Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Nguyễn Thành Đô
Xem chi tiết
Đỗ Minh Tuấn Huy
20 tháng 12 2022 lúc 16:29

Bài thơ ca dao "anh đi anh nhớ quê" là một bài thơ vô cùng ý nghĩa nói về tình yêu quê hương đất nước. Nhờ biện pháp biêu cảm làm cho caao ca dao trở nên quyên thuộc và găn gũi với con người Việt nam.

Ngô Trúc Mai
Xem chi tiết
Ngô Trúc Mai
6 tháng 12 2021 lúc 18:30

Giúp mềnh vssssss TvT

Ngô Trúc Mai
6 tháng 12 2021 lúc 18:38

Giúp mình đi mà
Plssssssss

Đào Minh Trọng Khiêm
Xem chi tiết
minh nguyet
10 tháng 11 2021 lúc 16:51

Em tham khảo dàn ý:

  1. Mở bài

–    Bài Anh đi anh nhớ quê nhà vốn là thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải, sáng tác vào đầu thế kỉ XX, sau được dân gian hóa mà thành ca dao.

–    Nội dung vừa là nỗi nhớ quê hương tha thiết, vừa là lời bày tỏ tình yêu đôi lứa.

   2. Thân bài:

*    Nội dung bài ca dao:

+ Cách hiểu thứ nhất: Nỗi nhớ quê hương của người đi xa:

–    Nhân vật trữ tình (Anh) là người đang sống xa quê, da diết nhớ quê.

–    Nỗi nhớ biểu hiện cụ thể qua: Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương, là những món ăn dân dã, quen thuộc hàng ngày của dân quê, gợi hình ảnh những bữa cơm gia đình sum vầy, đầm ấm và ước mong được trở lại quê hương.

–    Nhớ người thân yêu: Nhớ ai dãi nắng dầm sương, Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao. Đại từ phiếm chỉ ai, cấu trúc câu lặp bằng điệp từ đứng đầu: Nhớ ai… Nhớ ai mang đậm nét nghệ thuật dân gian của ca dao, đặc tả nỗi nhớ thương mộc mạc mà đằm thắm, sâu xa, gắn liền với cuộc sống lao động vất vả, lam lũ.

–    Trong câu 4, ai có thể là người con gái mà chàng trai xa quê (Anh) đem lòng yêu mến. Hình ảnh tát nước bên đường gợi liên tưởng đến ý đó vì hay được nhắc đến trong ca dao (Hỡi cô tát nước bên đàng, Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?…)

–    Tất cả các kỉ niệm thấm đượm ân tình của quê hương kết thành nỗi nhớ mênh mông trong lòng người xa xứ.

+ Cách hiểu thứ hai: Lời bày tỏ tình yêu:

–    Nỗi nhớ nhà, nhớ quê được mượn làm cái cớ để dẫn dắt đến việc bày tỏ tình yêu với cô thôn nữ mà chàng trai thầm yêu trộm nhớ bấy lâu nhưng chưa có dịp ngỏ lời.

–    Đại từ phiếm chỉ ai trong câu 3 và 4 hàm ý chỉ cô gái ấy.

–    Câu 3 và 4 đặt nhân vật (ai) vào hoàn cảnh cụ thể là cuộc sống lao động vất vả (dãi nắng dầm sương) của nông dân ở quê nhà và cảnh tát nước bên đường hôm nao khắc sâu trong tâm tưởng người trai xa quê bời đó là cái mốc khởi đầu cho tình yêu đôi lứa.

–    Nỗi nhớ quê hương, nhớ người yếu hòa làm một nên càng da diết, khắc khoải.

  3.  Kết bài

–    Bài ca dao chỉ có 4 câu với những hình ảnh mộc mạc, dân dã nhưng đã thể hiện sinh động tình cảm gắn bó tha thiết đối với quê hương nên tác động sâu xa tới tâm hồn người đọc.
–    Phải thật sự yêu mến quê hương, đất nước thì tác giả mới sáng tác được bài ca dao bình dị và thấm thía như vậy.

BongBóng
Xem chi tiết
Kẹo dẻo
13 tháng 10 2016 lúc 11:15

ê,ko trl tin t ak

Kẹo dẻo
13 tháng 10 2016 lúc 11:16

Anh đi trong văn cảnh, nghĩa là đã đi xa, đã lâu ngày. Anh đi làm thợ, đi lính thú, đi tha hương cầu thực... Nay ở nơi đất khách quê người, năm tháng đã trôi qua, anh mới có nỗi nhớ ấy: nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Ba chữ nhớ diễn tả nỗi nhớ triền miên, day dứt, khôn nguôi. Nhớ quê nhà là nhớ ông bà, mẹ cha, anh chị em; là nhớ mái rạ, hàng cau, mảnh vườn, chiếc áo, luỹ tre; là nhớ đồng lúa xanh, cánh cò
trắng, con diều biếc... nhớ bạn bè tuổi thơ. Bốn tiếng anh nhớ quê nhà thật hàm súc, gợi lên bao nỗi nhớ đầy vơi. 

 

BongBóng
13 tháng 10 2016 lúc 11:17

cho ngoc anh

 

Nguyễn Bảo Châu
Xem chi tiết
tựejwejweiw
Xem chi tiết
tựejwejweiw
13 tháng 12 2023 lúc 20:44

giúp mình với mình đang bận

Trần Nguyễn Gia Phúc
13 tháng 12 2023 lúc 20:48

Câu ca dao đã kết thúc nhưng để lại cho em nhiều cảm xúc.Câu này cho thấy sự yêu thương,nhớ quê hương thắm thiết của nhân vật anh trong bài thơ.tui nhớ đến đây thui!cứ thử làm xem sao.

Đoàn Trần Quỳnh Hương
14 tháng 12 2023 lúc 18:38

Bài ca dao trên là lời của một chàng trai xa quê hương nhớ về những món ăn dân giã và đặc biệt là về cô gái mình thầm thương. Nỗi nhớ quê hương và nỗi nhớ người thầm thương gặp gỡ càng làm bài ca dao trở nên sâu sắc hơn. Trong hai câu ca dao đầu tiên tác giả dùng điệp từ "Nhớ" lặp lại ba lần tô đậm nỗi nhớ triền miền, dắt dứt không nguôi về gia đình và quê hương. Đặc biệt là anh thấy nhớ hương vị dân giã quen thuộc trong mỗi bữa cơm người Việt: canh rau muống, cà dầm tương... Những món ăn ấy giờ đây để lại trong người con xa quê nỗi nhớ thương da diết. Đến hai câu thơ cuối nỗi nhớ thương của nhân vật "anh" chuyển sang đối tượng khác. "Ai" là đại từ nhân xưng phiếm chỉ. Nỗi nhớ ấy hướng về những người thầm thương ở quê nhà dãi nắng dầm sương, chân lấm tay bùn vất vả. Bài ca dao gây ấn tượng sâu sắc với người đọc bởi nhớ hương quê, nhớ cô thôn nữ từng hẹn ước. Tình thương nhớ quê nhà được khắc họa thật da diết và tinh tế.

Lê Nguyễn Hồng Phúc
Xem chi tiết
tominhvu
25 tháng 12 2017 lúc 15:14

Hoàng Lê nhất thống chí là văn bản viết về những sự kiện lịch sử, mà nhân vật chính tiêu biểu – anh hùng Quang Trung ( Nguyễn Huệ). Ông có một nét đẹp của vị anh hùng dân tộc trong chiến công đại phá quân thanh, với sự dũng mãnh, tài trí , tầm nhìn xa trông rộng thì Quang Trung quả là một hình ảnh đẹp trong lòng dân tộc Việt Nam.

Trước hết chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ được miêu tả gián tiếp qua lời người con gái hầu hạ trong cung vua khi tâu với bà Hoàng Thái Hậu . Mặc dù vẫn xem Nguyện Huệ là “giặc”, gọi Nguyễn Huệ bằng “hắn” nhưng người cung nhân ấy cũng không giấu được sự thán phục của mình trước tài năng xuất chúng của Nguyễn Huệ.Đoạn trích hồi thứ 14 đã miêu tả khá rõ tài năng phi thường của vua Quang Trung và bộ mặt đê hèn nhục nhã của bọn bán nước và cướp nước. Bằng những chi tiết hết sức sống động chân thực. Kết hợp với việc đứng trên lập trường chình nghĩa đoạn trích đạ làm sống lại hình ảnh vị vua tài năng cả về đạo đức lẫn quân đội.
Trước tiên ta thấy rằng mặc dù tài năng hơn người nhưng Nguyễn Huệ biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác.Khi được tin quân Thanh kéo vào Thăng Long Nguyễn Huệ giận lắm , định cầm quân đi ngay.Nhưng ông đã nghe lời khuyên của mọi người: cho đắp đàn ở núi Bân tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi rồi lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung. Lễ xong mới hạ lện xuất quân.Hành động đó đã tạo được niềm tin uy tín đối với nhân dân đồng thời dễ thu phục binh lính tạo nên 1 thói vững chắc trong lực lượng của nghĩa quân . Biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác là bước đầu của sự thành công.
Việc Nguyễn Huệ tự mình dốc xuất đại binh tiến ra Thăng Long vào đúng thời điểm tết Nguyên Đán cũng chứng tỏ tàu năng quân sự của ông.Đó là thời điểm kẻ thù ít đề phòng nhất, dễ lơ là mất cảnh giác. Và ông còn rất hiểu sức mạnh tinh thần đối với quân sĩ : trong lời dụ của mình, ông đã khích lệ lòng yêu nước, căm thù giặc, truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm cho tướng sĩ:”…Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện ở Thăng Long các người đã biết chưa?…Người phương Bắc không phải nòi bũng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp nước ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyễn có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các Ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo nên đã thuần lòng người, đấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc…”Từ những lời động viên trên ta thấy Quang Trung quả là 1 vị vua không chỉ giỏi võ nghệ mà còn là vị tướng rất giỏi tâm lí. Ông đã khơi gợi được lòng căm thù giặc và tự hào về trang sử vàng của dân tộc để khích lệ binh sĩ.
Nguyễn Huệ còn dự đoán chình xác những sự việc sắp xảu ra.Ông là một người đầy tự tin :”Lần này ta ra thân hành cầm quân, phương lược chiến tiến đánh đã có tính sẵn, chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh”.Nhưng ông cũng luôn luôn đề phòng hậu hoạ:”Quân Thanh thua trận ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù.Như thế việc binh đao không bao giờ dứt”.Và ông đã dự định chọn người “khéo lời lẽ để dẹp việc binh đao-đó cũng chính là Ngô Thời Nhậm. Qua cách nghĩ của vua Quang Trung ta thấy ông không chỉ nhìn xa trông rộng mà còn hết lòng vì dân. Ông không muốn người dân phải chịu cảnh binh đao sương rơi máu chảy. Trong khi tiến quân ông cũng chọn cách đánh tránh cho quân sĩ đỡ phải tổn thất” Vua truyền lấy sáu chục tấm ván cứ ghép liền ba tấm thành một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín.Quân Thanh nổ súng bắn ra chẳng trúng người nào cả”.Quang Trung là vị vua rất thông minh tiên đoán chính xác và còn là 1 người hết lòng yêu thương dân tránh những hậu quả cho nhân dân, binh lính.
Ông còn là người có tài điều binh khiển tướng, ra quân đánh thắng như chẻ tre.Bắt sống toàn bộ quân Thanh đi do thám tại Phú Xuyên, dùng mưu để gọi loa vây kín làng Hà Hồi, quân Thanh “rụng rời sợ hãi” phải đầu hành. Vua Quang Trung cỡi voi dốc chiến. Sáng mồng năm dồn Ngọc Hồi bị tiêu diệt.Sâm Nghi Đống phải thất cổ tự tử hàng ngàn giặc bị giết “thây chất đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại. Hàng vạn giặc phải bỏ mạng ở đầm Mực.Tôn Sĩ Nghị”sợ mất mặt, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp…nhắm hướng Bắc mà chạy. Quân tướng “hoảng hồn, tan tác bỏ chạy”.Thừa thắng, vua Quang Trung tiến vào giải phóng kinh thành Thăng Long đúng trưa mồng năm tháng giệng năm Kỉ Dậu. Chiến thắng Đống Đa 1789 đã làm cho tên tuổi người anh hùng dân tộc sáng mãi ngàn thu. Người anh hùng Nguyễn Huệ đã góp vào một trang sử Vàng của dân tộc một chiến công vẻ vang hiếm hách.
Bằng lối văn biền ngẫu kết hợp với những chi tiết hết sức chân thật sống động với quan niệm đứng trên lập trường chính nghĩa.Hồi 14 đã thuật lại việc vua Quang Trung đại phá quân Thanh người đọc đã hình dung chân dung người áo vải:Quang Trung- Nguyễn Huệ. Ông không chỉ là nhà quân sự thiên tài mà còn là một vị vua giàu lòng yêu nước.
“Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước biết bao công trình”

k mk na

Thắng  Hoàng
25 tháng 12 2017 lúc 15:16

Tôi là một cây thông - loài cây đáng yêu được nhà nhà kiếm tìm trong dịp Noel. Sau ngày lễ tưng bừng trang trọng ấy, tôi lại được đem vào trồng lại trong rừng để đến mùa sau tiếp tục góp vui cho con người. Như vậy nghĩa là tôi đã đi qua nhiều mùa Noel lắm và cũng chứng kiến nhiều câu chuyện cảm động. Nhưng có một câu chuyện khiến tôi nhớ mãi. Câu chuyện về cô bé bán diêm trong một đêm Noel rét mướt.

Phải, đó là một đêm giao thừa, cái rét ùa về như cắt da cắt thịt. Tôi được đặt trong phòng khách sang trọng một ngôi nhà có cửa kính nhìn ra ngoài đường. Tôi đang trầm ngâm chờ thời khắc giao thừa thì ngoài đường có tiếng la ầm ĩ của bọn trẻ con. Tôi nhìn ra, thấy đám trẻ con nhà giàu hư đốn đang chuyền nhau chiếc giày rách nát của một cô bé bán diêm. Cô bé gầy gò, yếu ớt, ăn mặc rách rưới đuổi theo chúng đến ngã nhào trên tuyết. Chiếc giày còn lại của cô tuột ra, một chiếc xe trượt tuyết chạy qua, cô né người vội tránh, bánh xe nghiến vào chiếc giày rồi cuốn cả đi. Cô bé ôm mặt khóc nức nở đầy bất lực. Lòng tôi trào lên niềm thương xót khôn nguôi. Cô bé là con cái nhà ai mà tội vậy?

Tôi đem câu hỏi ấy hỏi cậu bàn ăn trong phòng. Cậu ta lắc đầu ngậm ngùi kể cho tôi nghe về cô bé. Trước đây, nhà cô ở ngay phía sau ngôi nhà tôi đang đứng. Đó cũng là một ngôi nhà bình thường như bao ngôi nhà khác, không giàu có sang trọng nhưng rất ấm áp yên vui. Thế rồi mẹ cô bé mất, bà nội - người yêu thương cô nhất cũng ra đi. Cha cô buồn tủi, chán chường suốt ngày uống rượu không thiết đến chuyện làm ăn khiến gia cảnh ngày một lụi bại. Thế rồi, ngôi nhà bị tịch thu, hai cha con phải dọn đến một ngôi nhà tồi tàn để ở. Cô bé phải đi bán diêm từ ngày ấy. Hàng ngày, cô đi rao suốt dọc phố từ sáng sớm đến tận tối mịt mới về, vậy mà vẫn còn bị cha đánh đập. Đêm nay giao thừa, có lẽ cha cô lại uống say bắt con đi bán diêm...

Cô bé vẫn bơ vơ trên đường. Người như co lại trong chiếc áo choàng rách nát. Gặp ai cô cũng đưa diêm ra mời. Nhưng trong cái đêm đặc biệt như đêm nay, ai ai cũng vội vàng đi về với gia đình, có ai để ý đến một cô bé bán diêm? Hai chân cô bé như tím bầm, đông cứng lại, cô không bước tiếp được nữa. Ánh mắt cô bé nhìn về phía chúng tôi thèm thuồng, xót xa. Rồi cô nhìn xuống những bao diêm... Cô cố gắng len chân về phía khe tường giữa hai ngôi nhà kề nhau. Tôi thấy cô lặng lẽ giở một bao diêm và quẹt que diêm đầu tiên. Ánh sáng của que diêm phản chiếu ánh mắt lấp lánh của bé. Tôi thấy trong đôi mắt ấy hiện lên một lò sưởi ấm áp, đôi chân cô bó khẽ duỗi ra như để sưởi cho ấm. Thế rồi que diêm thứ nhất vụt tắt. Đôi mắt cô bé như hụt hẫng, cô do dự thoáng chốc rồi quẹt tiếp que diêm thứ hai. Đôi mắt cô long lanh, bờ môi khẽ cử động, có lẽ cô đang thấy hình ảnh một bàn ăn đủ đầy, sang trọng. Que diêm thứ hai vụt tắt, cô quẹt tiếp que diêm thứ ba. Lần này, khi ánh sáng vừa loé lên, tôi như thấy chính hình ảnh của mình trong mắt cô bé. Trên mình tôi treo rất nhiều thứ đồ chơi và cô bé đang sung sướng chạy nhảy xung quanh tôi. Nhưng rồi ảo ảnh lại vụt tan, cô bé háo hức quẹt tiếp que diêm thứ tư. Tôi không rõ cô bé nhìn thấy gì trong que diêm ấy, chỉ biết gương mặt cô sáng bừng lên một cách kì lạ. Đôi mắt rạo rực, ấm áp và say mê. Khi que diêm thứ tư vụt tắt, tôi nghe cô hoảng hốt nói trong nước mắt giàn giụa:

Bà ơi! Bà đừng bỏ cháu! Bà cho cháu đi theo bà về với Thượng đế chí nhân! Bà đã hứa là sẽ không bao giờ bỏ cháu....!

Vừa nói cô vừa vội vàng quẹt hết que diêm này đến que diêm khác. Cũng chính lúc ấy, giờ giao thừa đã điểm. Trong ngôi nhà tôi đang đứng, mọi người ùa đến quanh tôi. Tôi phải trở lại với công việc của mình không tiếp tục dõi theo cô bé bán diêm được nữa.

Sáng hôm sau, tôi thấy có tiếng lao xao nơi khe tường tối qua cô bé bán diêm đã đứng. Tôi thấy người ta tụ tập rất đông bàn tán. Cô bé bán diêm đêm qua đã chết. Cô chết giữa rất nhiều những que diêm đã cháy.

Có lẽ nó muốn sưởi cho ấm - tiếng một ai đó cất lên bình thản.

Đã nhiều mùa Giáng sinh qua đi, cái chết của cô bé bán diêm khiến tôi bị ám ảnh khôn nguôi. Tôi không còn thấy vui mừng mỗi khi Giáng sinh về mà ngoài đường còn có những cô bé bán diêm... Và tôi ước trên đời này sẽ không còn những cô bé, cậu bé bán diêm như vậy nữa.

Thắng  Hoàng
25 tháng 12 2017 lúc 15:18

Tấm gương Anh hùng La Văn Cầu

Khoảng 6 giờ sáng ngày 16.9.1950, ta buộc phải dùng quả bộc phá nặng 12 kg để phá hủy một lô cốt địch trên cao với sự yểm trợ của pháo binh. Tuy nhiên hỏa lực của địch quá mạnh nên đến đêm 16.9 ta vẫn chỉ chiếm được một phần ba trận địa. Chừng nửa đêm 17.6, ông Cầu được lệnh dùng bộc phá đánh vào lô cốt lớn. Trong lúc đang chuẩn bị thì ông bị hai viên đạn trúng người. Một viên trúng má phải và viên kia trúng vào cổ tay khiến ông ngã xuống ngất lịm.

 Anh hùng La Văn Cầu. Nguồn ảnh: Internet

Tỉnh lại, ông nghĩ ngay tới nhiệm vụ phải phá bằng được lô cốt nên nhổm dậy định chạy thì cảm giác chỉ còn cánh tay trái cử động, tay phải không có cảm giác. Trong đêm tối, ông cảm nhận được cánh tay phải của mình bị thương nhưng vì nhiệm vụ, ông vẫn cố gắng để tìm quả bộc phá rồi ôm chặt vào ngực và trườn lên phía trước. Lúc này, cánh tay phải bị thương cứ lủng lẳng, vướng víu. Không phút suy nghĩ, ông nhờ người đồng đội Nông Văn Thêu (là tiểu đội trưởng) giúp mình chặt cánh tay bị thương để khỏi vướng.

Anh hùng La Văn Cầu sinh năm 1932 ở huyện Trùng Khánh – Cao Bằng. Tên thật của ông là Sầm Phúc Hướng, người dân tộc Tày. Khi ông 3 tuổi, bố ông bị Tây bắt đi làm phu xây dựng rồi bị bệnh và chết. Mấy năm sau, mẹ ông đi bước nữa với một người đàn ông họ Lã nên sau đó cậu bé Sầm Phúc Hướng được gia đình đổi tên là Lã Văn Cầu. 12 tuổi, cha dượng ông qua đời, vậy là một lần nữa, mẹ ông trở thành người phụ nữ góa chồng.


Bước vào tuổi 16, Lã Văn Cầu làm đơn xin đi bộ đội bởi lòng căm thù giặc luôn ngự trị trong đầu. Do sơ suất, người ta ghi nhầm họ “Lã” của ông thành họ “La”. Sau này, ông là một trong những người đầu tiên của trung đoàn 174 Cao – Bắc – Lạng.

Nông Văn Thêu lắc đầu bảo: "Cậu bị thương rồi, về tuyến sau đi. Đưa bộc phá đây cho mình", nhưng La Văn Cầu quả quyết: "Đằng nào cũng hy sinh, để tôi lên". Nông Văn Thêu nhắm mắt rút thanh kiếm Nhật chặt phăng cánh tay phải của đồng đội rồi băng bó qua loa. Sau đó, La Văn Cầu ôm bộc phá bằng tay trái và chạy nhanh về phía các lô cốt. Ông giật một lúc hai nụ xòe rồi lăn xuống ngất xỉu. Sau đó, một đồng đội trẻ tên Lý Văn Mưu thay ông ôm bộc phá giật kíp và lao vào lô cốt thứ hai, tiếng nổ vang lên. Lý Văn Mưu hy sinh anh dũng.

Trước sức tiến công quyết liệt của bộ đội ta, địch phải lui về khu nhà chỉ huy cố thủ. 4 giờ 30 phút ngày 18.9, quân ta thọc sâu chiếm Sở chỉ huy, buộc số địch còn lại xin hàng, bắt Đại úy An-li-úc, chỉ huy trưởng cứ điểm Đông Khê và sĩ quan tham mưu, đến 10 giờ cùng ngày, ta làm chủ trận địa, trận đánh kết thúc.

Xem bài 1 >> Chiến dịch biên giới và trận mở màn quyết tử Đông Khê 
“Nhử thú dữ vào tròng”

Sau 54 giờ chiến đấu vô cùng anh dũng và quyết liệt, ta đã đập tan cụm cứ điểm mạnh của địch, tiêu diệt và bắt sống 300 tên giặc, bắn rơi 1 máy bay, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng.

 tam guong la van cau va tran dai thang, nhu “thu du vao trong“ hinh anh 1Bộ đội ta xung phong đánh chiếm cứ điểm Đông Khê, Chiến dịch Biên giới 1950. Nguồn ảnh: Báo Cao bằng.

Chọn Đông Khê là trận mở màn là một quyết định sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chỉ huy Chiến dịch. Chiến thắng Đông Khê đã tiếp nối truyền thống "đánh thắng trận đầu" của quân đội ta, và mở ra một phương thức tác chiến mới, hiệu quả "đánh điểm, diệt viện". Trận đánh then chốt Đông Khê, mở màn Chiến dịch Biên giới đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn.

Ngay sau chiến thắng Đông Khê, Bác Hồ và Bộ Chỉ huy Chiến dịch nhận định: địch có thể sẽ chiếm lại Đông Khê  giữ Cao Bằng hoặc phải đánh lên để đón quân ở Cao Bằng rút lui. Do vậy, ý đồ tác chiến của ta là “nhử thú dữ vào tròng” để “khép vòng lưới thép” tiêu diệt chúng. Đúng như dự đoán của ta, thực dân Pháp mất Đông Khê, tuyến phòng thủ đường số 4 của Liên khu Biên giới lung lay mạnh, Cao Bằng hoàn toàn bị cô lập, phân khu Thất Khê bị uy hiếp. 

Trước tình hình đó, ngày 18.9.1950, Các-păng-chi-ê, Tổng Tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương quyết định rút quân khỏi thị xã Cao Bằng bằng cách chiếm lại Đông Khê làm nơi đón quân từ thị xã Cao Bằng về, đồng thời cho quân đánh lên thị xã Thái Nguyên, hòng phân tán chủ lực của ta, cứu nguy cho biên giới. 

Đêm 30.9.1950, binh đoàn ứng cứu của Lơ-pa-giơ từ Thất Khê kéo lên đã bị quân ta chặn đánh tơi bời. Nghe tin đó, ở hướng thị xã Cao Bằng, tên quan năm Sác-tông càng hoang mang cực độ. Sáng 3.10.1050, binh đoàn Sác-tông gồm 2.000 lính và tên Tỉnh trưởng Nông Ngọc Tu cùng một số tay chân đắc lực của chúng đã rút khỏi thị xã theo quốc lộ số 4 hy vọng hợp quân được với Lơ-pa-dơ tại Cốc Xả. 

Được nhân dân báo tin, 9 giờ sáng ngày 3.10.1950, đại đội bộ đội địa phương huyện Hòa An và lực lượng công an xung phong vào chiếm giữ ngay đầu cầu sông Hiến; thị xã Cao Bằng và tỉnh Cao Bằng hoàn toàn được giải phóng.

Cuộc rút chạy của binh đoàn Sác-tông bị quân và dân ta chặn đánh. Sau nhiều trận chiến đấu ác liệt, 17 giờ ngày 7.10.1950, binh đoàn Sác-tông bị tiêu diệt, Sác-tông cùng toàn bộ sĩ quan chỉ huy và tên Tỉnh trưởng Nông Ngọc Tu phải đầu hàng. Chiều ngày 8.10.1950, Lơ-pa-dơ bị bắt cùng Bộ tham mưu - binh đoàn Lơ-pa-dơ hoàn toàn bị tiêu diệt. Những ngày tiếp theo, quân địch rút chạy khỏi các vị trí: Thất Khê, Na Sầm, Lạng Sơn… Đến ngày 15.10.1950 địch rút hết khỏi hành lang biên giới; Hệ thống phòng thủ của địch trên đường số 4 bị phá vỡ. Sau 29 ngày đêm chiến đấu anh dũng, Chiến dịch Biên Giới toàn thắng. Trong chiến dịch, ta đã tiêu diệt và bắt sống 8.300 tên địch, gồm 10 tiểu đoàn, Âu - Phi và ngụy,  bằng 41% lực lượng cơ động chiến lượng toàn Đông Dương, giải phóng 5 thị xã, 12 thị trấn, nhiều vùng đất đai quan trọng trên giải biên giới dài 750 km, gồm 35 vạn dân. Từ đó, Việt Nam đã "mở con đường" nối liền với các nước xã hội chủ nghĩa.

Nguyen Nghia Gia Bao
Xem chi tiết
Trần Việt Linh
12 tháng 10 2016 lúc 21:17
Bài Anh đi anh nhớ quê nhà vốn là sáng tác của Á Nam Trần Tuấn Khải, một nhà thơ đầu thế kỉ XX ; sau này được dân gian hóa mà thành ca dao. Cả bài chỉ vẻn vẹn bốn câu, lời lẽ giản dị tưởng chừng dễ hiểu. Thế nhưng trong thực tế, đã có ít nhất hai cách hiểu khác nhau rõ rệt và cả hai cách hiểu đó đều có cơ sở và lí do tồn tại. Cách hiểu thứ nhất nhấn mạnh vào nỗi nhớ què nhà của người đã xa quê và coi chủ đề chính của bài ca dao là tình cảm gắn bó sâu nặng với quê hương. Cách hiểu thứ hai nhấn mạnh vào nỗi nhớ ai của người sắp ra đi và chủ đề chính của bài ca dao là lời bày tỏ tình yêu đôi lứa. Về cách hiểu thứ nhất, người đi xa bộc lộ tình cảm của mình là dẫu sống nơi đất khách quê người nhưng lòng luôn hướng về quê nhà. Nhớ quê nhà là nhớ những gì quen thuộc trong cuộc sống nghèo khó nhưng đầy ắp nghĩa tình. Theo quy luật tâm lí thì quê hương càng trở nên đáng yêu, đáng nhở hơn khi người ta sống xa quê. Ta có cảm tưởng như bài ca dao là tiếng hát tâm tình tha thiết đối với quê hương của người lao động: Anh đi anh nhà quê nhà,
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương.
Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nào. Bài ca dao mở đầu bằng đại từ anh, lấy anh làm chủ thể với mục đích tập trung tất cả ý tình vào đó: Anh đang sống xa nhà và anh nhớ quê nhà.
Quê nhà không chỉ là đơn giản là quê và nhà mà nó còn mang ý nghĩa rộng hơn. Trong trái tim của mỗi chúng ta đều mang nặng tình quê ấy. Bởi vậy khi đi xa, nỗi nhớ càng thiết tha, sâu nặng: Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Đây là biểu hiện cụ thể của nỗi nhớ quê nhà. Cà dầm tương ăn với canh rau muống nấu cua đồng là món ăn quen thuộc của nông dân đồng bằng Bắc Bộ. Xa quê, nhớ tới mùi vị của những món ăn dân dã ấy, lòng người xao xuyến biết bao và ước mong được trở về sum họp với gia đình lại càng thêm da diết. Quê nhà với muôn ngàn cái tưởng như tầm thường: cây đa, bến nước, con đò, giậu mùng tơi xanh, luống cải hoa vàng rung rinh trong gió xuân dìu dịu; tiếng sáo diều vi vu ngân nga lúc chiều về; hương lúa chín nồng nàn khi mùa tới… nhưng vẫn khiến người ta thương nhớ đến quặn lòng. Hai câu thơ trên gợi ra một nỗi nhớ quê nhà thật mộc mạc mà đằm thắm, khó phai. Hai câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ con người gắn bó với khung cảnh quê hương: Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao, Người nông dân ngàn đời nay vẫn gắn liền với cuộc sống dãi nắng dầm sương, vất vả cực nhọc trăm bề. Nắng, sương thật sự thấm đượm những cuộc đời nghèo khó. Ông bà, cha mẹ ta tắm sương gội nắng để kiếm cho ta miếng cơm manh áo, để tạo cho ta thể xác, tâm hồn. Quê hương ấy, con người ấy hỏi làm sao khi xa cách, ta không thương, không nhớ?! Đại từ phiếm chỉ ai trong câu thứ 3 có thể là kẻ này người nọ nhưng tất nhiên phải có quan hệ thân thiết với người đi xa. Còn ai trong câu thứ 4 thì chỉ có thể là người yêu. Chàng trai xa quê nhớ người yêu trong khung cảnh lao động quen thuộc: tát nước bên đường vào một sớm, một chiều hay một đêm trăng thanh nào đó… Tất cả các kĩ niệm về quê nhà sống dậy, kết thành một nỗi nhớ mênh mông. Bài Anh đi anh nhớ là bài ca về tình quê hương, xứ sở. Yêu quê hương là tình cảm thiêng liêng của mỗi con người: Quê hương nếu ai không nhớ, Sẽ không lớn nổi thành người (Đỗ Trung Quân). Mỗi người chúng ta đều có một quê hương, nhưng trong thời đại mới, ý nghĩa của hai tiếng quê hương đã được mở rộng hơn nhiều : trên khắp mọi miền đất nước, ở đâu có cuộc sống nghĩa tình, ở đó là quê hương. Dù vậy, bài ca dao trên muôn đời vẫn là cung đàn dịu ngọt cho mọi tấm lòng thiết tha gắn bó với quê hương, xứ sở. Về cách hiểu thứ hai nếu ta coi đại từ phiếm chỉ ai trong hai câu cuối của bài ca dao là người bạn tình của chàng trai thì nỗi nhớ quê nhà gắn liền với nỗi nhớ người yêu. Cả hai nỗi nhớ, đều chân thực, thiết tha. Đó là nội dung mà bài ca dao muốn bày tỏ và nếu coi bài thơ là lời tâm sự trước lúc đi xa của chàng trai với cô gái thì có một điểm đặc biệt đáng chú ý là chàng trai chưa xa mà đã nhớ. Dường như cô gái cũng thiết tha muốn biết khi xa quê chàng trai sẽ nhớ những gì và nhớ những ai. Bốn câu ca dao với năm từ nhớ liên tiếp cho thấy chàng trai vừa giãi bày được lòng mình vừa đáp ứng nhu cầu của lòng bạn: Anh đi anh nhớ quê nhà, Ở câu thứ nhất, tuy nỗi nhớ còn chung chung, chưa cụ thể, nhưng cô gái cũng đã yên tâm và chứa chan hi vọng vì chàng trai xưng anh với cô rất ngọt ngào, thân thiết. Vả lại, khi đi xa, chắc chắn chàng trai sẽ rất nhớ quê nhà, vì ở đó có cô gái mà anh thầm yêu mến. Đến câu thứ hai: Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương thì chàng trai đã cụ thể hóa nỗi nhớ quê nhà ở câu thứ nhất một cách rất tự nhiên. Canh rau muống, cà dầm tương là những món ăn quen thuộc của người nghèo, mấy ai xa quê mà không thèm, không nhớ? Nhưng nhớ quê nhà không lẽ chỉ nhớ có thê thôi ư? Cô gái dõi theo lời chàng trai rồi hồi hộp lắng nghe và chờ đợi. Sang câu thứ ba: Nhớ ai dãi nắng dầm sương, cô gái không thể không liên tưởng đến mình, nhưng chưa thế khẳng định chắc chắn, vì ở quê nhà có bao người dãi nắng dầm sương, chứ đâu phải riêng cô? Cách nói của chàng trai như vậy là cách nói lấp lửng, vừa nói vừa thăm dò phản ứng của đối tượng, vừa kìm nén cảm xúc chất chứa trong lòng mình. Chỉ đến khi cảm thấy cô gái đã thuận tình, thuận ý, chàng trai mới dám thổ lộ một cách ý nhị và tình tứ: Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao. 

Qua đó, chàng trai bày tỏ tình yêu với người bạn gái. Đội trai gái đã để ý đến nhau từ lâu nhưng chưa một lần thổ lộ. Tình yêu của họ  mới ở giai đoạn đầu ngượng ngùng khó nói. Giờ đây, khi sắp xa quê, chàng trai mới mạnh dạn gặp cô gái để giãi bày tâm sự. Cách diễn đạt nỗi nhớ từ xa tới gần: Anh đi anh nhớ quê nhà; từ chung đến riêng: Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương; từ phiếm chỉ đến xác định: Nhớ ai dãi nắng dầm sương ! Nhớ ai tát nước bèn đường hôm nao. Đến đây thì cả ý lẫn tình đều rõ. Ai kia chính là cô gái siêng năng, thuần hậu, dãi nắng dầm sương, góp phần cùng bao người làm nên ý nghĩa cuộc sông của chốn quê nhà. Nếu anh xa quê, thì người mà anh nhớ nhất sẽ là em – bởi em đã hóa thân thành quê hương yêu dấu.

Thảo Phương
12 tháng 10 2016 lúc 21:27

Tham khảo nhé bạn

 Ca dao có nhiều bài nói về nỗi nhớ. Bài ca dao dưới đây là một trường hợp:

Anh đi anh nhớ quê nhà,

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.

Nhớ ai dãi nắng dầm sương,

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao

Về bài ca dao này, có người cho rằng nó là lời tỏ tình với cô thôn nữ của chàng trai làng sắp đi xa. Cách hiểu thứ hai: Chàng trai đã đi xa lâu ngày, anh nhớ quê, nhớ người con gái làng anh mà anh từng thầm yêu trộm nhớ. Quê nhà và cô gái đã trở thành kỉ niệm sâu sắc, kết đọng thành nỗi nhớ không thể nào quên.

Hai câu đầu nói lên nỗi nhớ quê:

Anh đi anh nhớ quê nhà,

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.

Anh đi trong văn cảnh, nghĩa là đã đi xa, đã lâu ngày. Anh đi làm thợ, đi lính thú, đi tha hương cầu thực... Nay ở nơi đất khách quê người, năm tháng đã trôi qua, anh mới có nỗi nhớ ấy: nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Ba chữ nhớ diễn tả nỗi nhớ triền miên, day dứt, khôn nguôi. Nhớ quê nhà là nhớ ông bà, mẹ cha, anh chị em; là nhớ mái rạ, hàng cau, mảnh vườn, chiếc áo, luỹ tre; là nhớ đồng lúa xanh, cánh cò
trắng, con diều biếc... nhớ bạn bè tuổi thơ. Bốn tiếng anh nhớ quê nhà thật hàm súc, gợi lên bao nỗi nhớ đầy vơi. Đúng là

Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn

(Chế Lan Viên)

Câu thứ hai nói lên hai nỗi nhớ rất cụ thể. Anh đi xa, anh nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Đó là hương vị đậm đà của quê nhà thân yêu. Quê nghèo, chỉ có món ăn bình dị ấy. Anh mộc mạc, chất phác, anh rất yêu quê nhà, anh nhớ hương vị của canh rau muống, nhớ quả cà dầm tương. Đâu cứ phải cảnh giàu sang phú quý, có cơm gà cá gỡ... mới nhớ? Anh nhớ cái bình dị của quê hương, một bát canh, một quả càvới tất cả tâm hồn. Anh thuần hậu, chất phác và đáng yêu. Vả lại, bát canh rau muống, quả cà dầm tương là hương vị của cây nhà lá vườn, trong đó còn có tình thương của người mẹ hiền tần tảo sớm khuya. Sau này, nhiều nhà thơ đã có những vần thơ đẹp viết về hương quê như hương nhãn, hương cốm mới, canh cá tràu, canh mồng tơi... Hương quê, tình quê sâu đậm biết dường nào:

Canh cá trầu mẹ thường hay nấu khế

Khế trong vườn, thèm một tí rau thơm

Ừ, thể đó mà một đời xa cách mẹ

Ba mươi năm trở lại nhà, nước mắt xuống mâm cơrn

(Canh cá trầu - Chế Lan Viên)

Hai câu 3, 4, nỗi nhớ của anh đã hướng sang một đối tượng mới. Từ nhớ cảnh, nhớ quê, nhớ hương vị quê nhà, anh nhớ đến người:

Nhớ ai dãi nắng dầm sương,

Nhớ ai tát nước bèn đường hôm nao.

Nhớ ai rồi lại nhớ ai dào dạt trào dâng trong lòng. Ai là đại từ nhân xưng phiếm chỉ. Nỗi nhớ ấy hướng về những người thầm thương ở quê nhà dãi nắng dầm sương, chân lấm tay bùn vất vả. Nhớ ai ở đây còn có thể nhớ cả những người không quen biết như nhà thơ Tế Hanh đã thổ lộ trong bài Nhớ con sông quê hương.

Điệp ngữ nhớ ai diễn tả nỗi nhớ nhiều man mác, bâng khuâng. Nỗi nhớ mà anh hướng tới cuối cùng là “Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”. Ai trong câu thơ này là cô thôn nữ hay lam hay làm, duyên dáng mà anh đã thầm yêu trộm nhớ. Hôm nao là hôm nào, là đêm trăng. Cảnh lao động của em mà anh nhớ là tát nước. Nơi tát nước cũng là nơi hò hẹn, đó là bên đàng. Có thế đó là một kỉ niệm mà nghìn năm chưa dễ mấy ai quên. Kỉ niệm ấy đã hơn một lần được nói đến:

Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?

Bốn câu lục bát có âm điệu nhẹ nhàng, diễn tả một tình cảm đẹp: tình thương nhớ quê nhà. Giọng thơ cũng thật bồi hồi, bâng khuâng. Điệp từ nhớ và điệp ngữ nhớ ai chính là thủ pháp tạo nên giọng thơ ấy. Cái hay, cái đậm đà của bài ca dao là nhớ hương quê, nhớ cô thôn nữ từng hẹn ước đã làm cho nỗi nhớ quê nhà thêm thiết tha, sâu nặng.



 

Bình Trần Thị
12 tháng 10 2016 lúc 21:41

 Ca dao có nhiều bài nói về nỗi nhớ. Bài ca dao dưới đây là một trường hợp:

Anh đi anh nhớ quê nhà,

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.

Nhớ ai dãi nắng dầm sương,

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao

Về bài ca dao này, có người cho rằng nó là lời tỏ tình với cô thôn nữ của chàng trai làng sắp đi xa. Cách hiểu thứ hai: Chàng trai đã đi xa lâu ngày, anh nhớ quê, nhớ người con gái làng anh mà anh từng thầm yêu trộm nhớ. Quê nhà và cô gái đã trở thành kỉ niệm sâu sắc, kết đọng thành nỗi nhớ không thể nào quên.

Hai câu đầu nói lên nỗi nhớ quê:

Anh đi anh nhớ quê nhà,

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.

Anh đi trong văn cảnh, nghĩa là đã đi xa, đã lâu ngày. Anh đi làm thợ, đi lính thú, đi tha hương cầu thực... Nay ở nơi đất khách quê người, năm tháng đã trôi qua, anh mới có nỗi nhớ ấy: nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Ba chữ nhớ diễn tả nỗi nhớ triền miên, day dứt, khôn nguôi. Nhớ quê nhà là nhớ ông bà, mẹ cha, anh chị em; là nhớ mái rạ, hàng cau, mảnh vườn, chiếc áo, luỹ tre; là nhớ đồng lúa xanh, cánh cò 

trắng, con diều biếc... nhớ bạn bè tuổi thơ. Bốn tiếng anh nhớ quê nhà thật hàm súc, gợi lên bao nỗi nhớ đầy vơi. Đúng là

Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn

(Chế Lan Viên)

Câu thứ hai nói lên hai nỗi nhớ rất cụ thể. Anh đi xa, anh nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Đó là hương vị đậm đà của quê nhà thân yêu. Quê nghèo, chỉ có món ăn bình dị ấy. Anh mộc mạc, chất phác, anh rất yêu quê nhà, anh nhớ hương vị của canh rau muống, nhớ quả cà dầm tương. Đâu cứ phải cảnh giàu sang phú quý, có cơm gà cá gỡ... mới nhớ? Anh nhớ cái bình dị của quê hương, một bát canh, một quả càvới tất cả tâm hồn. Anh thuần hậu, chất phác và đáng yêu. Vả lại, bát canh rau muống, quả cà dầm tương là hương vị của cây nhà lá vườn, trong đó còn có tình thương của người mẹ hiền tần tảo sớm khuya. Sau này, nhiều nhà thơ đã có những vần thơ đẹp viết về hương quê như hương nhãn, hương cốm mới, canh cá tràu, canh mồng tơi... Hương quê, tình quê sâu đậm biết dường nào:

Canh cá trầu mẹ thường hay nấu khế

Khế trong vườn, thèm một tí rau thơm

Ừ, thể đó mà một đời xa cách mẹ

Ba mươi năm trở lại nhà, nước mắt xuống mâm cơrn

(Canh cá trầu - Chế Lan Viên)

Hai câu 3, 4, nỗi nhớ của anh đã hướng sang một đối tượng mới. Từ nhớ cảnh, nhớ quê, nhớ hương vị quê nhà, anh nhớ đến người:

Nhớ ai dãi nắng dầm sương,

Nhớ ai tát nước bèn đường hôm nao.

Nhớ ai rồi lại nhớ ai dào dạt trào dâng trong lòng. Ai là đại từ nhân xưng phiếm chỉ. Nỗi nhớ ấy hướng về những người thầm thương ở quê nhà dãi nắng dầm sương, chân lấm tay bùn vất vả. Nhớ ai ở đây còn có thể nhớ cả những người không quen biết như nhà thơ Tế Hanh đã thổ lộ trong bài Nhớ con sông quê hương.

Điệp ngữ nhớ ai diễn tả nỗi nhớ nhiều man mác, bâng khuâng. Nỗi nhớ mà anh hướng tới cuối cùng là “Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”. Ai trong câu thơ này là cô thôn nữ hay lam hay làm, duyên dáng mà anh đã thầm yêu trộm nhớ. Hôm nao là hôm nào, là đêm trăng. Cảnh lao động của em mà anh nhớ là tát nước. Nơi tát nước cũng là nơi hò hẹn, đó là bên đàng. Có thế đó là một kỉ niệm mà nghìn năm chưa dễ mấy ai quên. Kỉ niệm ấy đã hơn một lần được nói đến:

Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?

Bốn câu lục bát có âm điệu nhẹ nhàng, diễn tả một tình cảm đẹp: tình thương nhớ quê nhà. Giọng thơ cũng thật bồi hồi, bâng khuâng. Điệp từ nhớ và điệp ngữ nhớ ai chính là thủ pháp tạo nên giọng thơ ấy. Cái hay, cái đậm đà của bài ca dao là nhớ hương quê, nhớ cô thôn nữ từng hẹn ước đã làm cho nỗi nhớ quê nhà thêm thiết tha, sâu nặng.

 



 



 

Huỳnh minh đăng Trần
Xem chi tiết