tây lúc bấy giờ là Văn phòng Quế Lâm của ủy ban quân sự Chính phủ Quốc dân để xét hỏi. Thế là Hồ Chí Minh bị áp giải từ Tĩnh Tây qua Điền Đông, Long An, Thiên Bảo, Đồng Chính, Nam Ninh, Vũ Minh, Tân Dương, Lai Tân, Liễu Châu và đến Quế Lâm ngày 10-12-1942. Chẳng bao lâu lại bị giải về Liễu Châu để giao cho Cục chính trị Bộ tư lệnh Đệ tứ chiến khu thẩm tra.

Nhờ sự vận động tích cực của Đảng ta, của bà con Việt kiều và sự can thiệt của nhiều nhân vật trong chính giới ở Trung Quốc cuối cùng Hồ Chí Minh được chuyển về nhà giam của Cục Chính trụ Đệ tứ chiến khu ở Liễu Châu.

Tại đây, Người được đối xử tử tế hơn, được hưởng “chế độ chính trị”: có đủ cơm ăn, không bị gông, không bị xích, sáng và chiều đều có mười lăm phút đi ra nhà vệ sinh có lính gác và thỉnh thoảng được đọc sách báo(38). Ngày 10-9-1943, Người mới được trả lại tự do.

* Trong tù, làm thơ

Trong hoàn cảnh đau khổ của 13 tháng bị giam cầm, đày đọa, bị giải tới giải lui khắp 13 huyện và hơn 30 nhà giam của tỉnh Quảng Tây, Người đã viết 133 bài thơ bằng chữ Hán theo các thể thất tuyệt, thất luật, ngũ ngôn và tạp thể.

Dưới dạng nhật  ký, đó là một bộ sử bằng thơ kể lại một quãng đời của Hồ Chí Minh trong nhà ngục Quảng Tây, phản ánh chân thực một phần bộ mặt xã hội Trung Quốc trong các năm 1942-1943. Đồng thời nó cũng thể hiện ý chí kiên cường và tiết tháo cao thượng của nhà cách mạng vĩ đại Hồ Chí Minh.

* Tham gia cải tổ Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội

Sau ngày 10-9-1943, Hồ Chí Minh tuy được trả tự do, nhưng vẫn bị quản chế. Sức khỏe của Người lúc này bị giảm sút nghiêm trọng: mắt bị mờ, chân đi không vững, Người tự nhủ “một chiến sĩ mà bị bệnh tê thấp thì còn làm gì được” cho nên, vừa ra tù Người đặt kế hoạch tập luyện để mau chóng phục hồi sức khỏe. Người tập nhìn vào bóng tối để luyện mắt, tập đi, tập leo núi để luyện đôi chân. Hồi đó, Bộ tư lệnh Đệ tứ chiến khu của Trương Phát Khuê đóng tại dãy núi Phan Long Sơn ở phía Tây thành phố Liễu Châu. Mỗi buổi sáng, tập thể dục xong, Người tập leo núi. Sau một thời gian kiên trì luyện tập, Người đã lên được đỉnh Tây Phong trong dãy núi.

Từ cuối tháng 10, theo yêu cầu của tướng Trương Phát Khuê, Người bắt đầu tham gia một số hoạt động của Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội, một tổ chức của người Việt Nam ở Trung Quốc, gồm nhiều đảng phái, được sự hỗ trợ Bộ tư lệnh Đệ tứ chiến khu, do tướng Trương Phát Khuê, Tư lệnh trưởng, đồng thời là đại diện của Quốc dân Đảng Trung  Quốc, trực tiếp chỉ đạo.

Hồ Chí Minh nhận lời tham gia cải tổ Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội để vừa tranh thủ đoàn kết, vừa phân hóa, lôi kéo những phần tử yêu nước và tiến bộ về phía cách mạng. Cuối tháng 11-1943, Người rời khỏi Cục Chính trị Đệ tứ chiến khu, đến ở tại Trụ sở  Tổng bộ Việt Nam Cách mạng Đồng chí Hội đóng tại đường Ngư Phong, thành phố Liễu Châu. Tại đây, Người đã tham gia viết bài cho báo Đồng minh, cơ quan ngôn luận của tổ chức này, được xuất bản bằng tiếng Việt ở Liễu Châu.

Do tranh thủ được sự đồng tình của Trương Phát Khuê, ngày 9-8-1944, Hồ Chí Minh rời Liễu Châu. Cuối tháng 9, Người về đến Pác Bó (Cao Bằng).

Tháng 10-1944, Hồ Chí Minh viết Thư gửi đồng bào toàn quốc. Người phân tích tình hình và dự đoán thời cơ của cách mạng Việt Nam đang đến gần: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc  năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh”(39)!

Ngay sau đó, Người quyết định thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách.

* Lại lên đường sang Trung Quốc tiếp xúc với Đồng minh

Là nhà hoạt động chính trị sáng suốt, Hồ Chí Minh rất nhạy cảm trước những chiều hướng phức tạp, đan chéo nhau của các lực lượng quốc tế trong vấn đề Đông Dương. Người thấy cần phải tiếp xúc với các lực lượng Đồng minh để có những dữ kiện cần thiết cho bài toán lớn: đặt đúng cuộc chiến đấu của dân tộc trong bối cảnh quốc tế.

Ngày 29-3-1945, Hồ Chí Minh gặp Tướng C.L. Sennôn (Claire L. Chennault), Tư lệnh không doàn Cọp bay  của Mỹ ở Trung Quốc.

Cuộc trao đổi đã đi đến thỏa thuận: người Mỹ có thể sẽ cung cấp vũ khí, thuốc men và điện đài cho Việt Minh, hơn nữa có thể huấn luyện cho người của Việt Minh biết sử dụng các thứ đó.

Từ Côn Minh, Hồ Chí Minh đáp máy bay đi Bách Sắc đẻ tìm gặp Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội.

Tại đây, Người được biết Đồng minh Hội đã có nhiều biến đổi trong sáu tháng qua, trên thực tế đã ngừng hoạt động. Riêng các nhóm Việt Minh vẫn hoạt động tích cực ở vùng biên giới. Người lựa chọn một số chiến sĩ cuối tháng 4-1945 cùng Người lên đường về nước.

*Thành lập khu giả phóng

Trước tình hình mới, để có điều kiện kịp thời chỉ đạo phong trào cách mạng  đang dâng cao trong cả nước, từ đầu tháng 5-1945, Hồ Chí Minh cho chuyển “đại bản doanh” của cách mạng từ Pác Bó (Cao Bằng) về Tân Trào (Tuyên Quang), nơi có phong trào quần chúng mạnh mẽ, đã thiết lập được chính quyền cách mạng, lại thuận tiện liên lạc miền ngược, miền xuôi và với nước ngoài.

Tình hình diễn biến ngày càng khẩn trương, Hồng quân Liên Xô đã tiến vào Béclin (Berlin), buộc phát xít Đức đầu hàng không điều kiện. Ngay sau đó, Liên Xô chuyển quân về phía đông, chuẩn bi tuyên chiến với Nhật. Giữa lúc đó, chẳng may Người bị ốm nặng, sốt cao, nhiều lần mê sảng.

May sao, nhờ kinh nghiệm chữa trị của đồng bào địa phương, sau mấy ngày uống thúoc, cơn bệnh thuyên giảm, Người gượng dậy tiếp tục làm việc. Người đề nghị với Thường vụ Trung ương cần triệu tập gấp Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội đại biểu quốc dân, chuẩn bị tổng khởi nghĩa.

*Triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại Hội Quốc dân

Tiếp theo Hội nghị toàn quốc của Đảng, Quốc dân đại hội đã họp trong hai ngày 16 và 17 tháng 8-1945 dưới quyền chủ tọa của Người.

* Kêu gọi Tổng khởi nghĩa trong cả nước

Ngay sau Đại hội Quốc dân, lãnh tụ Hồ Chí Minh nhân danh ủy ban dân tộc giải phóng, dưới tên ký Hồ Chí Minh, đã gửi Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa đến đồng bào cả nước.

Chỉ trong vòng hơn 10 ngày, cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công trong cả nước! Chế độ thực dân hơn 80 năm, chế độ  phong kiến hàng nghìn năm đã bị lật nhào! Chính quyền cách mạng đã thuộc về nhân dân!

Nền độc lập của Tổ quóc đã được giành lại! Tự do của dân tộc dã được hồi sinh! Lịch sử Việt Nam đã mở ra những chương mới!

* Sáng lập Nhà nước dân chủ cộng hòa

Bệnh chưa khỏi hẳn, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định ngày về Thủ đô Hà Nội để cùng Trung ương Đảng giải quyết những vấn đề trọng đại có liên quan đến vận mệnh của Tổ quốc.

Tối ngày 38-8-1945, Người về đến làng Gạ (Phú Gia, Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội) ở nhà một cơ sở cách mạng.

Sáng 25-8-1945, Người nghe các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh báo cáo về tình hình khởi nghĩa ở Hà Nội và các tỉnh, về chủ trương của Ban Thường vụ Trung ương định tổ chức sớm lễ ra mắt của Chính phủ lâm thời. Hiều hôm đó, đồng chí Trường Chinh lên đón Người vào nội thành.

Trong những ngày này, Người bắt tay vào việc soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập. Trên chiếc bàn đơn sơ ở ngôi nhà số 48 Hàng Ngang, Người đã viết văn kiện lịch sử trọng đại của dân tộc với một niềm sung sướng, tự hào.

Ngày 2-9-1945, từ sáng sớm, cả Hà Nội đã tưng bừng, cờ đỏ sao vàng rợp trời, đèn hoa rực rỡ. Những biểu ngữ bằng chữ Việt và các thứ chữ Pháp, Nga, Trung Quốc, Anh chăng khắp các đường phố: “Nước Việt Nam của người Việt Nam”.

Đúng 14 giờ, các thành viên của Chính phủ, do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu, bước lên lễ đài. Bài Tiến quân ca vang lên hùng tráng. Lá cờ đỏ sao vàng từ từ kéo lên. Một rừng cánh tay giơ lên chào, bàn tay nắm lại.

Thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử. Người mở đầu bằng cách nêu lên những nguyên lý bất hủ về các quyền của con người, quyền của các dân tộc đã được khẳng định trong những bản tuyên ngôn nổi tiếng của nước Mỹ và nước Pháp.

Giữa tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô nhiệt liệt.

4, Xây dựng và bảo vệ nền cộng hào dân chủ, đối phó thù trong giặc ngoài , chuẩn bị kháng chiến lâu dài

Giữa lúc đó, quân đội nước ngoài dồn dập kéo vào nước ta dưới danh nghĩa quân Đồng  minh để tước vũ khí quân đội Nhật. Theo sự thỏa thuận tại Hội nghị Pốtxdam về Đông Dương, quân đội của Tưởng Giới Thạch sẽ đóng từ vĩ tuyến 16 trở ra, còn quân đội Anh từ vĩ tuyến 16 trở vào.

Từ cuối tháng 8-1945, một bộ phận tiến vào tiền trạm của quân Tưởng bắt đầu vượt biên giới tiến vào nước ta, theo hai ngả Lào Cai và Lạng Sơn(40),, (,kéo theo bọn phản động tay sai để gây rối, phá hoại, âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân, dựng lên chính quyền tay sai của chúng.

ở miền Nam, từ đầu tháng 9-1945, được sự che chở và giúp  đỡ của quân Anh, quân đội Pháp trở lại hòng xâm chiếm đất nước ta một lần nữa. Chúng ngang nhiên chiếm trụ sở ủy ban Nhân Dân Nam Bộ, cấm nhân dân ta biểu tình, đòi tước vũ khí quân đội ta,… Ngày 23-9, được sự tiếp tay của thực dân Anh, quân đội Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn rồi tiến dần ra Nam Trung Bộ. Số tàn quân Pháp bỏ chạy sang Vân Nam sau cuộc đảo chính của Nhật nay cũng lăm le trở lại miền Bắc. Trên đất nước ta, chưa bao giờ cùng một lúc lại có mặt nhiều quân đội nước ngoài đông như vậy. Nếu kể cả quân Nhật chưa bị giải giáp, quân Tưởng, quân Anh và quân Pháp, con số lên gần 30 vạn!

Cách mạng Việt Nam đứng trước một tình thế cực kỳ hiểm nghèo. Vận mệnh nước ta như đang trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”!

* Lựa chọn và giải quyết những nhiệm vụ cấp bách

 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt lựa chọn những vấn đề cấp bách nhất, giải quyết kịp thời, có hiệu quả đưa đất nước từng bước vượt qua tình thế khó khăn.

Ngày 6-1-1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước ta được tổ chức trên cả nước, bất chấp bom đạn của thực dân Pháp ở miền Nam và những hành động phá hoại của bọn phản động ở phía Bắc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh- Người đã trúng cử đại biểu Quốc hội với sự tín nhiệm cao nhất, chiếm 98,4% sốphiếu bầu.

Kiên trì sách lược mềm dẻo…

Trên cương vị Chủ tịch Chính phủ kiêm phụ trách ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên trì thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt trong từng thời gian,  phù hợp với từng đối tượng để phân hóa kẻ thù, nhằm giữ vững chính quyền, độc lập và thống nhất Tổ quốc, tranh thủ có nhiều thời gian để chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài.

Ký hiệp định sơ bộ 6-3 tạm thời hòa hoãn với Pháp

Trên tinh thần đó, từ cuối tháng 2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo sát sao các cuộc tiếp xúc của cán bộ ta với Pháp, trong nhiều trường hợp , Người đã đích thân giao thiệp với phía Pháp. Các cuộc đàm phán diễn ra bí mật. Những ngày đầu các cuộc họp đều không tiến  triển, vì lập trường hai bên còn xa nhau. Điều khoản gay cấn nhất ta đòi phải thừa nhận là là quyền độc lập và thống nhất của Việt Nam, còn phía Pháp lại chỉ muốn coi ta là một quốc gia tự trị.

Để tháo gỡ tình hình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra giải pháp: Nước Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (état libre).

Bốn giờ rưỡi chiều ngày 6-3-1946, lễ ký kết Hiệp định sơ bộ Pháp- Việt đã được tổ chức tại Hà Nội với sự chứng kiến của các đại diện Bộ Tư lệnh quân đội Trung Hoa ở Bắc Đông Dương, phái bộ Mỹ, lãnh  sự Anh và Lu-i Capuýt, đại diện phân bộ Đảng Xã hội Pháp ở Bắc Kỳ.

· Thăm chính thức nước Pháp

 Hiệp định sơ bộ ký chưa ráo mực , thực dân Pháp đã có những hành động vi phạm: đòi ta nộp vũ khí, đánh úp quân ta ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, di chuyển quân tới những nơi không được phép của chính phủ ta. Điều đó càng khẳng định một cách chắn chắn dã tâm của thực dân Pháp muốn đặt lại nền thống trị của chúng trên đất nước ta bằng  mọi giá.

  Trước tình thế đó, một lần nữa Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên nhân dân cả nước hãy bình tĩnh, giữ kỉ luật và chờ lệnh. Mặt khác, Người xúc tiến những cuộc gặp gỡ với người đại diện của nước Pháp đẻ giải quyết những vấn đề quan trọng, trong đó có cuộc gặp gỡ tại Pari giữa đại diện của Chính phủ hai nước nhằm ký một hiệp định chính thức.

  Cuộc gặp gỡ đó đã đi tới những  thỏa thuận, phái đoàn Chính phủ nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa sẽ sang Pháp mở cuộc đàm phán tại Pari để ký Hiệp ước chính thức. Nhân dịp này, Chính phủ Pháp sẽ mời Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Pháp với tư cách thượng khách của Chính phủ.

   Sau khi duyệt đội danh dự Việt-Pháp, Người vẫy tay chào các vị khách ra tiễn và bước lên máy bay.

Đúng 7 giờ 45 phút ngày 31-5-1946, chiếc máy bay Đacôta 356 đưa Chủ Tịch Hồ Chí Minh cùng phái đoàn ta rời đất nước sang Pháp với một sứ mệnh trọng đại. Cuộc hành trình đến Pháp của Người phải đi qua nhiều nước: Miến Điện; ấn Độ, Pakixtăng, Irắc,...

Bình luận (0)
Võ Công Hoàng Đạt
17 tháng 5 2018 lúc 15:50

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho, nguồn gốc nông dân, ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị của thực dân phong kiến. Hoàn cảnh xã hội và sự giáo dục của gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến Người ngay từ thời niên thiếu.

Với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị, Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước lúc bấy giờ và quyết tâm ra đi tìm con đường để cứu dân, cứu nước. 

Tháng 6 năm 1911, Người đi ra nước ngoài, suốt 30 năm hoạt động, Người đã đi đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người hòa mình với những phong trào của công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa, vừa lao động kiếm sống, vừa học tập, hoạt động cách mạng và nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đây, Người đã nhận rõ đó là con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.

Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp và hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội Những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Người gửi tới Hội nghị Versailles (Pháp) Bản yêu sách của nhân dân An Nam, yêu cầu Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam .

Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố Tours, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến chủ nghĩa cộng sản.

Năm 1921, tại Pháp, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, nhằm tuyên truyền cách mạng trong nhân dân các nước thuộc địa. Người viết nhiều bài đăng trên các báo “Người cùng khổ”, “Đời sống thợ thuyền”, ... Đặc biệt, Người viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” lên án mạnh mẽ chế độ thực dân, thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân các nước thuộc địa. Tất cả các bài viết của Người đều được bí mật chuyển về nước và lưu truyền trong mọi tầng lớp nhân dân.

Ngày 30/6/1923, Người đến Liên Xô và bắt đầu một thời kỳ hoạt động, học tập và nghiên cứu về chủ nghĩa Mác – Lênin, về chế độ xã hội chủ nghĩa ngay trên đất nước Lênin vĩ đại. Tại Đại hội lần thứ I Quốc tế Nông dân (10/1923), Người được bầu vào Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và được cử làm cán bộ Ban phương Đông của Quốc tế Cộng sản, đồng thời là Ủy viên Đoàn chủ tịch Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc được giao theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước Châu Á .

Năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông, sáng lập tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, ra báo Thanh niên để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về trong nước, đồng thời mở lớp đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.

Ngày 3/2/1930, tại Cửu Long (Hồng Kông), Người triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, thống nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ năm 1930 đến năm 1940, Người tham gia công tác của Quốc tế Cộng sản ở nước ngoài, đồng thời theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước và có những chỉ đạo đúng đắn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta.

Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, năm 1941 Người về nước, triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám, quyết định đường lối đánh Pháp, đuổi Nhật, thành lập Mặt trận Việt Minh, gấp rút xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng quần chúng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Thực hiện chỉ thị của Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, tại khu rừng Sam Cao, thuộc huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy.

Tháng 8 năm 1945, Người cùng Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng và chủ trì Đại hội Quốc dân ở Tân Trào. Đại hội tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và Tổng bộ Việt Minh, cử Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thay mặt Chính phủ lâm thời, Người đã phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân tộc Việt Nam đã nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân lao động. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người tuyên bố trước nhân dân cả nước và nhân dân thế giới quyền độc lập của dân tộc Việt Nam.

Tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp câu kết với đế quốc Mỹ, Anh và lực lượng phản động Quốc dân Đảng (Trung Quốc) trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Quân đội Pháp mở rộng đánh chiếm miền Nam và lấn dần từng bước kéo quân đánh chiếm miền Bắc, âm mưu tiến tới xóa bỏ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 9/1/1946, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lần đầu tiên trong cả nước. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I, Người được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người tiếp tục cùng Trung ương Đảng lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Tháng 7 năm 1954, với thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, Hiệp định Géneva được ký kết. Miền Bắc được giải phóng. Miền Nam bị đế quốc Mỹ xâm lược biến thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Người cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.

Tháng 9 năm 1960, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng Lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Người, nhân dân ta vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Ngày 2/9/1969, mặc dù đã được các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa nhưng do tuổi cao sức yếu Người đã từ trần, hưởng thọ 79 tuổi.

Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một người cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình cho Tổ quốc, cho nhân dân, vì lý tưởng cộng sản, vì độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức, vì hòa bình và công lý trên thế giới.

Năm 1987, tại kỳ họp lần thứ 24, Tổ chức Giáo dục - Văn hóa - Khoa học của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã ra Nghị quyết tôn vinh Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam và nhà văn hóa kiệt xuất” .

Bình luận (0)
20 Vũ Quỳnh Như
Xem chi tiết
Quang huy Vu tien
30 tháng 12 2021 lúc 15:12

Diện tích góc giới thiệu sách mới chiếm số phần trăm là:

100 - 85 = 15 %

Diện tích góc giới thiệu sách mới là:

78 : 100 x 15 = \(11,25\left(m^2\right)\)

Đ/S: \(11,25\left(m^2\right)\)

Bình luận (0)
Quang huy Vu tien
30 tháng 12 2021 lúc 15:18

2

Trung bình một năm dùng hết số bình ga là:

12 : 3 x 2 = 8 ( bình )

Trung bình một năm dùng hết số tiền ga là:

25000 x ( 8 x 13 ) = 2600000 ( đồng )

Đ/S: 2600000 đồng

Bình luận (1)
Trịnh Thị Kim Chi
Xem chi tiết
Lê Thị Quyên
12 tháng 12 2019 lúc 2:20

Việc làm của anh Phú là sai, anh Phú đã vi phạm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong hôn nhân đó là: vợ chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình. Vợ, chồng phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm và nghề nghiệp của nhau.

Bình luận (0)
37.Nguyễn Phan Phương Vy
Xem chi tiết
Lê Phương Mai
26 tháng 12 2021 lúc 20:43

Tham khảo:

-  Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về hình tượng anh bộ đội Cụ Hồ qua 2 bài thơ"Đồng Chí" 

Chất lãng mạn trữ tình cùng vẻ đẹp mới của thời đại trong thơ Chính Hữu đã làm sáng đẹp tình đồng chi,đồng đội của những người áo nâu mặc áo lính.Các anh ra đi theo tiếng gọi của non sông đất nước và sẵn sàng bỏ lại những gì thân thương nhất:ruộng nương,gian nhà,giếng nước ,gốc đa họ”mặc kệ”tất cả nhưng trong thâm sâu những người lính cụ Hồ ấy vẫn nặng tình quê hương,còn ham muốn thứ tình quê ấm áp.Để rồi khi ở ngoài mặt trận xa xôi ,mối giao cảm vô hình với quê hương ấy trở thành sức mạnh tinh thần ,là hành trang để những người chiến sĩ ấy vượt qua đạn bom,khói lửa.Sự từng trải của đời lính đã cho Chính Hữu biết cái khổ sở của cơn sốt rét hành hạ như thế nào và còn biết bao cái thiếu thốn,cái khổ sở khác nhưng trong tình cảnh ấy những người lính vẫn nở nụ cười buốt giá bởi họ vẫn sát bên nhau,”thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.Những người đồng chi ấy chính là điểm hội tụ của thứ tình cảm đẹp nhất đó là tình giai cấp,tình bạn và là tình người trong chiến tranh.

 

Bình luận (0)
Nguyễn Diệu Châu
Xem chi tiết
Bui Hong Thanh
27 tháng 12 2023 lúc 21:13

 

Vật liệu Tính chất Lưu ý sử dụng an toàn và bảo quản

 
 
Nhựa Dễ tạo hình, bền với môi trường

- Tránh đặt các đồ vật này ở nhiệt độ cao

- Lựa chọn loại nhựa phù hợp để đựng thực phẩm

 

 
Kim loại Dẫn điện, dẫn nhiệt tốt

- Tránh tiếp xúc trực tiếp với phần kim loại khi đang đun nấu

- Lau chùi sau khi sử dụng



 
 

 

 

Bình luận (0)
nguyen minh phuong
Xem chi tiết
Nguyễn Bảo Lộc
27 tháng 12 2016 lúc 19:40

 Số học sinh trường Kim Đồng là :

                56x100:16=350(em )

Đáp số :350 em 

                k mình nha bạn 

chúc bạn học giỏi

Bình luận (0)
Thanh Tùng DZ
27 tháng 12 2016 lúc 19:41

giải

trường tiểu học Kim Đồng có số học sinh là :
56 : 16 x 100 = 350 ( học sinh )

Đáp số : 350 học sinh

Bình luận (0)
Lê Đoàn Nhật Huy
27 tháng 12 2016 lúc 19:55

350 hs đó

Bình luận (0)