Phát biểu cảm nghĩ về 1 tác phẩm văn học mà em yêu thích
3. Luyện nói: phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học.
a) -Phát biểu cảm nghĩ về một tác phẩm văn học mà em yêu thích.
b) Chuẩn bị phát biểu
-Tìm ý phát biểu
-Lập giàn ý phát biểu
-Chuẩn bị đoạn văn, bài văn phát biểu
kiểu này thì chệu thui! @Lo Anh Duc !^^
bạn chọn 1 tác phẩm theo ý thích . Rồi mở bài bạn giới thiệu về tác giả của tác phẩm đó , nêu khái quát về cảm xúc của bạn về tác phẩm . Còn thân bài thì nên vừa phân tích tác phẩm văn học vừa thể hiện cảm xúc , suy nghĩ của bản thân . Cuối cùng thì liên hệ 1 tác phẩm có cùng chủ đề , nội dung cũng tương đương với tác phẩm chọn. kết bài thì có thể nói về giá trị của tác phẩm đó .Và tuy nhiên cũng sẽ có liên hệ tới bản thân đó là bài học rút ra sau khi đọc tác phẩm đó .
@Lo Anh Duc hi vọng những kiến thức khi mik hok đội tuyển có thể giúp bạn hoàn thành bài tập. Nhưng mik nghĩ nếu bạn viết ra nháp thử rùi chỉnh sửa và hok thuộc có lẽ ẽ dễ dàng hơn.
. Luyện nói: phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học.
a) -Phát biểu cảm nghĩ về một tác phẩm văn học mà em yêu thích.
b) Chuẩn bị phát biểu
-Tìm ý phát biểu
-Lập giàn ý phát biểu
-Chuẩn bị đoạn văn, bài văn phát biểu
giúp mình với mình đang cần gấp T.T
Cảm nhận về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí Minh
Khi nhắc dến dân tộc Việt Nam độc lập tự do hôm nay , không mấy ai quên đựơc công lao của người . Người là một vị lãnh tụ vĩ đại , là một danh nhân văn hoá thế giới và còn là một nhà thơ lớn nhà thi sĩ yêu trăng . Bác dã dể lại cho thơ văn Việt Nam rất nhiều tác phẩm trong đó có bài '' Rầm tháng giêng '' . NĂm 1948 trên chiếc thuyền nhỏ neo giữa dòng sông ở chiến khu Vịêt Bắc oanh liệt . Bác đã cùng Trung ương Đảng mở cuộc họp về tình hình quân sự kháng chiến chống Pháp ( 1947 - 19448 ) . Khi cuộc họp kết thúc thì đêm đã khuya . Trăng rầm toả sáng khắp mặt đất lan toả trên dòng sông bao la . Cảnh sông núi trong đêm trăng càng trở nên hùng vĩ và thơ mộng. Trước cảnh đẹp của thiên nhiên và của đêm trăng thơ mộng . Trước những cãnh đẹp tuyệt vời ấy Bác đã ứng khẩu thành thơ :
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên .
Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên .
Yên ba thâm sứ đàm quân sự .
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền .”
Về sau nhà thơ Xuân Thuỷ dịch bài thơ ra tiếng Việt thể lục bát . với tên là " Rầm Tháng Giêng " . Bản dịch diển tả gần hết ý thơ trong nguyên tácvới nội dung biểu hiện tính yêu thiên nhiên tha thiết và lòng yêu nước của Bác .
Ở bài " Cảnh Khuya " Bác tả dêm trăng rừng Việt Bắc thì bài này cảnh trăng được Bác tả trên sông nước hùng vĩ :
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lần màu trời thêm xuân”
Vầng trăng tròn toả sáng bát ngát khắp nơi bầu trời mặt đất
đều lồng lộng ánh trăng . Khung cảnh mênh mông tưởng dường như sông nước tiếp liền với bầu trời " sông xuân nước lẫn bầu trời thêm xuân" . Vạn vật đều mang sắc xuân , Sông xuân , nước xuân , trời xuân giao hoà cới nhau tạo nên một khung cảnh tràng dầy sức sống làm náo nức lòng người . Điệp từ xuân lập lại nhiều lần tạo nên không khí vui tươi của cảnh trăng rầm :
“Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân dầy thuyền .”
Trên một chiếc thuyền nhỏ giữa chốn mịt mù khói sóng . Bác cùng các vị lãnh đạo Trung ương Đảng bàn việc quân , việc nước . bu6ồi dầu cu6ỗc kháng chiến dầy giang khổ biết bao? Tuy vậy BÁc vẫn ung dung , thư thả .Buổi họp kết thúc vào lúc nữa đêm . Trăng tròn treo giữa trời ( nguyệt chính viên ) ánh trăng đang loà sáng khắp mọi nơi . Cảnh sông nước trong đêm càng trơ nên thơ mộng . Dòng sông nước biến trỏ thành dòng sông trăng và con thuyền nhỏ dường như chở dầy trăng tuyệt dẹp tâm hồn Bác lâng lâng bạn tri âm muôn đời . Hình ảnh con thuyền nhỏ chở dầy ánh trăng trên sông vô cùng lãng mạng àa sâu sắc . Chắc có lẽ Bác đã có một phong thái ung dung , tự tại , lac quan mãnh liệt nên Bác đã tạo ra đươc hình tượng nghệ thuật độc đáo trong hoàn cảnh đặc biêt .
Bài " Rầm tháng giêng với âm sắc sâu lắng , tười vui đem lại cho người đọc cảm hứng thanh cao, trong sáng . Bài thơ là một dẫn chứng cho thấy Bác là vị lãnh tụ cách mạng tài ba , vùa là một thi sĩ có trái tim vô cùng nhạy cảm . Qua bài thơ cho chúng tôi học được tinh thần lạc quan và phong thái ung dung bình tỉnh ơ Bác .
Cảm nghĩ về tác phẩm "Cảnh khuya"-Hồ Chí Minh
Hồ Chủ Tịch (1980-1969). Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng tác nhiều bài thơ hay, Người không chỉ là vị cha già của dân tộc mà còn là một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà thơ lớn. Một trong những số đó là bài "Cảnh Khuya" mà người đã sáng tác ở chiến khu Việt Bắc trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
"Tiếng suối trong như tiếng hát xa"
[FONT="]Dòng đầu gợi ra thời điểm làm thơ: đêm đã vào sâu, im ắng lắm, trong im ắng ấy nỗi lên một âm thanh trong trẻo, êm dịu của tiếng suối, càng làm cho đêm sâu thanh tĩnh cùng với tiếng côn trùng ở khu rừng Việt Bắc đả làm cho Người nghe ra từ êm dịu ví như tiếng hát xa đưa lại. Cách Bác ví âm thanh như tiếng hát xa càng làm cho tiếng suối trở nên có hồn và càng chứng tỏ rằng giữa con người với thiên nhiên đã có sự gần gũi với nhau. Vần "a" được gieo ở cuối dòng như một tiếng ngân vô tận vào lòng người, tạo nên một không gian vời vợi và sâu lắng. Vậy mà Người đã nghe tiếng suối ở khu rừng Việt Bắc như thế đấy.
Dòng tiếp theo Bác tả ánh trăng:
"Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa"
Nếu như dòng đầu Bác nghe được tiếng suối trong đêm thì lần này Bác tả cảnh người nhìn thấy trong đêm. Bác như hòa quyện vào ánh trăng để người đọc thấy không chỉ có nhạc mà còn có hoa đó là ánh trăng lồng vào vòm lá cây cổ thụ đang xen nhau tầng tầng lớp lớp tạo thành những mảnh sáng_tối, đậm_nhạt, trắng_đen,... gợi lên cảnh chập chồng của bóng trăng, bóng cây, bóng hoa.
Tiếp theo đó:
"Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà"
Linh hồn và bức tranh phong cảnh Việt Bắc là một bức tranh của một con người đang thao thức. Thao thức nên Người thấy được cảnh đẹp của trăng núi gió ngàn chăng?Bác đang mượn cảnh vật trước đêm khuya thanh tĩnh để bộc lộ cảm xúc của chính mình càng làm nỗi bật thêm con người Bác với thiên nhiên. Sâu xa hơn, nó có thể là sự thống nhất giữa phần mộng mơ và sự tĩnh táo, giữa chất lãng mạn của thi nhân và tấm lòng ưu ái của một vị chủ tịch. Có thể nói Bác đang thức cùng suối, cùng trăng, cùng cổ thụ, cùng hoa lá, Bác đang thức cùng non sông đất nước Việt Nam. Bác đamg nặng lòng vì nước, vì dân. Bác Hồ làm bài thơ này ở chiến khu Việt Bắc năm 1947. Lúc đó cuộc kháng chiến khó khăn, gian khổ chỉ mới bắt đầu, với Bác có bao nhiên vấn đề quốc gia, dân tộc đặt ra cần Bác giải quyết. Qua bài thơ này ta càng hiểu rằng trong hoàn cảnh nào, Bác vẩn giữ được thái độ bình tĩnh chủ động như vậy, mặc dù ẩn trong phong thái ung dung tự tại ấy là "nỗi lo cho nước. nỗi thương dân".
Trong cuộc đời 79 năm, Bác Hồ có biết bao đêm không ngủ như vậy?"trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành" vì nhiều lẽ nhưng điều khiến chúng ta cảm phục vô hạn đó là ý thức. trách nhiệm của Bác trước vận mệnh nước nhà. Ý thức ấy ở Bác không chút nào xao lãng. Lúc nào cũng lo cho dân vì dân chưa lần nào Bác nghĩ đến mình.
Cảm nhận bài Rằm tháng giêng và Cảnh khuya
- Cảnh đêm rằm trong bài thơ tuyệt đẹp. Nhưng đẹp nhất vẫn là phong thái của Bác, giữa sóng to gió lớn của cuộc chiến đấu, vẫn bình tĩnh và bình dị như không.
- Cảnh trăng nước bát ngát mà không hiu quạnh, tràn đầy mà không rợn ngợp. Đúng là hình ảnh một tâm hồn rất giàu, rất khoẻ, tưởng chừng chứa đựng cả sức xuân dạt dào của đất trời, sông núi.
Bài tứ tuyệt được kết thúc bằng động tác lướt đi phơi phới của một con thuyền đầy trăng, trên đó những người chèo lái cuộc kháng chiến vừa gặt về một mùa ánh sáng rực rỡ trên cánh đồng tương lai của đất nước.
Ban ngày vì lẫn trong muôn nghìn tạp âm khác, ta rất khó nghe tiếng suối chảy, nhưng ban đêm, nhất là càng về khuya, tiếng suối mới hiện ra rõ rì rầm như cơn mưa từ xa đang đến.
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa.”
Với Bác, tiếng suối như tiếng hát. Cách ví ấy vừa mới mẻ, vừa gợi lên những tình cảm bạn bè thân thiết giữa con người với thiên nhiên.
Trong không khí thanh vắng, trên cái nền âm thanh là tiếng suối xa xa trong trẻo, hiện lên trước mắt một bức tranh thuỷ mặc với những mảng trắng đen rất rõ :
“Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.”
Một cảnh lớn, nét bút đậm, như vút lên cao; ánh trăng khuya chiếu sáng rõ cây cổ thụ giữa rừng khuya. Trăng tượng trưng cho sự hiền hoà, thanh cao. Cổ thụ tượng trưng cho sự bền vững từng trải.
Bức tranh có cái đẹp kì vĩ, lẫn cái đẹp tinh tế. Hai câu mà có đủ : nào rừng, nào suối; nào cổ thụ, nào hoa. Và trên hết lá một ánh trăng rất sáng, sáng lắm mới chiếu rõ được hoa rừng : trăng về khuya.
Tiếp đến câu thứ ba tổng kết hai câu trên và chỉ ra một hệ quả :
“Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ.”
Vâng, ai có thể nỡ ngủ cho đành trong cảnh rừng trăng rất đẹp. Nhưng không, với Bác chỉ đơn giản là do :
“Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.”
Với câu kết này tinh thần bài thơ đã hoàn toàn đổi mới . Nhà nghệ sĩ cốt cách phương Đông đã hiển nhiên thành nhà cách mạng hiện đại.
Mik cho bạn bài Cảnh khuya nà!
Bài thơ Cảnh khuya là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt cực hay, là một trong những bài thơ trăng đẹp nhất của Bác. Giữa chốn rừng Việt Bắc tràn ngập ánh trăng, lòng Bác luôn thao thức vì nỗi nước nhà. Đó là nét đẹp riêng của bài thơ, cảm hứng thiên nhiên nhiên chan hoà trong lòng yêu nước sâu sắc.
Bài thơ Cảnh khuya được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào năm 1947, khi quân và dân ta đang thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc. Sông Lô, Đoan Hùng đã đi vào lịch sử bằng những nét vàng chói lọi đầu tiên của ta trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Bài thơ thể hiện cảm hứng yêu nước mãnh liệt dạt dào ánh sáng và âm thanh. Đó là ánh sáng của trăng Việt Bắc, của lòng yêu nước sâu sắc:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Cùng với các bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc, Đi thuyền trên sông Đáy, Cảnh khuya thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu nước sâu sắc của Bác trong một đêm trăng nơi núi rừng Việt Bắc.
Hai câu thơ đầu trong bài thơ tả cảnh đêm khuya nơi núi rừng Việt Bắc. Trăng càng về đêm càng sáng. Ánh trăng lan toả bao phủ khắp mặt đất. Đêm vắng, tiếng suối nghe càng rõ. Tiếng suối chảy êm đềm nghe rất trong rì rầm từ xa vọng đến. Cảm nhận của Bác thật tinh tế, nghe suối chảy mà cảm nhận được mức độ xanh trong của dòng nước. Tiếng suối trong đêm khuya như tiếng hát xa dịu êm vang vọng, khoan nhạt như nhịp điệu của bài hát trữ tình sâu lắng. Đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh, tiếng suối rì rầm êm ả, vắng lặng trong đêm chiến khu. Tiếng suối và tiếng hát là nét vẽ tinh tế gợi tả núi rừng chiến khu thời máu lửa mang sức sống và hơi ấm của con người:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Sáu trăm năm trước trong bài thơ Bài ca Côn Sơn Ức Trai đã có cảm nhận cực kỳ tinh tế về dòng suối Côn Sơn:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bền tai
Tiếng suối nghe sao mà êm đềm thơ mộng đến thế. Nó như những giọt của cây đàn cầm vang vọng bên tay. Đầu thế kỷ XX Nguyễn Khuyến đã từng viết về dòng suối như sau:
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo...
Mỗi một vần thơ, mỗi một khung cảnh, âm thanh của suối chảy được cảm nhận tinh tế khác nhau. Sau tiếng suối nghe như tiếng hát xa kia là trăng chiến khu. Ánh trăng chiến khu sao mà sáng và đẹp thế. Tầng cao là trăng, tầng giữa là cổ thụ, tầng thấp là hoa - hoa rừng. Cả núi rừng Việt Bắc đang tràn ngập dưới ánh trăng. Ánh trăng bao phủ khắp không trung mát dịu, len lỏi xuyên qua kẽ lá, tán cây, ánh trăng như âu yếm, hoà quyện cùng thiên nhiên cây cỏ. Ánh trăng như xoáy và lồng vào những tán lá. Và trên mặt đất những đoá hoa rừng đang ngậm sương đêm cùng với bóng cổ thụ đan xen trên mặt đất. Đêm thanh, trên không trung dường như chỉ có vầng trăng ngự trị. Đêm vắng, trăng thanh mặt đất cỏ cây như ngừng thở để đón đợi ánh trăng mát lạnh dịu hiền mơn man ôm ấp:
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Chữ lồng điệp lại hai lần đã nhân hoá vầng trăng, cổ thụ và hoa. Trăng như người mẹ hiền đang tiếp cho muôn vật trần gian dòng sữa ngọt ngào. Trăng trở nên thi vị, trữ tình lãng mạn. Chữ lồng gợi cho ta nhớ đến những câu thơ sau trong Chinh phụ ngâm:
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng...
Trong câu có tiểu đối trăng lồng cổ thụ / bóng lồng hoa tạo sự cân xứng trong bức tranh về trăng, ngôn ngữ thơ trang trọng, điêu luyện tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp tràn đầy chất thơ. Cảnh khuya trong sáng, lung linh huyền ảo. Đọc vần thơ ta nghe như có nhạc, có hoạ, bức tranh cảnh núi rừng Việt Bắc thơ mộng biết bao. Người xưa từng nói thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc quả thật không sai. Đối với Bác trăng đã trở nên tri âm tri kỷ nên làm sao có thể hờ hững trước cảnh đẹp đêm nay. Trong ngục tối bị giam cầm, trước ánh trăng tuyệt đẹp Bác Hồ cũng đã có những vần thơ tuyệt diệu:
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ...
(Ngắm trăng)
Một thi sĩ với tâm hồn thanh cao đang sống những giây phút thần tiên giữa cảnh khuya chiến khu Việt Bắc. Giữa bức tranh thiên nhiên rộng lớn và hữu tình như vậy, tâm trạng thi sĩ bỗng vút cao thả hồn theo cảnh đẹp đêm trăng bởi đêm nay Bác không ngủ. Trước cảnh đẹp đêm trăng: có suối, có hoa lá, núi ngàn, và cả tâm trạng của Bác. Bác không chỉ xúc động trước cảnh đẹp thiên nhiên mà:
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Nước nhà đang bị giặc xâm lăng giày xéo, biết bao đồng chí đang bị gông cùm xiềng xích. Cuộc đời còn lầm than cơ cực, bao năm Bác bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ lầm than. Nay nước nhà còn đang chìm trong khói lửa đạn bom lòng Bác sao có thể ngủ yên giấc được. Chưa ngủ không hẳn chỉ vì cảnh đẹp đêm nay mà chưa ngủ vì nỗi nước nhà.
Nỗi nhớ nhà lo cho nước nhà làm cho trái tim Bác luôn thổn thức. Bác thức trong đêm khuya trằn trọc băn khoăn không sao ngủ được. Lòng yêu nước sâu sắc mãnh liệt xiết bao. Đã có biết bao đêm Bác Hồ của chúng ta cũng mất ngủ như vậy:
Một canh, hai canh, lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh
(Không ngủ được)
Hình ảnh sao vàng chính là tự do độc lập, niềm thao thức mơ ngày mai ánh hồng soi đất nước hoà bình. Một tâm hồn nghệ sĩ thanh cao lồng trong cốt cách người chiến sĩ cộng sản kiên trung. Cảm hứng thiên nhiên chan hoà với cảm hứng yêu nước tha thiết của Bác.
Bài thơ Cảnh khuya là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt cực hay, là một trong những bài thơ trăng đẹp nhất của Bác. Giữa chốn rừng Việt Bắc tràn ngập ánh trăng, lòng Bác luôn thao thức vì nỗi nước nhà. Đó là nét đẹp riêng của bài thơ, cảm hứng thiên nhiên nhiên chan hoà trong lòng yêu nước sâu sắc. Thương dân, lo cho nước, yêu trăng... như dẫn hồn ta vào giấc mộng đẹp. Đọc thơ Bác giúp ta càng biết ơn, yêu kính Bác -Hồ hơn.
Bạn tham khảo nhé! Chúc bạn học tốt!
Điền các điệp ngữ vào chỗ trống trong bài ca dao sau đây:
Khăn thương nhó ai
Khăn rơi xuông đất
Khăn..............................
Khăn vắt lên ai?
Khăn ................................
Khăn chùi nước mắt?
Đèn...................................
Mà đèn chẳng tắt?
Mắt....................................
Mắt không ngủ yên
Ai giải hộ tôi với nha
Phát biểu cảm nghĩ về một bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh (chị) yêu thích.
Dàn ý: Bài thơ Quê hương của Tế Hanh
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả : Mảnh hồn thơ trong trẻo giữa các nhà thơ trước Cách mạng tháng Tám, có nhiều bài thơ viết về thiên nhiên.
- Giới thiệu tác phẩm : Viết năm 1939
- Khái quát : Bài thơ là tiếng lòng trong sáng, những kí ức và hình ảnh tươi đẹp về quê hương của tác giả - một người con xa quê.
2. Thân bài
Phân tích nội dung cơ bản của bài thơ :
- Bài thơ có trình tự giống như một chuyến hành trình cùng ra khơi đánh cá với những người dân chài.
- Con thuyền ra khơi, hùng dũng và đẹp đẽ chinh phục thiên nhiên.
- Đoạn thơ thứ ba, tư của bài là bức tranh quê miền biển buổi sáng đón đoàn thuyền chài trở về trong an lành, bội thu và vẻ đẹp khỏe khoắn của người ngư dân.
- Khổ thơ cuối : Nỗi nhớ quê hương da diết của tác giả Tế Hanh được bộc lộ một cách trực tiếp và sâu sắc
3. Kết bài
- Suy nghĩ của em về hình ảnh đẹp của quê hương tác giả được miêu tả qua bài thơ.
- Cảm nghĩ về tình yêu quê hương da diết, hồn thơ trong trẻo và tinh tế của Tế Hanh.
Phát biểu cảm nghĩ về một bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh (chị) yêu thích.
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả : Mảnh hồn thơ trong trẻo giữa các nhà thơ trước Cách mạng tháng Tám, có nhiều bài thơ viết về thiên nhiên.
- Giới thiệu tác phẩm : Viết năm 1939
- Khái quát : Bài thơ là tiếng lòng trong sáng, những kí ức và hình ảnh tươi đẹp về quê hương của tác giả - một người con xa quê.
2. Thân bài
Phân tích nội dung cơ bản của bài thơ :
- Bài thơ có trình tự giống như một chuyến hành trình cùng ra khơi đánh cá với những người dân chài.
- Con thuyền ra khơi, hùng dũng và đẹp đẽ chinh phục thiên nhiên.
- Đoạn thơ thứ ba, tư của bài là bức tranh quê miền biển buổi sáng đón đoàn thuyền chài trở về trong an lành, bội thu và vẻ đẹp khỏe khoắn của người ngư dân.
- Khổ thơ cuối : Nỗi nhớ quê hương da diết của tác giả Tế Hanh được bộc lộ một cách trực tiếp và sâu sắc
3. Kết bài
- Suy nghĩ của em về hình ảnh đẹp của quê hương tác giả được miêu tả qua bài thơ.
- Cảm nghĩ về tình yêu quê hương da diết, hồn thơ trong trẻo và tinh tế của Tế Hanh.
Viết đoạn văn phát biểu cảm nghĩ của em về một bài ca dao mà em yêu thích trong chương trình Ngữ văn 7, tập 1.
Đáp án
- Cảm nghĩa về bài ca dao: “Công cha như núi ngất trời”
* Hai câu đầu: Khẳng định công lao to lớn của cha mẹ đối với con cái:
- So sánh “công cha” với “núi”, “nghĩa mẹ” với “nước” - vừa cụ thể vừa trừu tượng làm nổi bật công cha nghĩa mẹ dành cho con cái là vô cùng lớn lao không thể đo đếm được.
- Sử dụng phép đối: “Công cha” – “Nghĩa mẹ” ; “Núi ngất trời” – “nước biển Đông” ⇒ Tạo cách nói truyến thống khi ca ngợi công lao cha mẹ trong ca dao
* Hai câu sau: Lời nhắn nhủ ân tình thiết tha về đạo làm con.
- “ Cù lao chín chữ” là thành ngữ Hán Việt -> tượng trưng cho công lao cha mẹ sinh thành, nuôi dưỡng dạy bảo con cái vất vả, khó nhọc nhiều bề.
- Khuyên những người con biết ghi lòng tạc dạ công ơn to lớn của cha mẹ.
Nêu suy nghĩ của em về vẻ đẹp của 1 nhân vật trong tác phẩm văn học mà em yêu thích -Giúp em vs ạ mai e kt r ạ -
Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân là một tác phẩm nổi tiếng viết về người nông dân trong kháng chiến. Hình ảnh ông Hai, nhân vật chính của truyện là hình ảnh tiêu biểu và chân thực của người nông dân trong những ngày đầu mới tiếp xúc với cách mạng, với lòng yêu làng, yêu nước sâu sắc, với sự hồ hởi say mê, tin yêu chung thủy với kháng chiến, với Bác Hồ.
Trước Cách mạng tháng Tám, ông Hai là một người nông dân nghèo khổ chất phác. Cũng như bao người khác, cuộc đời ông đã trải qua những giai đoạn sóng gió, đau khổ tuyệt vọng, ông Hai đã bị bọn hương lí trong làng “truất ngôi trừ ngoại”, đó là một điều xót xa cho người yêu làng như ông Hai. Có làng, có nhà, có cửa mà ông phải “phiêu dạt lang thang hết nơi này đến nơi khác”. Cuộc sống đói nghèo cực khổ nơi đất khách quê người rồi cũng chấm dứt. Sau mười mấy năm trời lênh đênh ông cũng tìm cách về lại làng mình, về đến làng, cuộc sống đói nghèo vẫn không chấm dứt.
Không những phải chịu đựng cuộc sống đói nghèo cùng cực, người nông dân như ông Hai phải phục dịch cho bọn hương lí. ông Hai bị gạch đổ bại một chân trong một lần phu phen tạp dịch. Cuộc sống thật tối tăm cùng cực, ông bị vùi dập đủ đường. Sống một cuộc sống như thế nhưng tấm lòng của những người nông dân như ông Hai vẫn hướng về làng mình, vẫn yêu làng mình, vẫn yêu làng sâu sắc. Với ông Hai, làng chợ Dầu đã trở thành máu mủ ruột rà. Ông hãnh diện với làng ông, ông khoe làng chợ Dầu với mọi người ở mọi nơi mà ông đến. Nhiều lúc ông nói về làng mình cho đỡ nhớ. Người đọc thấu hiểu tình cảm sâu sắc của ông Hai với nơi chôn nhau cắt trôn. Ông khoe làng ông có “cái sinh phần của viên tổng đốc” có bề dày truyền thống, có cảnh đẹp nổi tiếng cả vùng. Tất cả những gìthuộc về làng đối với ông Hai đều thiêng liêng gắn bó. Do đó, mặc dù cái sinh phần đã gieo rắc cho ông, cho bao người khác tai hoạ song ông vẫn cảm thấy tự hào. Dường như trong tâm trí ông Hai, cái sinh phần đó là sức lực của cả làng. Và có một chút rất riêng của bản thân ông, tình yêu làng của ông Hai thật giản dị, chất phác.
Sau cách mạng, ông vẫn khoe làng mình nhưng ông khoe làng mình có cái “nhà thông tin rộng rãi”, “có chòi phát thanh”, khoe làng mình giàu có, trù phú… Ông không khoe cái sinh phần cụ Thượng nữa, bởi bây giờ ông đã hiểu được nhiều điều. Ông đã được tiếp xúc với cách mạng, với đấu tranh, vẫn khoe làng, vẫn là tình yêu làng của con người chất phác, hiền lành, song trong tình yêu làng có một tình cảm khác đang trỗi dậy, lớn mạnh hơn, cao cả hơn, thiêng liêng hơn.
Ngày đầu tiên xúc với cách mạng, ông Hai có cái bỡ ngỡ, lạ lẫm ban đầu của người nông dân chất phác, vốn quen bị vùi dập nay tiếp xúc với đấu tranh, với chính trị. Cách mạng tháng Tám đến với những người như ông Hai mang theo một sự thay đổi về cuộc đời, thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước trong họ, ông đi theo cách mạng với tất cả lòng nhiệt thành, say mê, hăm hở của mình. Ông nguyện ở lại chiến đấu với xóm làng và khi phải đi tản cư ông cũng tự an ủi mình: “đi tản cư cũng là kháng chiến”.
Tình cảm của người nông dân này dành cho cách mạng, cho kháng chiến chân thành, sâu sắc vô cùng. Câu chuyện của ông Hai bây giờ chỉ xoay quanh về kháng chiến, cách mạng, về tự vệ làng ông. Tình yêu làng, yêu nước hòa quyện trong con người ông Hai ngày càng rõ rệt. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo Tây, ông Hai “cổ nghẹn đắng lại, da mặt tê rân”. Trước hết, đó là sự xót xa của ông về làng mình, sự phản bội của nơi chôn nhau cắt rốn của mình, ông lão tủi hổ, bàng hoàng trước sự việc đó. Tình yêu làng vẫn thắm thiết trong ông với niềm hãnh diện, tự hào. Vậy mà bâygiờ… ông lão nghĩ tới việc trở về làng. Song ý nghĩ đó ông gạt phắt đi. Trong sự tuyệt vọng, đau khổ này, lối thoát về làng chợ Dầu loé lên như một tia hi vọng nhưng rồi lại tắt ngấm. Từ lâu ông yêu làng ông, mong được trở về với làng song trong ông tin yêu nước mạnh hơn, thiêng liêng hơn, không vì làng mà bỏ nước, bỏ kháng chiến. Giữa sự giằng co trong tâm hồn, ông Hai đã tự thốt lên đầy đau đớn song đầy quyết tâm: “Làng thìyêu thật đấy, nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù… Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu, trên cổ xét soi cho bốcon ông, cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai…”.
Cách mạng đã đổi đời cho người nông dân như ông, ông nguyện đi theo và trung thành với cách mạng. Gạt sang một bên tình cảm riêng của mình mà đi theo kháng chiến, không chịu theo Tây sống với Tây. Tình cảm gắn bó với cách mạng, với Bác Hồ của những người nông dân như ông chất phác, mộc mạc, sâu sắc, nó xuất phát từ đáy lòng, từ máu thịt.
Thấy được tình yêu làng, yêu nước của ông Hai, ta hiểu và cũng mừng với sự hớn hở của ông Hai khi ông nghe cái tin làng trở về gắn bó vớinhau ngày càng sâu sắc, thắm thiết hơn trong lòng người nông dân chân chất này. Từ nay ông Hai không phải dằn vặt trong sự lựa chọn khắc nghiệt, giữa làng và nước. Cái vui của ông Hai là cái vui của một con người yêu quê hương đất nước sâu sắc. Niềm vui khiến ông lão như trẻ con “lật đật, bô bô” kể về làng mình bị “đốt nhẵn”. Nhà của ông bị cháy trụi, mà ông không để ý, không đau buồn, ông chỉ biết rằng lúc này làng ông là làng kháng chiến và ông lão bây giờ có thể tự hào, hãnh diện ngồi kể về làng chợ Dầu kháng chiến của mình.
Kim Lân rất thành công khi xây dựng và khắc hoạ hình ảnh ông Hai trong lòng người đọc. Đó là một người nông dân nghèo khổ, yêu làng mình sâu sắc. Được cách mạng đổi đời, ông lão nguyện đi theo cách mạng và trung thành với kháng chiến. Hình ảnh ông Hai sông động, chân thực vànhững nét tính cách rất nông dân chất phác, chân thành là hình ảnh tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.
Vốn là những con người chân thực, chất phác, nhưng ngày đầu tiếp xúc với cách mạng họ vẫn có sự bỡ ngỡ lạ lẫm ban đầu. Cảm giác ấy nhanh chóng tan đi, người nông dân đón nhận cách mạng với một tình cảm chân thành, một lòng hăm hở. Cuộc đời người nông dân Việt Nam rẽ sang bước ngoặt mới, tươi sáng hơn. Họ nô nức, háo hức hòa chung vào phong trào cách mạng cả nước, họ hăng hái cầm súng bảo vệ quê hương. Cách mạng trở thành một phần máu thịt của người nông dân, có những người như ông Hai day dứt, tủi hổ, khổ sở khi mình bị hiểu lầm là không trung thành với cách mạng. Đó là lòng trung thành, là tình cảm sâu sắc, bền chặt mà thối bùng ngọn lửa đấu tranh trong lòng họ. Họ – những người như ông Hai đứng lên đào hào, đắp luỹ trực tiếp chống lại quân thù. Lòng yêu nước nồng nàn, sự trung thành với cách mạng, tất cả trở thành sức mạnh khiến họ đứng lên bảo vệ quê hương, bảo vệ chính mình. Cách mạng mang đến cho họ cuộc đời mới, họ phải bảo vệ lấy hạnh phúc đó của mình.
Tác phẩm “Làng” của Kim Lân đã khắc họa hình ảnh ông Hai hết sức sống động, chân thực với những chi tiết dân dã mộc mạc. Hình ảnh ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân Việt Nam sau cách mạng. Ta cảm nhận được sự sôi nổi trong mỗi người nông dân đã được đổi đời nhờ có cách mạng, họ hiểu điều đó và gắn bó với cách mạng với lòng trung thành, biết ơn sâu sắc.
Lê Minh Khuê, nữ nhà văn mê đắm tuổi trẻ mà như nhà văn Tạ Duy Anh từng nói: “Chị là người sùng bái tuổi trẻ”, “Tất cả những nhân vật trẻ của chị Khuê đểu trải qua những giây phút ghê gớm của cuộc đời nhưng cuối cùng đểu giữ được hạt ngọc của nhân cách.” Phương Định trong truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi phải chăng cũng là một nhân vật như thế, một nhân vật trong khói lửa tàn khốc của chiến tranh vẫn lạc quan, kiên cường và sáng ngời vẻ đẹp của tuổi trẻ? vẻ đẹp ấy được tập trung miêu tả thật sống động trong truyện ngắn Những Ngôi Sao Xa Xôi.
Được viết bởi một nhà văn mê đắm tuổi trẻ như thế, Những ngôi sao xa xôi là câu chuyện kể về ba nữ thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn, những con người đang ở độ tuổi đẹp nhất làm công việc đẹp nhất. Đó là những cô gái với tâm hồn trong sáng, mơ mộng; tính cách anh dũng, hổn nhiên. Trước hiện thực chiến tranh ác liệt, cuộc sống chiến đấu nhiều gian khổ, hi sinh nhưng họ vẫn giữ được tinh thẩn lạc quan và lòng quả cảm. Ba nữ thanh niên xung phong cùng với tác phẩm là hình ảnh đẹp, tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Những con người sẵn sàng tham gia đấu tranh, bảo vệ đất nước:
Chúng tôi ra đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai củng tiếc tuổi hai mươi còn chi Tổ quốc?
Cỏ sắc mà ấm quá, phải không em…
(Những người đi tới biển – Thanh Thảo)
Lê Minh Khuê khi viết về những cô gái tuổi thanh xuân đã sử dụng ngôi kể thứ nhất, nhân vật Phương Định kể câu chuyện vê’ tuổi trẻ của mình và của đơn vị mình. Câu chuyện chiến tranh vốn chỉ được biết đến qua những trang sử nhờ vậy mà trở nên gẩn gũi, tự nhiên. Cùng với ngôn ngữ sinh động, trẻ trung và đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật nữ rất tinh tế, sắc sảo của một nhà văn nữ, tác phẩm đã làm sống lại hình ảnh đẹp về những chiến công hiển hách, phi thường của ba cô gái Thao, Nho, Phương Định trong tổ trinh sát mặt đường, cũng như của hàng vạn cô gái thanh niên xung phong khác trên con đường “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”.
Những cô gái ấy đều còn rất trẻ nhưng vì nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, họ đã không ngần ngại đem tuổi xuân và sức trẻ cống hiến cho non sông. Dù phải làm việc dưới mưa bom bão đạn, phải phá bom đường để những đoàn quân thuận lợi tiến vào giải phóng miền Nam. Ba cô gái đều có những nét đẹp riêng nhưng lại mang chung vẻ đẹp của tình yêu quê hương, xứ sở, niềm tin vê’ một tương lai tất thắng. Họ sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì miền Nam thân yêu, vì độc lập, tự do muôn đời của đất nước.
Phương Định – nhân vật chính cũng là người kể chuyện của tác phẩm, giữ nhiệm vụ trong tổ trinh sát mặt đường. Cô cùng hai người đổng đội của mình là Nho và Thao ở trong một cái hang dưới chân cao điểm, giữa một vùng trọng điểm, tập trung nhiều bom đạn, sự nguy hiểm và ác liệt nhất; từng ngày từng giờ phải đối mặt với “Thần Chết là một tay không thích đùa. Hắn ta lẩn trong ruột những quả bom.” Chính hoàn cảnh công việc ấy, vẻ đẹp anh dũng, kiên cường của Phương Định càng được bộc lộ rõ nét. Nhận biết được nguy hiểm cận kề nhưng Phương Định luôn đặt nhiệm vụ lên hàng đẩu. Dù có lúc chị cũng nghĩ đến cái chết, nhưng suy nghĩ này rất mờ nhạt, còn suy nghĩ rực cháy trong chị là “liệu mìn có nổ không, bom có nổ không?”, “làm thế nào để châm mìn lần thứ hai”. Ngay cả khi âm thanh sắc lạnh của mìn vang lên, chị vẫn như vừa trách, vừa nhắc nhở mình: “Phải nhanh hơn chút nữa”. Ngay cả khi trên người mang vết thương chưa lành miệng, chị vẫn một lòng muốn tiếp tục và hoàn thành nhiệm vụ.
Cùng với vẻ đẹp anh dũng, kiên cường, vẻ trẻ trung, nữ tình, yêu đời là nét đẹp nổi bật ở cô gái Hà Nội – Phương Định. Đoạn trích trên tập trung khắc họa vẻ đẹp này của chị. Đó là vẻ trẻ trung, hổn nhiên, yêu đời. Trong Phương Định có nét gì đó còn rất tinh nghịch, trẻ con. Đó là những khi ngổi nghiêng mình, dựa vào thành đá mà “hát khe khẽ” – những bài hát rất lạ kì. Phương Định “mê hát”, chị thích những bài hát quan họ mềm mại, dịu dàng, thích khúc dần ca của Hổng quân Liên Xô Ca-chiu-sa, thích ngồi bó gối mơ màng trước những bài dân ca Ý… Tâm hồn chị cũng phong phú như những điệu nhạc mà chị yêu thích, phong phú như cả những khúc hát chị bịa ra. Cứ “thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa lời ra mà hát” – những ca từ tự viết nên ấy đã tạo nên vẻ yêu đời và lãng mạn của chị. Những ca từ mà chính chị tự nhận “ bịa lộn xộn mà ngớ ngẩn đến tôi củng ngạc nhiên”. Dù Lê Minh Khuê không viết ra những lời ca do chị bịa nhưng chắc hẳn đó là lời ca viết nên bởi một cô gái có tâm hồn hài hước. Phải có sự dí dỏm, hài hước gắn với sự lạc quan, chị mới có thế thừa nhận “đôi khi bò ra mà cười một mình”. Trong những khúc hát ấy là cả tình yêu, lí tưởng sống và khao khát mãnh liệt của tuổi trẻ chị gửi vào lời ca.
Cô gái trẻ trung như chị mang vẻ đẹp nữ tính và sự tự ý thức về bản thân. Phương Định trong lời tự giới thiệu “là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá.” Như minh chứng cho điều đó, chị nói về vẻ ngoài của mình, một vẻ đẹp vừa đặc trưng của những cô gái thanh niên xung phong trong trí tưởng tượng của mỗi chúng ta với “hai bím tóc dày, tương đối mềm”, bộ quẩn áo thanh niên xung phong xanh màu hi vọng và chiếc mũ tai bèo cùng chống chịu mưa nắng. Đó cũng là vẻ đẹp rất riêng của cô gái Hà Thành với “một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn”. Có lẽ, vẻ đẹp ấy giống như nét đẹp thanh lịch của những cô gái từ xưa xuất hiện trong câu ca: “Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang” để sau này được tái hiện trong những bài ca, cầu hát như bức Thiếu nữ bên hoa huệ (Tô Ngọc Vân), vẻ đẹp ấy còn thể hiện trong đôi mắt chị, một đôi mắt mà các anh lái xe bảo: “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm”. Tạo nên cái nhìn ấy có lẽ là một đôi mắt sâu và sắc sảo với những suy tư rất riêng của chị. Đôi mắt mà chính chị củng rất thích ngắm nhìn với tình yêu và sự tự ý thức về bản thân: “tôi thích ngắm mắt tôi trong gương. Nó dài dài, màu nâu, hay nheo lại như chói nắng!’ Sự tự ý thức ấy còn ở chỗ chị biết: “các anh pháo thủ và lái xe lại hay hỏi thăm tôi. Hỏi thăm hoặc viết những thư dài gửi đường dây, làm như ở cách xa nhau hàng nghìn cây số, mặc dù có thể chào nhau hàng ngày”. Dù vậy, chị cũng không “săn sóc, vồn vã”, chị “thường đứng ra xa, khoanh tay lại trước ngực và nhìn đi nơi khác, môi mím chặt”. Đó là vẻ thùy mị, duyên dáng, kín đáo của riêng chị mà Lê Minh Khuê phải tinh tế lắm mới khắc họa được. Vẻ kiêu ngám ấy là tâm lí rất đời thường của phụ nữ, đặc biệt là những cô gái trẻ đẹp và ý thức được về bản thân mình như Phương Định. Nét tâm lí ấy càng khiến chị trở nên chân thực, gẩn gũi và đáng yêu hơn đối với mỗi độc giả.
Vẻ đẹp của Phương Định còn là vế đẹp của lí tưởng, của ước mơ hoài bão. Chị đã thừa nhận cử chỉ “đứng ra xa, khoanh tay lại trước ngực và nhìn đi nơi khác, môi mím chặt” chỉ là làm điệu thế thôi. “Thực tình trong suy nghĩ của tôi, những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất là trong những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ”. Là người sống có lí tưởng, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước nên vẻ đẹp mà chị yêu quý, trần trọng và ngưỡng mộ cũng là vẻ đẹp của những con người đang từng ngày, từng giờ cống hiến tuổi xuân và sức trẻ cho công cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc. chính lòng trân trọng những chiên sĩ trực tiếp cầm súng chiến đấu trên mặt trận ấy là động lực giúp chị vượt qua nguy hiểm, khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Với chị, tình cảm ngưỡng mộ ấy có lẽ đã được hình thành từ khi chưa “gác
bút nghiên lên đường đi chiến đấu”. Và giờ đây, khi đã tham gia cuộc cách mạng vĩ đại này, lòng ngưỡng mộ ấy phát triển thành tình đổng chí, đồng đội thiêng liêng, cao quý, trở thành vẻ đẹp ngời sáng trong tái tim cô thanh niên xung phong Phương Định.
Tất cả những nét đẹp ấy được nữ nhà văn khắc họa một cách tài tình. Khi xây dựng nhân vật, Lê Minh Khuê đã chọn phương thức trần thuật hợp lí, ngôi kể thứ nhất không chỉ giúp câu chuyện và nhân vật trở nên gần gũi, tự nhiên mà những suy nghĩ, xúc cảm của nhân vật cũng được bộc lộ đầy đủ, rõ nét. Và có lẽ, chính sự tinh tế của một nữ nhà văn đã giúp Lê Minh Khuê khắc họa được vẻ đẹp rất thực, rất đời thường của nhân vật Phương Định, từ sở thích ngân nga theo giai điệu, tự bịa lời ca đến nét thanh lịch của cô gái Hà Thành hay vẻ kiêu ngầm rất riêng của cô gái trẻ. Chính những nét đặc sắc nghệ thuật ấy đã góp phần tạo nên một Phương Định rất gấn gũi, thân quen và rất Hà Nội.
Những ngôi sao xa xôi cùng hình tượng cô thanh niên xung phong Phương Định đã góp phần khắc họa những vẻ đẹp ngời sáng thời “mưa hom bão đạn”, vẻ đẹp của những cô gái bên cạnh vẻ đẹp của những chàng trai vui tươi, gan dạ, dũng cảm, vô cùng hài hước, tếu táo: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. Đó là vẻ đẹp của cô gái trong bài thơ của Đỗ Trung Quân không thấy được “vết bầm trên má” trong “chuyến tải thương mấy lân trượt ngã”, vẻ đẹp của Những bông hoa trên tuyến lửa cũng giống như vẻ đẹp của Những ngôi sao xa xôi mà các anh chiến sĩ thường viết thư thăm hỏi, thường cất lời ngợi ca:
Tôi thấy rồi em ơi giữa cuộc hành quân
Niềm kiêu hãnh trong mắt em kỳ lạ
Trong chiếc áo bạc màu đôi miếng vá
Cô gái Việt Nam đẹp đến lạ thường.
(Đỗ Trung Quân)
Họ là:
Những người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước (Nguyền Khoa Điểm)
Càng cảm phục vẻ đẹp của nhân vật Phương Định, ta càng thêm biết ơn những lớp thanh niên đã ngã xuống, hi sinh cho sự nghiệp giải phóng, bảo vệ dân tộc. Phương Định cùng hai đồng đội Nho và Thao, cùng muôn vàn các chàng trai, cô gái khác đã đánh đổi tuổi xuân cho nền hòa bình, dần tộc. Chiến tranh qua đi, tuổi trẻ và thậm chí cả tính mạng của họ cũng không còn, nhưng vẻ đẹp sáng ngời của lí tưởng sống, của lòng dũng cảm, kiên cường đấu tranh và nét hồn nhiên, trong sáng, vui tươi của họ sẽ sống mãi trong lòng chúng ta như những vì sao lấp lánh trên bầu trời đêm.
Tham khảo:
Xuất hiện trên diễn đàn văn học Việt Nam với lối viết tinh tế, lịch lãm, nhà văn Nguyễn Thành Long được biết đến qua những sáng tác được ví như "một thứ thơ bằng văn xuôi về cuộc sống mới, con người mới". Điều này đã được thể hiện qua trích đoạn "Lặng lẽ Sa Pa". Qua tác phẩm, tác giả đã khám phá, khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động. Điều này đã được thể hiện rõ qua hình tượng anh thanh niên qua những nét đẹp về phẩm chất, tâm hồn và tinh thần trách nhiệm trong công việc cũng như sự cống hiến thầm lặng đầy cao đẹp.
Trong bối cảnh bức tranh thiên nhiên thơ mộng, mờ ảo, tác giả đã ngợi ca những con người lao động luôn sống và làm việc với lòng say mê nhiệt thành, đặc biệt là hình tượng nhân vật anh thanh niên với những nét đẹp đáng trân trọng. Anh thanh niên xuất hiện trong trang văn của tác giả qua hoàn cảnh sống và làm việc hết sức khắc nghiệt. Sống trên đỉnh núi cao 2600m cùng mây mù và cây cỏ, công việc hằng ngày của anh là "đo gió, đo mưa, đo nắng,tính mây và đo chấn động mặt đất, dự báo thời tiết hằng ngày để phục vụ sản xuất và phục vụ chiến đấu". Dù sống trong không gian heo hút cùng khí hậu khắc nghiệt "Nửa đêm dù mưa tuyết, gió lạnh, đúng giờ ốp thì cũng phải trở dậy ra ngoài trời làm việc", đặc biệt là phải chống chọi với sự cô đơn nhưng anh vẫn vượt lên mọi trở ngại, khó khăn bằng những phẩm chất cao đẹp.
Trước hết, bức chân dung về nét đẹp của con người lao động được tái hiện qua lòng yêu nghề và tinh thần trách nhiệm với công việc. Dù làm việc trên đỉnh núi cao và không có người thúc giục, giám sát nhưng anh thanh niên vẫn làm việc hết mình và tự giác: luôn báo "ốp" đúng giờ suốt mấy năm ròng rã, không ngần ngại làm việc trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt: "Nửa đêm dù mưa tuyết, gió lạnh, đúng giờ ốp thì cũng phải trở dậy ra ngoài trời làm việc". Động lực để chàng thanh niên có thế vượt qua mọi khó khăn chính là lòng yêu nghề, thể hiện qua việc anh hăng say nói về công việc một cách say mê và đầy tự hào và coi đó là lẽ sống:"[...] khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi công việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất". Quan điểm của anh thanh niên đã thể hiện rõ triết lí: "Không phải nghề nghiệp làm danh giá cho con người, mà chính con người làm danh giá cho nghề nghiệp".
Sống trên đỉnh núi cao giá lạnh cùng sự cô đơn nhưng anh thanh niên vẫn tạo ra cho mình một nếp sống văn minh và ngăn nắp. Điều này thể hiện qua cách bài trí bình dị nhưng khoa học trong căn nhà nhỏ: "một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm". Ngoài công việc, anh còn nuôi dưỡng tâm hồn, làm giàu trí tuệ, mở mang hiểu biết bằng thú vui đọc sách, xem sách là phương tiện để tìm hiểu, giao lưu với thế giới bên ngoài. Bên cạnh đó, những thú vui tao nhã như trồng hoa, nuôi gà cũng góp phần làm cho cuộc sống của anh trở nên phong phú, đa dạng hơn.
Không chỉ dừng lại ở đó, ngay từ những trang văn đầu tiên của thiên truyện, anh thanh niên còn xuất hiện với vẻ đẹp của sự chân thành, cởi mở và lòng hiếu khách. Cuộc đối thoại và hành động ân cần của anh đối với bác lái xe cùng niềm vui khi có khách ghé thăm bất ngờ đã cho thấy sự trân trọng giá trị tình cảm và khao khát được gặp gỡ, trò chuyện của nhân vật. Ngoài ra, đây còn là chàng trai khiêm tốn và thành thực. Mặc dù làm việc trong hoàn cảnh khắc nghiệt và đem đến những cống hiến vĩ đại nhưng khi ông họa sĩ ngỏ lời phác họa chân dung, anh nhiệt thành giới thiệu những người khác và cho rằng những đóng góp của mình chỉ là bé nhỏ.
Qua những gì đã phân tích, chúng ta có thể thấy được nhân vật anh thanh niên ngời sáng những vẻ đẹp về cách nghĩ, tinh thần, tình cảm cũng như cách sống và làm việc, trở thành một biểu tượng đẹp, minh họa cho bức chân dung của những con người lao động trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Đồng thời thể hiện rõ tài năng xây dựng tình huống truyện và xây dựng nhân vật của nhà văn Nguyễn Thành Long.
Viết đoạn văn (10-15) câu phát biểu cảm nghĩ của em về một bài ca dao mà em yêu thích trong chương trình Ngữ văn 7, tập 1.
Ca dao dân ca là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng chúng ta từ thuở lọt lòng. Dòng sữa tinh thần ấy lan xa theo hương lúa, cánh cò, trầm bổng ngân nga theo nhịp chèo của con thuyền xuôi ngược, âu yếm thiết tha như lời ru của mẹ... như khúc hát tâm tình quê hương đã thấm sâu vào tâm hồn tuổi thơ mỗi người. Em nhớ mãi lời ru của bà của mẹ:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Lời ca dao tuy giản dị mà ý nghĩa thật lớn lao, nó ca ngợi công lao trời biển của cha mẹ và nhắc nhở đạo làm con phải lấy chữ hiếu làm đầu.
Vẫn là thi pháp thường thấy trong ca dao, các tác giả dân gian dùng cách nói ví von để tạo ra hai hình ảnh cụ thể, song hành với nhau: Công cha đi liền với nghĩa mẹ. Không phải ngẫu nhiên mà cha ông ta mượn hình ảnh núi Thái Sơn và nước trong nguồn vô tận để so sánh với công lao nghĩa mẹ:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Cha mẹ sinh con ra, nuôi con mau lớn thành người. Tấm lòng cha mẹ dành cho con thật vô tận, nó chỉ có thể sánh với núi sông hùng vĩ trường cửu mà thôi. Công cha lớn lao như núi, cha thức khuya dậy sớm làm lụng vất vả lo cho con có cơm ăn áo mặc, học hành, khôn lớn thành người. Người cha như chỗ dựa tinh thần và vật chất cho con, cha nâng niu ôm ấp chăm chút cho con, ai có thể quên công lao trời biển ấy. Chín tháng mang nặng rồi đẻ đau, mẹ chắt chiu từng giọt sữa ngọt ngào nuôi con khôn lớn. Lúc con khỏe mạnh cũng như khi ốm đau lòng mẹ giành cho con: như biển Thái Bình dạt dào. Không có cha mẹ làm sao có chúng ta được: con có cha mẹ, không ai ở lỗ nẻ mà lên, tục ngữ đã dạy ta bài học đó. Câu ca dao đã nâng công lao của cha mẹ lên tầm kỳ vĩ sánh với vũ trụ, đất trời. Những hình ảnh tuy giản dị đơn sơ mà thấm đượm lòng biết ơn vô hạn của con cái với mẹ cha.
Công lao trời biển của cha mẹ sao kể hết bằng lời. Trong những dòng trữ tình hàm súc ấy ẩn chứa một chân lí ngàn đời, chân lí ấy phải được chuyển hoá thành hành động, hành động của lòng biết ơn:
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Ông cha ta dạy kẻ làm con phải: thờ mẹ kính cha phải giữ tròn phận sự của kẻ làm con. Đạo làm con phải làm tròn chữ hiếu. Hiếu ở đây là hiếu thuận, hiếu nghĩa, là cư xử làm sao cho kính trọng, yêu thương. Đó cũng là cách sống, cách thức làm người, lẽ sống của con người. Với cha mẹ phải thương yêu ngoan ngoãn vâng lời, lúc nhỏ thì chăm ngoan học giỏi, lớn lên trở thành người công dân tốt, đứa con hiếu thuận trong gia đình. Phải tuân theo những cách thức ứng xử hợp đạo lý. Hai chữ một lòng thế hiện niềm thuỷ chung, son sắt không thay đổi.
Luật gia đình của chúng ta ngày nay quy định bậc con cái phải có nghĩa vụ kính trọng cha mẹ, săn sóc cha mẹ khi già yếu chính là kế tục truyền thống tốt đẹp muôn đời của dân tộc ta uống nước nhớ nguồn. Những kẻ đi ngược lại đạo lý ấy thì sẽ không bao giờ tốt với ai hết, và dĩ nhiên kẻ ấy không bao giờ trở thành một công dân tốt cho xã hội. Những kẻ ấy nếu sống ở trên đời sẽ là những ung nhọt bệnh hoạn của gia đình, xã hội mà chúng ta thường gọi là bất nhân bất nghĩa.
Chúng ta được cha mẹ sinh ra để làm một con người, hãy sống cho xứng đáng là con người. Trên thực tế không phải ở mọi lúc, mọi nơi những đứa con giữ tròn đạo hiếu. Có biết bao cảnh con khinh rẻ cha mẹ, thậm chí đối xử tệ bạc với những người đã sinh ra và nuôi dưỡng mình. Những cách sống của những kẻ như vậy phải bị xã hội trừng trị. Bài ca dao đã đánh thức những kẻ đã và đang sống thiếu lương tri, đồng thời cũng như luồng ánh sáng chiếu rọi vào trái tim mỗi chúng ta - những đứa con.
Ngày nay chữ hiếu không chỉ dừng ở góc độ gia đình, rộng hơn là hiếu với dân, với nước. Có được như vậy mới nhằm xây dựng một xã hội lành mạnh, đẹp đẽ hơn, mà trước hết phải từ gia đình sống với nhau hiếu thuận có đạo đức.
Bài ca dao trên cũng như phần lớn các bài ca dao khác với nghệ thuận so sánh ví von, lời thơ cân xứng hài hoà, hình ảnh giản dị mà hàm xúc... đã nhằm nói lên được tình cảm gia đình sâu sắc. Tính truyền cảm, nội dung giáo dục mạnh mẽ đã làm cho nó sống mãi với chúng ta bao đời nay.
#Học tốt!!!
Viết bài văn nghị luận khoảng 600 chữ trình bày suy nghĩ của em về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học mà em yêu thích. Lưu ý: không chép mạng
Tác phẩm văn học em yêu thích "Chiếc thuyền ngoài xa"
Vấn đề được gợi ra: bạo lực gia đình
Trong bài thơ thế hệ chúng tôi nhà văn Nga Vinokurov từng viết
"Làm thú vật thánh thần cũng dễ
Chỉ có làm người khó biết bao nhiêu"
Hành trình để trở thành con người đúng 2 chữ viết hoa của nó chẳng dễ gì. Điều cần làm để đạt được mục tiêu ấy là thay đổi một xã hội tốt hơn thì việc đầu tiên chúng ta cần làm làm là loại bỏ bạo lực gia đình ra khỏi xã hội.
Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của các thành viên trong gia đình cố ý gây tổn hại với các thành viên khác trong gia đình. Nói cách khác đó là các thành viên trong gia đình vận dụng sức mạnh để giải quyết các vấn đề trong gia đình. Nhìn nhận vào con số thực tế chúng ta không khỏi đau lòng khi thấy vấn nạn này đang dần trở thành một căn bệnh mãn tính gây ra cơn đau nhức nhối trong xã hội hiện đại. Điều tra quốc gia bạo lực với phụ nữ được Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Tổng cục Thống kê, Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam thực hiện năm 2019, công bố năm 2020 cho thấy, năm 2019, có 31,6% phụ nữ phải chịu ít nhất một hình thức bạo lực trong 12 tháng (kể từ lúc điều tra). Trong năm 2021, theo con số từ Tổng đài 111, trẻ em bị bạo lực bởi người thân trong gia đình chiếm tỷ lệ cao nhất, chiếm 72,84% tăng 5,3% so với năm 2020. Qua đó chúng ta có thể thấy hiện thực đau lòng, phụ nữ và trẻ em đáng lẽ là đối tượng được ưu tiên bảo vệ nhưng lại trở thành nạn nhân bị đánh đập trong chính nơi tưởng như an toàn nhất - gia đình.
Trước hết nguyên nhân của những vụ bạo lực trẻ em trong gia đình thường xuyên phát từ một quan niệm không mấy xa lạ với chúng ta “Thương cho roi cho vọt/ Ghét cho ngọt cho bùi”. Nhiều bậc phụ huynh vẫn quan niệm rằng chỉ có roi vọt mới khiến đứa trẻ nên người.Thậm chí, nhiều bố mẹ còn sẵn sàng đánh con mình bằng những đòn roi nặng nề nhất chỉ vì những sai lầm nhỏ nhặt có thể bảo ban bằng lời. Nhưng phương pháp giáo dục này như một con dao hai lưỡi. Hiệu quả thì chưa rõ sẽ ở mức độ nào nhưng gây ra tổn thương cho những đứa trẻ là một điều chắc chắn. Nó không chỉ để lại những vết sẹo trên cơ thể mà còn bóp méo cả tâm hồn của các em. Ngoài ra con nguyên nhân từ chính áp lực cuộc sống gia đình của người cha/mẹ. Họ bức bối khó chịu vì những vấn đề công việc ở ngoài kia sau đó về nhà họ coi con cái như một “bao cát” để giải tỏa hết những cảm xúc tiêu cực của chính mình.
Trong xã hội hiện đại, phụ nữ có rất nhiều cơ hội để phát triển tiềm năng khẳng định vị thế của bản thân. Họ được bảo vệ bởi pháp luật và hưởng mọi quyền bình đẳng trước pháp luật. Vậy mà hiện nay vẫn còn rất nhiều người phụ nữ chịu cảnh bạo lực đến từ chính người chồng mình yêu thương nhất mà không dám lên tiếng đấu tranh. Một phần vì con cái, người phụ nữ không muốn đứa con của mình lớn lên thiếu vắng tình cảm yêu thương của người cha nên buộc phải cam chịu đòn roi của chồng. Một nguyên nhân phổ biến khác là bản thân người phụ nữ họ nhìn nhận không tốt về mình, họ cảm thấy mình thấp kém lại phụ thuộc về kinh tế, nên tỏ vẻ cam chịu và thậm chí việc bị bạo hành đối với họ là chuyện bình thường. Từ đó làm cho người chồng của mình lầm tưởng việc đánh đập vợ con là chuyện tất yếu.
Đối với những nạn nhân đặc biệt là lứa tuổi học đường thì tổn thương bằng bạo hành gia đình càng được nhân lên sâu sắc. Những đứa trẻ bị bạo hành gia đình tự ti, vẫn tồn tại cảm giác sợ hãi trước lời nói của người khác. Chúng đặt ra cho mình những giới hạn, những vùng cấm địa nhốt mình trong một không gian thế giới của riêng mình. Điều ấy ảnh hưởng đến sự phát triển tự nhiên của con người. Đứa trẻ không thể phát triển toàn diện về nhân cách và lối sống. Trái tim đóng khép không còn mở ra cánh cửa nào tiến đến cuộc sống bên ngoài. Thậm chí, có vài đứa trẻ sẽ nảy sinh tâm lý vặn vẹo và có thể là thế hệ tiếp theo thực hiện “bạo lực” đối với người khác. Đối với người phụ nữ, hậu quả đầu tiên mà bạo hành để lại đó là tình trạng sức khỏe của phụ nữ. Người phụ nữ bị đánh đập, hành hạ trên thân xác nên các dấu tích của hành động bạo hành để lại rất rõ nét. Bên cạnh những vết thương lòng ngay lúc bị hành hạ là những ấm ức, buồn tủi lâu dài làm cho người phụ nữ trở nên ít nói, lầm lì và lâu ngày sẽ trở thành căn bệnh trầm cảm. Đối với xã hội, nó như một cái gai mọc lên gây hoang mang, nhức nhối len lỏi tồn tại cùng sự phát triển của xã hội.
Việc bạo lực gia đình đối với phụ nữ và trẻ em đang ngày càng có xu hướng mất kiểm soát như hiện nay, chúng ta cần triển khai và thực hiện nghiêm túc các quy định của Pháp luật về quyền phụ nữ và trẻ em. Đặc biệt là tăng cường mở rộng một số lớp học kỹ năng “mềm” về phòng tránh bạo lực và bảo vệ bản thân khỏi xâm hại tình dục cho trẻ em và cả các bậc phụ huynh. Các cơ quan báo chí cũng đóng một vai trò không nhỏ trong những nỗ lực bảo vệ phụ nữ và trẻ em. Báo chí nói riêng và phương tiện truyền thông nói chung cần dành thời lượng hoặc những chuyên mục nhằm cảnh báo và lên án về bạo lực gia đình để đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến kiến thức tiếp cận đến nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội. Các cơ quan tiếp nhận xử lý những trường hợp bạo lực gia đình cần nghiêm túc xử lý những hành động vi phạm pháp luật nghiêm trọng về quyền phụ nữ và trẻ em. Tuyệt đối không được trì hoàn hay chậm trễ khiến những kẻ ác gây ra tổn thương cho nạn nhân nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Đó cũng cách để răn đe đến những đối tượng có ý định bạo lực các thành viên gia đình trong xã hội.
Còn về phía bản thân chúng ta là những con người nhỏ bé trong xã hội cũng không nằm ngoài trách nghiệm bảo vệ trẻ em. Khi bắt gặp cảnh tượng bạo lực gia đình, đừng làm ngơ trước điều đó. "Thế giới sẽ trở nên tồi tệ hơn, không phải vì sự tàn bạo của kẻ xấu, mà vì sự im lặng đáng sợ của người tốt" - Napoléon Bonaparte”. Hãy gọi ngay cho số 111 - số máy khẩn cấp của tổng đài tiếp nhận xử lý thông tin và hành vi tố giác bạo lực gia đình 24/24 luôn sẵn sàng tiếp nhận mọi trường hợp liên quan đến trẻ em trên cả nước. Đây cũng là cách chúng ta không cần ra mặt trực tiếp nhưng vẫn có thể can thiệp và giải cứu cuộc đời của một đứa trẻ. Biết đâu sau cuộc gọi đó, một cuộc đời được cứu rỗi, một đứa trẻ được sống hạnh phúc và một mạng người được ở lại với thế giới này. Cùng với đó mỗi đứa trẻ cũng cần trang bị cho mình một số kiến thức cơ bản về cách nhận biết và phòng vệ trước những hành vi bạo lực gia đình. Và mỗi người mẹ cần có động thái cứng rắn chống lại các hành động bạo lực của người chồng để bảo vệ cho sự an toàn của bản thân và những đứa trẻ. Trong trường hợp không thể tự mình giải quyết, hãy liên lạc với các tổ chức xã hội hoặc kết nối với bên phía nhà trường để nhận được sự giúp đỡ.
Ngoài ra, bức ảnh trên còn đề cập đến vấn đề sử dụng bia, rượu chất kích thích gây ra những hành động mất kiểm soát đối với những người thân trong gia đình. Ma men gây ra 30% các vụ bạo lực trong gia đình. Phụ nữ và trẻ em, đồng bào dân tộc thiểu số đang là đối tượng gánh chịu tác hại từ việc sử dụng rượu bia của người xung quanh, đặc biệt là người trong gia đình. Trong đó, 50% phụ nữ cho biết người uống rượu bia nhiều gây các ảnh hưởng bất lợi nhiều nhất đến bản thân họ là người thân trong gia đình, cao gấp 7 lần so với ở nam giới (14,9%). 44,2% phụ nữ cho biết chồng/bạn tình là người uống rượu bia nhiều gây ảnh tiêu cực nhất, cao gấp 12,8 lần so với nam giới (6%). Vì vậy chúng ta không thể làm ngơ trước tác hại của rượu bia Về phía nhà nước cần Luật Phòng chống tác hại rượu, bia là một giải pháp để bảo vệ sức khỏe người dân thông qua việc giảm mức tiêu thụ và kiểm soát quảng cáo, để hạn chế tới mức thấp nhất tai nạn giao thông; bạo lực gia đình; những hệ lụy xã hội khác… từ việc lạm dụng rượu, bia gây ra.Về phía người sử dụng cần ý thức lượng chất kích thích mình đã nạp vào người để điều chỉnh hành vi đúng mực đối với những người xung quanh đặc biệt là người thân trong gia đình.
Tôi nhận ra, tổn thương trong bạo lực gia đình là không thể tránh. Nhưng yêu thương chính là cách để hàn gắn, để thay đổi, giảm đi tình trạng bạo lực gia đình đang diễn ra trong cuộc sống thường nhật. Lưng chừng tuổi trẻ nhiệt huyết nhưng cũng đầy chênh vênh, nhưng tôi cảm thấy mình đủ lớn để hiểu những tác hại bài của bạo lực gia đình trong học đường cũng như là cuộc sống. Chính tôi và các bạn - một phần của xã hội này đều phải có trách nhiệm đẩy lùi loại bạo lực này, chữa lành vết thương của những nạn nhân một lần nữa đem họ về ngưỡng cửa cuộc đời. Còn bạn, bạn đã nhận thức thế nào về sự nguy hiểm bạo lực gia đình?
Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải
Dàn ý
1. Mở bài
- Dẫn dắt vấn đề: Đề tài mùa xuân trong văn chương nghệ thuật
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ.
2. Thân bài
* Cảm nhận về khổ đầu bài thơ: "Mọc giữa dòng sông xanh... tôi hứng"
- Không gian quen thuộc của miền quê Việt Nam yên bình qua vài ba nét chấm phá: Một dòng sông xanh, một bông hoa tím, vài chú chim nhỏ
- Hình ảnh nổi bật trong bức tranh đó: Dòng sông xanh biếc đang miệt mài chảy trôi, giữa dòng điểm xuyết "bông hoa tím biếc"
- Động từ "mọc": Tạo ấn tượng mạnh
+ Màu tím: Màu sắc được người dân xứ Huế sử dụng nhiều nhất nhưng ở đây là "tím biếc" - màu của đóa hoa lục bình đang dập dềnh trôi giữa dòng nước
+ "Ơi con chim chiền chiện"
+ Tiếng gọi đầy tha thiết, thân thương, như tiếng gọi một con người
+ Chim chiền chiện: Loài chim quen thuộc của nông thôn Việt Nam, giọng hót cao vút...
Xem thêm: https://soanbaitap.vn/tu-de-xuat-bai-tap-phan-tich-mot-tac-pham-truyen-hoac-tho-ma-em-yeu-thich-lap-dan-y-cho-bai-viet-ay
Lập dàn ý phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học: " Cảnh Khuya" của Hồ Chí Minh - Ngữ Văn 7
MB: Giới thiệu bài thơ và cảm nghĩ chung của em.
TB: Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ đó:
- Cảm nhận, tưởng tượng về hình tượng thơ trong tác phẩm.
- Cảm nghĩ về từng chi tiết.
- Cảm nghĩ về tác giả của bài thơ.
KB: Tình cảm của em với nhà thơ.
Mở bài:
- Giới thiệu về nguồn gốc và nội dung bài thơ. VD:
- Bài thơ Cảnh Khuya được chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác vào năm 1947 trong thời kì chiến tranh chống Pháp, tại chiến khu Việt Bắc
- Giữa cuộc kháng chiến đầy gian khổ, Bác vẫn gữ vững ung dung, tự tại, lạc quan, vẫn dành cho mình những phút giây thanh thản để thưởng thức vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên. Bác coi thiên nhiên là nguồn động viên tinh thần đối với mình.
Thân bài:
- Miêu tả cảnh đêm trang rừng êm đềm, thơ mộng (chúng ta cần giải thích các từ hán Việt của bài này):
+ Câu 1 và 2:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
- Giữa không gian tĩnh lặng của đêm khuya thì nổi bật lên tiếng suối chảy róc rách, nghe hay như tiếng hát, với nhịp thơ 2/1/4, ngắt ở từ trong, như một chút ẫm để rồi đi đến so sánh thú vị: trong như tiếng hát xa.
- Sự so sánh và liên tưởng ấy vừa làm nổi bật nét tương đồng giữa tiếng suối và tiếng hát xa, vừa thể hiện sự nhạy cảm, tinh tế của trái tim nghệ sĩ.
- Ánh trăng chiếu sáng mặt đất, soi tỏ cảnh vật. Những mảng màu sàng, tối đan xen, hòa quyện, tạo nên khung cảnh thơ mộng: Trăng lồng thụ, bóng lồng hoa. Bóng trăng, bóng cây quấn quýt, lồng vào bóng hoa một cách lung linh vàhuyền ảo,...
- Nghệ thuật miêu tả phong phú, tinh tế: có xa có gần, cao và thấp, tĩnh và động,...tạo nên bức tranh đêm trtừng tuyệt đẹp, cuốn hút hồn người.
- Miêu tả tâm trạng của Bác trong đêm trăng sáng:
+ Câu 3 và câu 4:
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
- Bác say mê thưởng thức vẻ đẹp huyền ảo, thơ mộng của rừng núi dưới ánh trăng soi đẹp như tranh vẽ "Cảnh khuya như vẽ".
- Người chưa ngủ vì hai lí do, lí do thứ nhất là vì cảnh đẹp làm cho tâm hồn người nghệ sĩ bâng khuâng, say đắm. Lí do thứ hai: chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà, lo về cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Cảnh thiên nhiên dù đẹp đẽ, thơ mộng nhưng không làm cho Bác quên đi trách nhiệm lớn lao của một lãnh tụ cách mạng đối với dân, với nước.
- Cả hai câu thơ cho thấy sự gắn bó giữa con ngưới thi sĩ đa cảm và con ngưới chiến sĩ kiên cường trong Bác.
Kết bài:
- Cảnh khuya là một bài thơ tứ tuyệt hay và đẹp, có sự kết hợp hài hòa giữa tính cổ điển (hình thức) và tính hiện đại (nội dung).
- Bài thơ thể hiện tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và tinh thần trách nhiệm cao cả của Bác Hồ - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam; là dẫn chứng chứng minh cho phong cánh tuyệt với của người nghệ sĩ - chiến sĩ Hồ Chí Minh.
DÀN Ý
1. Tìm hiểu đề
- Về nội dung: đề bài yêu cầu em phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Cảnh khuya. Để cảm xúc có sức thuyết phục, cần hiểu rõ giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Bài thơ bộc lộ những rung cảm tinh tế của Bác Hồ về vẻ đẹp của đêm trăng Việt Bắc. về nghệ thuật: đây là một bài thơ tứ tuyệt dặc sắc, có sự kết hợp hài hoà giữa vẻ đẹp cổ điển và thời đại, giữa chất nghệ sĩ và tinh thần chiến sĩ.
- Về hình thức: Đề bài yêu cầu em viết bài biểu cảm về một tác phẩm văn học. Phương thức biểu dạt chính là biểu cảm. Có thể kết hợp linh họat với các phương thức biểu đạt khác trong quá trình làm bài. Lời văn giàu cảm xúc và hình ảnh với các liên tưởng sinh động. Từ ngữ cần được chắt lọc, tránh dùng khẩu ngữ trong bài viết (do đặc điểm riêng của bài biểu cảm về tác phẩm văn học quy định).
2. Dàn bài
a. Mở bài:
- Giới thiệu bài thơ Cảnh khuya của Bác Hồ (viết năm 1947, tại chiến khu Việt Bắc).
- Trong hoàn cảnh kháng chiến gian khổ, Bác Hồ vẫn tràn đầy cảm hứng trước vẻ đẹp của đêm trăng huyền ảo.
b. Thân bài:
- Cảnh đêm trăng thơ mộng nơi rừng núi Việt Bắc
+ Tiếng suối chảy văng vẳng khi gần, khi xa... trong đêm yên tĩnh.
+ Ánh trăng thanh lọc qua kẽ lá tạo nên một khung cảnh huyền hoặc.
+ Nghệ thuật so sánh, lấy động tả tĩnh, bức tranh thiên nhiên có chiều cao, chiều xa, chiều rộng...
- Tâm trạng của nhà thơ trong đêm trăng đẹp
+ Say mê cảnh thiên nhiên trong trẻo, kì diệu.
+ Ý thức trách nhiệm cao độ với đất nước, với cuộc kháng chiến
- Cảm xúc của em về cảnh thiên nhiên tươi đẹp và tâm tình của nhà thơ trong tác phẩm
c. Kết bài:
- Khẳng định Cảnh khuya là một bài thơ đặc sắc, ở đó có sự kết hợp hài hoà giữa cảnh và tình; giữa vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại.
- Bài thơ bộc lộ tâm hồn tinh tế nhạy cảm, ý thức trách nhiệm của vị lãnh tụ cách mạng đối với đất nước trong hoàn cảnh gian nan.
BÀI LÀM
Bác Hồ là một nhà cách mạng làm thơ. Trăng luôn là người bạn gần gũi với Bác, là nguồn cảm xúc thi ca nồng nàn của Người. Cảnh khuya là một bài thơ trăng tuyệt đẹp được Bác viết ở chiến khu Việt Bắc năm 1947.
Bài thơ mở đầu bằng một khung cảnh thiên nhiên hữu tình vào một đêm trăng huyền ảo giữa núi rừng Việt Bắc kháng chiến:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.
Người đọc ngay lập tức bị hấp dẫn bởi tiếng suối trong trẻo ngân nga, khi xa, khi gần nghe như tiếng hát của ai đó giữa rừng khuya. Khi so sánh tiếng suối với tiếng hát, nhà nghệ sĩ - chiến sĩ Hồ Chí Minh đã bộc lộ một cách cảm nhận mĩ học rất hiện đại: con người là chuẩn mực của mọi vẻ đẹp trong thiên nhiên! Vì vậy tiếng suôi chảy mới biến thành tiếng hát ngọt ngào say đắm của con người. Dòng suối như mang hồn người và trở thành ca sĩ chốn lâm tuyền. Tiếng suối âm vang trong đêm vắng khiến vẻ thanh tịnh của rừng đêm thêm rõ nét hơn. Bút pháp nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử dụng rất đắc địa khiến cho bức tranh phong cảnh mang đậm chất Đường thi cổ điển.
Cùng với tiếng suối ngân nga là vầng trăng soi sáng đại ngàn. Ánh trăng lọc qua vòm cây cổ thụ tạo nên một bức thảm thêu hoa. Khung cảnh thiên nhiên lung linh và sống động vô cùng! vẻ đẹp diễm ảo của đêm trăng Việt Bắc khiến ta bâng khuâng nhớ đến một tứ thơ cổ điển:
Trăng giãi nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông!
Nếu không quan tâm đến xuất xứ của bài thơ, có thể lầm tưởng đây là áng thơ của một bậc tao nhân mặc khách. Say mê vẻ đẹp nơi suối rừng, nhà thơ đã tập trung bút lực vẽ nên một bức họa bằng thơ như để tranh tài cùng tạo hoá.
Câu thơ thứ ba Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ dường như là lời giải đáp lí do khiến nhà thơ thao thức: Người chưa ngủ vì cảnh khuya như vẽ!.
Rừng suôi trong đêm trăng thực sự là một họa phẩm trác tuyệt của hoá công! Ai nỡ ngủ trước cái đẹp kì diệu đang lộ diện! Sự thao thức ấy cũng là một phương diện thể hiện tô" chất nghệ sĩ của Bác!
Nhưng câu thơ thứ tư khiến ta bất ngờ và xúc động:
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà!
Hoá ra, Bác chưa ngủ vì một nguyên cớ khác. Việc nước bộn bề khiến Người thao thức suốt đêm thâu. Thao thức nên Người mới nghe thấy dòng suối hát ca trong đêm vắng. Khoảnh khắc nghe suối hát cũng là lúc người bất chợt phát hiện vẻ đẹp kì thú của ánh trăng nơi lâm tuyền! Đây cũng là chỗ linh diệu của bài thơ Cảnh khuya! Hai yếu tố nghệ sĩ và chiến sĩ, cổ điển mà hiện đại xuyên thấm vào nhau khó mà tách bạch được.
Đặt bài thơ vào bối cảnh gian nan ở chặng đầu thời kì chông Pháp thì những rung động tinh tế của Bác về vẻ đẹp kì ảo đêm trăng rừng Việt Bắc đã cho thấy bản lĩnh ung dung, tinh thần lạc quan cách mạng, tình yêu thiên nhiên, tinh thần kháng chiến sâu sắc của Bác Hồ. Thiếu một trong những yếu tố đó không thể viết được những vần thơ lung linh nhường ấy vào thời điểm 1947!
1. Ngữ liệu
a.Từ ngữ: Dưới đây là một số từ ngữ có thể sử dụng trong bài viết.
- Tiếng suối như tiếng hát;
- Vầng trăng;
- Hồn thơ lạc quan;
- Thiên nhiên đẹp, đáng yêu;
- Tâm hồn yêu thiên nhiên say đắm;
- Lòng yêu nước, đức hi sinh của Bác,...
b. Hình ảnh
- Khung cảnh thiên nhiên nơi núi rừng Việt Bắc đẹp với những hình ảnh tiếng suối trong như tiếng hát, “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”.
- Một bức tranh nhiều tầng lớp, đường nét lung linh , huyền ảo.
- Hình ảnh Bác không ngủ được đang thả hồn mình vào vẻ đẹp thiên nhiên cũng như đang canh cánh bên lòng nỗi lo cho vận mệnh dân tộc.
- Hình ảnh phong thái ung dung, lạc quan bởi lòng yêu nước, đức hi sinh của Bác.
c. Nhân vật
d. Thơ văn liên quan đến đề tài mà đề đặt ra ( nếu có), ở đây là thơ văn về Bác Hồ ( nếu có)
2. Gợi ý cách làm bài và dàn bài
a. Mở bài
- Giới thiệu: Hồ Chí Minh (1890 - 1969) là một vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc, đồng thời là nhà thơ xuất sắc của nền văn học Cách mạng.
- Hoàn cảnh sáng tác: Bác đã sáng tác bài thơ Cảnh khuya ở Việt Bắc, trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ chống thực dân Pháp.
- Hoàn cảnh tiếp xúc: Em may mắn được học trong chương trình Ngữ văn lớp 7.
- Chép thơ:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”.
b.Thân bài
* Em yêu thích cảnh trăng ở nơi núi rừng Việt Bắc
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
- Cảnh thiên nhiên nơi núi rừng Việt Bắc thật đẹp. Khung cảnh nơi đây thật nhẹ nhàng, êm đềm: xa xa vẳng lại tiếng suối trong như tiếng hát.
- Tiếng suối được diễn tả sinh động qua lối so sánh đặc sắc. Xưa trong thơ Nguyễn Trãi, tiếng suối được ví như “tiếng đàn cầm bên tai” gợi cung bậc cảm xúc âm điệu trầm lắng man mác buồn. Nay, trong thơ Hồ Chí Minh, tiếng suối vẫn là điệu nhạc khiến cho vần thơ vừa mang màu sắc cổ điển vừa
có nét hiện đại bởi nó vút cao như tiếng hát xa, gợi sự trẻ trung đầy sức sống của một hồn thơ lạc quan phơi phới. Tiếng suối như gần gũi với con người hơn, xua tan cái hoang vắng, lạnh lẽo của núi rừng Việt Bắc.
- Hình ảnh “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” làm cho thiên nhiên càng đáng yêu hơn khi em được thưởng thức vẻ đẹp của một bức tranh nhiều tầng lớp, đường nét đa dạng: có dáng hình vươn toả rộng của vòm cổ thụ, phía trên cao lấp loáng ánh trăng. Bức tranh thật lung linh, huyền ảo. Bức tranh được tạo bởi hai mảng màu sáng tối nhưng vẫn ấm áp, hoà quyện thành những hình khối đa dạng nhiều tầng lớp, lại ấm áp, hoà hợp, quấn quýt bởi cách dùng điệp từ “lồng” tài tình của tác giả.
- Ngòi bút tài hoa và tâm hồn yêu thiên nhiên say đắm của Người dã giúp em cảm nhận sự ngọt ngào của âm thanh tiếng suối chảy, vẻ đẹp nên thơ của rừng Việt Bắc. Thơ Hồ Chí Minh đã khơi gợi trong em bao ước muốn được có mặt ở rừng Việt Bắc để thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên nơi ấy.
* Em xúc động, cảm phục biết bao trước tâm hồn và tấm lòng của Bác “Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
- Cảnh khuya thật đẹp, làm say lòng thi sĩ, khiến Người không ngủ được, thả hồn vào cảnh đẹp thiên nhiên. Điệp ngữ “chưa ngủ” là bản lề mở ra hai phía tâm trạng thống nhất trong con người Hồ Chí Minh: nhà thơ say mê vẻ đẹp thiên nhiên, người chiến sĩ lo lắng cho vận mệnh nước nhà. Người chưa ngủ vì luôn canh cánh bên lòng nỗi lo cho vận mệnh dân tộc. Dù mê cảnh đẹp, Người vẫn không xao nhãng việc nước. Ở Hồ Chí Minh, tâm hồn thi sĩ và chiến sĩ hoà làm một. Em còn khâm phục phong thái ung dung, lạc quan của Bác khi biết bài thơ ra đời vào những ngày đầu gian khổ của kháng chiến chống Pháp.
- Em thấy trân trọng và cảm phục biết bao trước lòng yêu nước, đức hi sinh cao cả của Bác. Tâm hồn và cuộc đời Bác là bài học lớn cho tuổi trẻ Việt Nam (Liên hệ bài thơ Đi thuyền trên sông Đáy và bài Đêm nay Bác không ngủ của Bác).
c. Kết bài
- Bài thơ đọng lại trong em những cảm xúc dạt dào.
- Hồ Chí Minh đã để lại cho đời một bài thơ hay và ý nghĩa, vần thơ khơi gợi tình yêu thiên nhiên, yêu những miền đất xa xôi của đất nước và niềm kính trọng vô hạn vị cha già dân tộc.