Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Nguyễn chí huy
Xem chi tiết
Đoàn Trần Quỳnh Hương
14 tháng 1 lúc 22:29

Đó là tác phẩm "Những ngôi sao xa xôi" của tác giả Lê Minh Khuê cùng viết về người chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Nguyễn Thị Tâm
14 tháng 1 lúc 14:36

- Đồng chí của tác giả: Chính Hữu - Bài thơ và tiểu đội xe không kính , tác giả: Phạm Tiến Duật

Nguyễn Phạm
Xem chi tiết
Nguyễn Phạm
21 tháng 4 2022 lúc 10:51

Viết 1 đoạn văn và thuyết minh về một tác phẩm văn học mà em yêu thích nhất
Lưu ý:
- mở đoạn giới thiệu khái quát về tác phẩm
Thân đoạn:
Tác giả năm sinh năm mất
Cuộc đời sự nghiệp
Thể loại
Hoàn cảnh sáng tác
Nội dung
Nghệ thuật
Kết đoạn
Nêu vị trí của tác phẩm với nên văn học việt nam

Tình cảm của em

 

Nguyễn Huy
Xem chi tiết
sky12
12 tháng 12 2021 lúc 21:13

Tham khảo:

  nêu một số tác phẩm văn học Xô Viết mà em biết ?

Chiến tranh và hòa bình (L. Tôn-xtôi)

- Bút ký người đi săn ( I.X. Turgeniev )

- Sông Đông êm đềm, Đất vỡ hoang (M. Sô-lô-khốp)

- Cánh buồm đỏ thắm (A. Grin)

- Thép đã tôi thế đấy (A-xtơ-rốp-xki)

giới thiệu vài nét về tác giả , tác phẩm , văn học tiêu biểu trong các  thế kỉ XVlll-XlX

* Giới thiệu về nhà văn Ban-dắc (1799 - 1850)

- Ban-dắc là nhà văn hiện thực Pháp lớn nhất nửa đầu thế kỷ 19, bậc thầy của tiểu thuyết văn học hiện thực. Ông là tác giả của bộ tiểu thuyết đồ sộ “Tấn trò đời

“Cuộc đời ông là sự thất bại toàn diện trong sáng tác và kinh doanh” - đó là tổng kết chung về thời thanh niên của Ban-dắc từ khi vào đời cho đến năm (1828): Hai lần ứng cử vào Viện Hàn lâm Pháp đều thất bại. Ông chỉ thật sự được văn đàn Pháp công nhận sau khi mất. Người ủng hộ ông nhiều nhất khi còn sống là Vic-to Huy-go.

- Ông có một sức sáng tạo phi thường, khả năng làm việc cao. Thường chỉ ngủ một ngày khoảng 2 đến 3 tiếng, thời gian còn lại làm việc trên một gác xép.

- Con đường sự nghiệp của ông được chia làm 2 giai đoạn:

- Giai đoạn 1829 - 1841

+ Trong giai đoạn này, Ban-dắc cho ra đời liên tiếp nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong nhiều cảm hứng và chủ đề khác nhau: Miếng da lừa (1831), Người thầy thuốc nông thôn (1833), Đi tìm tuyệt đối (1833), …

+ Trong sự nghiệp sáng tác Ban-dắc đã viết về nhiều đề tài và mỗi vấn đề đều có một số tác phẩm, tạo nên sự đa dạng trong tư tưởng cũng như trong nghệ thuật của ông, như: nghiên cứu triết học (các tác phẩm Miếng da lừaĐi tìm tuyệt đốiKiệt tác vô danh...), cảm hứng thần bí (như: Lu-I Lam-ber,…), nghiên cứu phong tục (trong đó ông thiết lập một hệ thống các đề tài mà ông gọi là các "cảnh đời" vì cuộc đời được ông ví như một tấn hài kịch lớn).

- Giai đoạn 1841 - 1850

+ Ban-dắc đã bắt đầu công việc tập hợp lại các tác phẩm theo chủ đề và thống kê sắp đặt lại trong một hệ thống có tên chung là “Tấn trò đời”

phạm hoài thương
Xem chi tiết
the loser
28 tháng 2 2019 lúc 15:29

Ngô Tất Tố (1894-1954) là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học và nghiên cứu có ảnh hưởng ở Việt Nam giai đoạn trước 1954. Ngô Tất Tố sinh năm 1893 ở làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh (nay là thôn Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội). Ông là con thứ hai, nhưng là trưởng nam trong một gia đình có bảy anh chị em, ba trai, bốn gái. Lúc còn nhỏ Ngô Tất Tố được thụ hưởng một nền giáo dục Nho học. Từ năm 1898, Ngô Tất Tố được ông nội dạy vỡ lòng chữ Hán ở quê, sau đó ông theo học ở nhiều làng quê trong vùng. Năm 1912, Ngô Tất Tố học tư chữ Pháp một thời gian ngắn và bắt đầu tham dự các kỳ thi truyền thống lúc bấy giờ vẫn còn được triều đình nhà Nguyễn tổ chức. Ông đỗ kỳ sát hạch, nhưng thi hương bị hỏng ở kỳ đệ nhất. Đến năm 1915, ông đỗ đầu kỳ khảo hạch toàn tỉnh Bắc Ninh, nên được gọi là đầu xứ Tố, rồi thi hương lần thứ hai, khoa Ất Mão, cũng là khoa thi hương cuối cùng ở Bắc Kì. Ông qua được kỳ đệ nhất, nhưng bị hỏng ở kỳ đệ nhị"

Tiếp theo là phần thuyết minh: "Tắt đèn là một trong những tác phẩm văn học tiêu biểu nhất của nhà văn Ngô Tất Tố (tiểu thuyết, in trên báo Việt nữ năm 1937). Đây là một tác phẩm văn học hiện thực phê phán với nội dung nói về cuộc sống khốn khổ của tầng lớp nông dân Việt Nam đầu thế kỉ 20 dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Tác phẩm xoanh quanh nhân vật chính là chị Dậu và gia đình – một điển hình của cuộc sống bần cùng hóa do sưu cao thuế nặng mà chế độ thực dân áp đặt lên xã hội Việt Nam. Tác phẩm này đã vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời. Đỉnh điểm của cơn cùng cực là việc chị Dậu phải bán con, khoai và bán cả bầy chó để lấy tiền nộp sưu thuế cho chồng và cảnh chị Dậu chạy ra giữa màn trời đêm tối đen như mực và như cái tiền đồ của chị.

Tắt đèn đã được đưa vào chương trình giáo dục văn học Việt Nam trong sách Ngữ văn 8, tập một (đoạn trích Tức nước vỡ bờ) và đã được điện ảnh Việt Nam chuyển thể thành một bộ phim. Tắt đèn là một tác phẩm mang tính chất của một luận ngữ phê phán chế độ thực dân nửa phong kiến đương thời của thế kỉ 20, tắt đèn là luận văn mang tính nghệ thuật cao góp phần thúc đẩy quá trình nhận thức của xã hội đương đại, nó đúng là tác phẩm hay nhất đương thời làm cho giới nghệ sĩ luôn khó khăn trong việc đả kích chế độ "tư nhân sở hữu". Nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng: "Ngô Tất Tố đã xui người nông dân nỗi loạn".

"Ngô Tất Tố (1894-1954) là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học và nghiên cứu có ảnh hưởng ở Việt Nam giai đoạn trước 1954. Ngô Tất Tố sinh năm 1893 ở làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh (nay là thôn Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội). Ông là con thứ hai, nhưng là trưởng nam trong một gia đình có bảy anh chị em, ba trai, bốn gái. Lúc còn nhỏ Ngô Tất Tố được thụ hưởng một nền giáo dục Nho học. Từ năm 1898, Ngô Tất Tố được ông nội dạy vỡ lòng chữ Hán ở quê, sau đó ông theo học ở nhiều làng quê trong vùng. Năm 1912, Ngô Tất Tố học tư chữ Pháp một thời gian ngắn và bắt đầu tham dự các kỳ thi truyền thống lúc bấy giờ vẫn còn được triều đình nhà Nguyễn tổ chức. Ông đỗ kỳ sát hạch, nhưng thi hương bị hỏng ở kỳ đệ nhất. Đến năm 1915, ông đỗ đầu kỳ khảo hạch toàn tỉnh Bắc Ninh, nên được gọi là đầu xứ Tố, rồi thi hương lần thứ hai, khoa Ất Mão, cũng là khoa thi hương cuối cùng ở Bắc Kì. Ông qua được kỳ đệ nhất, nhưng bị hỏng ở kỳ đệ nhị"

Tiếp theo là phần thuyết minh: "Tắt đèn là một trong những tác phẩm văn học tiêu biểu nhất của nhà văn Ngô Tất Tố (tiểu thuyết, in trên báo Việt nữ năm 1937). Đây là một tác phẩm văn học hiện thực phê phán với nội dung nói về cuộc sống khốn khổ của tầng lớp nông dân Việt Nam đầu thế kỉ 20 dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Tác phẩm xoanh quanh nhân vật chính là chị Dậu và gia đình – một điển hình của cuộc sống bần cùng hóa do sưu cao thuế nặng mà chế độ thực dân áp đặt lên xã hội Việt Nam. Tác phẩm này đã vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời. Đỉnh điểm của cơn cùng cực là việc chị Dậu phải bán con, khoai và bán cả bầy chó để lấy tiền nộp sưu thuế cho chồng và cảnh chị Dậu chạy ra giữa màn trời đêm tối đen như mực và như cái tiền đồ của chị.

Tắt đèn đã được đưa vào chương trình giáo dục văn học Việt Nam trong sách Ngữ văn 8, tập một (đoạn trích Tức nước vỡ bờ) và đã được điện ảnh Việt Nam chuyển thể thành một bộ phim. Tắt đèn là một tác phẩm mang tính chất của một luận ngữ phê phán chế độ thực dân nửa phong kiến đương thời của thế kỉ 20, tắt đèn là luận văn mang tính nghệ thuật cao góp phần thúc đẩy quá trình nhận thức của xã hội đương đại, nó đúng là tác phẩm hay nhất đương thời làm cho giới nghệ sĩ luôn khó khăn trong việc đả kích chế độ "tư nhân sở hữu". Nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng: "Ngô Tất Tố đã xui người nông dân nỗi loạn".

Trong dòng văn học ca ngợi truyền thống yêu nước xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc tới các tác phẩm của Nguyễn Trãi , một anh hùng dân tộc, một con người có nhân cách lớn, nhà tư tưởng vĩ đại được suy tôn là danh nhân văn hóa của nhân loại. Trong đó, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được đánh giá là áng “thiên cổ hùng văn”, luôn được nhiều thế hệ người Việt luôn yêu thích, tự hào.

"Bình Ngô đại cáo" được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết vào khoảng đầu năm 1428 nhằm tổng kết cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược, kể về quá trình kháng chiến gian khổ, hi sinh nhưng thắng lợi vẻ vang, ngợi ca lòng yêu nước, tinh thần nhân nghĩa và tài trí thao lược của quân ta. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho thể loại “cáo”- một thể loại văn chính luận tiêu biểu của văn học Trung đại Việt Nam. Nhan đề tác phẩm có‎ ý nghĩa là bài cáo trọng đại tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô(chỉ giặc Minh xâm lược).Bài cáo gồm bốn phần.

Phần đầu tiên, tác giả nêu cao luận đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến .Tác giả đã khẳng định nghĩa quân Lam Sơn chiến đấu chống giặc Minh là để nhân dân có cuộc sống yên bình, ấm no, là để diệt trừ thế lực tham tàn,bạo ngược và đó là việc làm nhân nghĩa…


Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”


Sau đó, NT còn khẳng định,nước ta còn là 1 nước độc lập,có chủ quyền,lãnh thổ,phong tục và triều đại riêng:


“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”.


Bằng những lý lẽ chặt chẽ,cho thấy tác giảđã khẳng định nghĩa quân Lam Sơnchống lại giặc Minh là việc làm nhân nghĩa,hợp với lòng dân,hợp với quy luật, đó là chính nghĩa,việc làm đó xuất phát từ tư tưởng yêu nước, thương dân .
Phần thứ hai của bài cáo, tác giả đã vạch trần, tố cáo tội ác dã man của giặc Minh xâm lược. Nhắc đến giặc.Minh chúng ta không thể quên được 1 số câu chất chứa lòng căm phẫn:


“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”

“Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán, trải hai mươi năm”.


Tác giảđã liệt kê ra 1 loạt tội ác của giặcMinh,chúng không chỉ có âm mưu xâm lược nước ta, mà còn thực hiện nhiều chính sách thuế má phu phen nặng nề,vơ vét sản vật quý hiếm,diệt sản xuất,sự sống,tàn sát dã man…. Dân ta phải lâm vào cảnh khốn cùng.Từ đó,tác giảđã kết tội giặc Minh :


“Độc ác thay,trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay,nước Đông hải không rửa sạch mùi”


Hơn thế nữa,tác giảcòn bày tỏ thái độ phẫn uất trước những tội ác đó :


“Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?”


Bằng cách lập luận chặt chẽ,lời văn đanh thép và những hình ảnh rất thực có tính khái quát cao,giọng văn linh hoạt.Có thể nói, đoạn 2 này là 1 bảng cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của g.Minh. Đó chính là thế lực bạo tàn cần phải diệt trừ.
Tiếp đó,ta không thể không tự hào trước quá trình chiến đấu gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa qua đoạn 3. Đầu tiên,tác giảđã kể về buổi đầu khởi nghĩa,quân ta đã gặp rất nhiều khó khăn:


“Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đương mạnh.”


Hay trong lúc thế giặc mạnh thì quân ta binh lực yếu kém,có khi lương thực cạn kiệt,quân ta hiếm hoi nhân tài:


“Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu.”


Thế nhưng,nhờ tài lãnh đạo của Lê Lợi,nghĩa quân Lam Sơnđã đoàn kết mộtlòng,vượt qua khó khăn,tạo được sức mạnh. Đó là người lãnh đạo có quyết tâm cao độ,có chiến lược,chiến thuật phù hợp, đề cao sức mạnh của sự đoàn kết, chú trọng mưu cơ hơn binh lược.


“Thế trận xuất kì,lấy yếu chống mạnh;
Dùng quân mai phục,lấy ít địch nhiều…”


Như vậy,người đọc đã cảm nhận được hình tượng Lê Lợiđó là mộtngười có xuất thân dân dã,nhưng có lòng yêu nước sâu sắc,hết lòng lo lắng tận tâm,suy tính đại sự và đã tìm ra cách chiến thắng giặcMinh,tập hợp được sức mạnh của nhân dânđể làm nên chiến thắng.Có thể nói, đoạn này đã khắc họa được hình tượng người anh húng áo vải mộtcách sinh động,toàn diện.
Sau đó,tác giảđã kể về những chiến thắng oanh liệt của dân ta qua 3 trận đánh:

Thứ nhất,là trận Bồ Đằng-Trà Lân:


“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân,trúc chẻ tro bay.”


Thứ hai, là trận Ninh Kiều-Tốt Động:


“Ninh Kiều máu chảy thành sông,tanh trôi vạn dặm;
Tốt Động thây chất đầy nội,nhơ để ngàn năm.”


Cuối cùng là trận Chi Lăng-Mã An cho đến Xương Giang:


“Ngày 18,trận Chi Lăng,Liễu Thăng thất thế,
Ngày 20,trận Mã An,Liễu Thăng cụt đầu,”


Trong 1 loạt câu văn biền ngãu đó, đã thể hiện khí thế khí thế quân ta rõ nhất qua câu:


“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước,nước sông phải cạn.”


Tuy nhiên,ta vẫn thể hiện tinh thần nhân đạo với kẻ thù. Đó là tư tưởng nhân nghĩa đã mang 1 tầm cao mới:


“Tướng giặc bị cầm tù,như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng;
Thần Vũ chẳng giết hại,thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.”


Thông qua lối viết liệt kê,hình tượng phong phú đa dạng,dùng nhiều động từ mạnh,các tính từ chỉ mức độ tối đa,lối viết thậm xưng,nhạc điệu dồn dập mạnh mẽ,mang đậm chất anh hùng ca.Trong phần kể về quá trình kháng chiến của nghĩa quân Lam Sơn , tác giả đã dùng lối viết tương phản về lực lượng của ta và địch.Quá đó, tác giảđã bày tỏ được niềm tự hào của hãnh diện về những chiến thắng của quân ta và nêu bật sự thất bại thảm hại của quân thù.
Cuối cùng,tác giảđã tuyên bố chiến thắng và khẳng định sự nghiệp chính nghĩa của quân ta đã hoàn toàn thắng lợi.Đến đây,giọng văn của NguyễnTrãiđã nhẹ nhàng hơn,khoan thai .Tg đã tuyên bố nền hoà bình của dân tộcta đã được lập lại, đồng thời cũng rút ra được bài học lịch sủ vàthể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước.


“Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.”

“Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay”


Với nghệ thuật chính luận tài tình,cảm hứng trữ tình sâu sắc Bình Ngô đại cáocó sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố chính luận và yếu tố văn chương được xem là áng “thiên cổ hùng văn” của dân tộcta.Hơn thế nữa, “Bình Ngô đại cáo”-Nguyễn Trãilà bản anh hùng ca,ca ngợi sức mạnh của truyền thống yêu nước,tinh thần độc lập nhân nghĩa tự cường,nêu bật sức mạnh của dân ta trong cuộc khởi nghĩa, đập tan cuộc xâm lăng phi lăng phi nghĩa của giặcMinh,mở ra mộtkỷ nguyên mới của độc lập tự do,hoà bình cho lịch sử.

Sau khi đọc xong bài cáo,ta thấy rõ “Bình Ngô đại cáo” không chỉ là tác phẩm tiêu biểu cho thể loại văn chính luận của Nguyễn Trãimà ta còn hiểu nhận thực rõ chính lòng yêu nước và tinh thần nhân nghĩa là hai yếu tố quyết định đưa cuộc kháng chiến đến thành công, mở ra kỉ nguyên mới cho dân tộc. Chính ví thế bài cáo được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ haicủa dân tộcta, thể hiện được khát vọng độc lập tự chủ và yêu chuộng hoà bình của toàn dân ta.

Tham khảo nha bn 

shanyuan
Xem chi tiết
minh nguyet
13 tháng 7 2021 lúc 11:51

1. Tinh thần yêu nước của nhân dân ta - Hồ Chí Minh

2. Nam quốc sơn hà - Lý Thường Kiệt

3. Nước Đại Việt ta - Nguyễn Trãi

4. Hịch tướng sĩ - Trần Quốc Tuấn

...

sonlata7
Xem chi tiết
Đỗ Tuệ Lâm
28 tháng 2 2022 lúc 5:31

+ Những tác phẩm tiêu biểu là Chinh phụ ngâm (nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn), Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Bà Huyện Thanh Quan, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái...

+ Nguyễn Du với các tập thơ chữ Hán và đặc biệt là kiệt tác Truyện Kiều là đỉnh cao nhất của văn học trung đại Việt Nam.

+ Văn học phát triển mạnh cả về văn xuôi và văn vần, cả văn học chữ Hán và chữ Nôm. Địa vị văn học chữ Nôm và những thể loại văn học dân tộc như thơ Nôm viết theo thể Đưòng luật, ngâm khúc viết theo thể song thất lục bát, truyện thơ viết theo thể lục bát... được khẳng định và đạt tới đỉnh cao.

Vân Tăng
Xem chi tiết
Lê Thị Thảo Vân
Xem chi tiết
☞Cʉ★Miɳɧ
13 tháng 12 2018 lúc 20:23

Trong văn đàn Việt Nam, nhà văn Nguyên Hồng được đồng nghiệp và bạn đọc ưu ái gọi bằng một "danh hiệu": Nhà văn của phụ nữ và trẻ em.

Nhà văn Nguyên Hồng sinh năm 1918 mất năm 1982. Tên khai sinh của ông là Nguyễn Nguyên Hồng, quê ở thành phố Nam Định. Nguyên Hồng sống chủ yếu ở thành phố cảng Hải Phòng. Nguyên Hồng từng có một tuổi thơ bất hạnh. Hồi kí Những ngày thơ ấu được coi là những dòng hồi ức sinh động, chân thực đầy cay đắng về tuổi thơ không êm đềm của nhà văn.

Ông viết nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, thơ. Các tác phẩm chính của Nguyên Hồng: Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1938); Những ngày thơ ấu (hồi kí, 1938); Trời xanh (tập thơ, 1960); Cửa biển (bộ tiểu thuyết 4 tập: 1961, 1967, 1973, 1976); Núi rừng Yên Thế (bộ tiểu thuyết lịch sử nhiều tập chưa viết xong); Bước đường viết văn (hồi kí, 1970).

Trong những tác phẩm của Nguyên Hồng, hình ảnh người phụ nữ và trẻ em trong xã hội cũ được nhà văn dành nhiều niềm yêu thương, đồng cảm. Với những đóng góp của Nguyên Hồng dành cho nền văn học dân tộc, ông được nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.

Văn bản Trong lòng mẹ được trích từ tập hồi kí Những ngày thơ ấu. Hồi kí là một thể thuộc loại kí, nhằm ghi những sự việc thuộc quá khứ, qua sự nhớ lại. Hồi kí đòi hỏi phải hết sức tôn trọng tính chân thực của câu chuyện; sự việc, số liệu, thời gian phải chính xác. Bởi thế, tác phẩm được coi là thiên truyện kể về tuổi thơ cay đắng của chính tác giả. Đó là cả một quãng đời cơ cực mồ côi cha, không được sống với mẹ mà phải sống với người cô độc ác được tái hiện lại sinh động. Chính tình mẫu tử thiêng liêng, tình yêu tha thiết đối với mẹ đã giúp chú bé vượt qua giọng lưỡi xúc xiểm độc ác của người cô cùng với những dư luận không mấy tốt đẹp về người mẹ tội nghiệp. Đặc biệt, đoạn truyện tả cảnh đoàn tụ giữa hai mẹ con là một đoạn văn thấm đẫm tình cảm và thể hiện sâu sắc tinh thần nhân đạo. Nó góp phần lí giải tại sao Nguyên Hồng được trân trọng gọi là "nhà văn của phụ nữ và trẻ em".

nguồn:~~google~~

Mai Enk
Xem chi tiết
Trần Trần
14 tháng 12 2021 lúc 22:05

Yêu cầu ở đâu v🤔