Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
nguyenthi Kieutrang
Xem chi tiết
oh hae young
10 tháng 9 2018 lúc 15:13

Hồ Chí Minh là bậc đại trí, đại nhân, đại dũng. Cả cuộc đời Người là tấm gương sáng về sự tận tụy, đức hy sinh vì nước, vì dân, không một chút riêng tư. Sinh thời, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng. Đạo đức Hồ Chí Minh gồm 5 nội dung lớn, đó là những phẩm chất của một lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, rất cao xa nhưng cũng rất đời thường mà mỗi chúng ta ở những mức độ và cấp độ khác nhau đều có thể học tập và noi theo. Một là, tấm gương trọn đời phấn đấu hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và nhân loại. Hai là, tấm gương của ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi khó khăn thử thách để đạt mục đích cách mạng. Ba là, tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Bốn là, tấm gương của một con người nhân ái, vị tha, bao dung, nhân hậu hết mực vì con người. Năm là, tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường. Có thể nói, phong cách Hồ Chí Minh vô cùng phong phú và toàn diện, bao gồm phong cách tư duy, phong cách diễn đạt, phong cách làm việc, phong cách ứng xử, phong cách sinh hoạt… Để học tập phong cách của Người, chúng ta có thể tập trung vào một số đặc trưng nổi bật như: phong cách quần chúng, phong cách khoa học và phong cách nêu gương. 

oh hae young
10 tháng 9 2018 lúc 15:14

Như chúng ta đã biết Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, là danh nhân văn hóa, anh hùng giải phóng dân tộc, vị cha già kính yêu của Tổ quốc. Bác là người được nhận xét trên nhiều phương diện khác nhau, bác là tấm gương sáng về tinh thần tự học, tự vươn lên: trên con đường tìm đường ra đi cứu nước. Bác đã gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng người quan niệm: muốn tìm đường cứu nước thì phải hiểu được đất nước mình đến vì thế người quyết tâm học tiếng của họ. Người luôn giữ cốt cách văn hóa của dân tộc song đồng thời tiếp thu có chọn lọc những tin hoa văn hoa của nhân loại. Nhưng điều kì lạ là tất cả những ảnh hưởng quốc tế đó đã nhào nặn với cái gốc văn hóa dân tộc ko có j lay chuyển được ở Người, để trở thành một nhân các rất VN, một lối sống rất bình dị, rất VN, rất phương đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại.

休 宁 凯
10 tháng 9 2018 lúc 16:38

Hồ Chí Minh là một lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, nhưng lại có phong cách rất giản dị, gần gũi phong cách của các tầng lớp nhân dân lao động. Ở Người có sự kết hợp phong cách của một nhà hiền triết phương Đông (ông đồ xứ Nghệ ) với phong cách lịch lãm của một chính khách phương Tây.
Các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước cũng như nhiều nhà chính trị đã đề cập đến phong cách Hồ Chí Minh ở nhiều góc độ từ tư duy đến hành động : phong cách lãnh đạo, phong cách công tác, phong cách sinh hoạt, phong cách nói, phong cách viết ...
- Đặc điểm nổi bậc của phong cách tư duy Hồ Chí Minh là độc lập, tự chủ, sáng tạo.
- Đặc điểm nổi bật trong phong cách lãnh đạo của Hồ Chí Minh là tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, là thận trọng, chu đáo, sâu sát, tỉ mỉ, là lời nói phải đi đôi với việc làm...
- Đặc điểm nổi bật trong phong cách sinh hoạt của Hồ Chí Minh là sự giản dị, tiết kiệm và sự gần gũi, chan hoà với mọi người tạo nên phong cách giao tiếp riêng, rất lịch sự nhưng chân thành và ấm áp, bên cạnh phong cách đó là tình yêu thiên nhiên, tinh thần lạc quan của một người luôn biết làm chủ. Tình cảm đó chính là nguồn cảm xúc dồi dào để Người sáng tác những bài thơ nói về thiên nhiên, đất nước, con người. Với Hồ Chí Minh, khi hoạt động bí mật trong rừng sâu hay khi hoà bình về thành phố, thiên nhiên, với những “ mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông” luôn gần gũi, gắn bó với cuộc sống của Người ...

Hà Phương
Xem chi tiết
Selina Moon
15 tháng 2 2016 lúc 22:51

1.MB:Lời dẫn dắt

Nêu ý kiến

2.TB

Luận điểm 1:Ca dao gợi vẻ đẹp thiên nhiên

Luận điểm 2:Ca dao gợi vẻ đẹp quê hương

Luận điểm 3:Ca dao gợi vẻ đẹp đất nước

 

Dẫn chứng

-Đất nước VN có vẻ đẹp bình dị với những nét thanh mảnh uyển chuyển:

Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.
Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.

-Vẻ đẹp sơn thủy hữu tình:

Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc nhu tranh họa đồ.
Ai vô xứ Huế thì vô.....

3.KB:khẳng định lời nhận xét đúng đắn về ca dao

song ngu
17 tháng 2 2016 lúc 12:37

đọc ca dao tục ngữ rồi biết liền

Hà Phương
Xem chi tiết
Hoàng Tony
29 tháng 2 2016 lúc 12:09

nh yêu thiên nhiên, trong đó có tình yêu cái đẹp của thiên nhiên, phong cảnh là một nét nổi bật trong tính cách người Việt. Qua ca dao chúng ta thấy đối với người dân quê, cảnh đẹp là cảnh có núi có sông, có sơn có thủy , sơn thủy hài hòa, núi sông uốn lượn mềm mại, cảnh vật luân chuyển, hoạt động, tràn đầy sinh khí và sức sống nhưng cũng đầy tình tứ, gắn bó tương thông với con người. Cảnh đẹp ấy bên cạnh hình dáng uyển chuyển và tươi tắn, hữu tình, còn là tượng trưng của ấm no, hạnh phúc. Trong thẩm mỹ của người dân quê, cái đẹp và cái có ích không loại bỏ nhau mà gắn chặt với nhau.

Rung động trước vẻ đẹp thiên nhiên là một bộ phận trong kinh nghiệm thẩm mỹ của con người. Tìm hiểu những rung động ấy qua ca dao truyền thống cũng là một cách tiếp cận bản sắc văn hóa của người Việt.

Mỗi dân tộc tồn tại đều có diện mạo riêng của mình. Diện mạo ấy thường bộc lộ rõ rệt nhất trong văn hóa, tức là trong cách sinh hoạt, cách ứng xử của con người trong quan hệ với chính mình, với tự nhiên và với xã hội. “Văn hóa là hệ thống ứng xử của con người với thiên nhiên và xã hội, trong hoạt động sinh tồn và phát triển của mình”(Hà Văn Tấn) (1). Trong diện mạo ấy có những nét độc đáo, chỉ riêng dân tộc có, nhưng cũng có những nét giống hoặc gần gũi với các dân tộc khác. Nghiên cứu diện mạo hay bản sắc văn hóa dân tộc trước hết không phải đi tìm cho được nét khác biệt của dân tộc mình với dân tộc khác, vì điều này đòi hỏi sự hiểu biết rất lớn, mà chính là nhận diện cho được chân dung văn hóa của dân tộc mình, xác định cho được những nét nổi bật đã tạo nên diện mạo văn hóa của dân tộc.

Bản sắc văn hóa của dân tộc được cấu thành từ nhiều yếu tố, trong đó có thị hiếu thẩm mỹ, quan niệm về cái đẹp. Sáng tác dân gian là một căn cứ đáng tin cậy, dựa vào đó có thể nhận ra phần nào đặc điểm ý thức thẩm mỹ của người Việt. Tìm hiểu cái đẹp trong ca dao là một cách tiếp cận, một con đường nhằm đến mục tiêu nhận thức đầy đủ hơn tính cách của người Việt và xa hơn là diện mạo của văn hóa dân tộc.

Trong ca dao truyền thống, chúng ta bắt gặp rất nhiều câu có chữ “Đẹp”:

 

Mặn nồng một vẻ thiên nhiên

Đất ta cảnh đẹp càng nhìn càng say. (2)

*        *

*

Gia Lâm có đất Cổ Bi

Muôn đời cảnh đẹp còn ghi rành rành.

*        *

*

Tương truyền đây đất đế kinh

Bao nhiêu cảnh đẹp lừng danh trong ngoài.

*        *

*

Chẳng vui cũng thể hội Thầy

Chẳng đẹp cũng thể Hồ Tây xứ Đoài.

*        *

*

Giao Tự lắm bãi nhiều doi

Lắm con gái đẹp nhiều nơi phải lòng.

*        *

*

Nhất đẹp con gái Bù Nâu

Cứng cỏi Đanh Xá, cơ cầu Quyển Sơn.

*        *

*

Gái Dự Quần đẹp như hoa lí

Trai thanh tân có ý mà theo.

 

Nếu coi chữ “Đẹp” đồng nghĩa với chữ “Xinh” thì số lượng những câu ca dao dạng này còn tăng lên rất lớn:

 

Trúc xinh trúc mọc đầu đình

Em xinh em đứng một mình cũng xinh.

*        *

    *

Nhất quế nhị lan

Nhất xinh, nhất lịch khôn ngoan trăm chiều.

*        *

*

Gặp em thấy khéo miệng cười

Thấy xinh con mắt, thấy tươi má hồng.

 

Có thể nói cái Đẹp là một cảm hứng lớn trong thơ ca trữ tình dân gian người Việt. Cuộc sống lao động cực nhọc, vất vả không làm thui chột cảm xúc thẩm mỹ của người dân quê, không làm mất đi những rung động về vẻ đẹp của cảnh vật và con người bắt gặp hằng ngày. Rung động ấy có khi bột phát thành tiếng kêu vui:

 

Do Xuyên đẹp lắm ai ơi

Có về chỗ đó cho tôi về cùng.

 

Nhưng nhiều khi chỉ thể hiện trong cái nhìn trìu mến, yêu thương với cảnh vật:

 

Làng tôi có lũy tre xanh

Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng.

*        *

*

Nhác trông phong cảnh vui thay

Báo Bồng có phải chốn này hay không.

 

Trong hoàn cảnh đất nước nông nghiệp lạc hậu, thiên tai đe dọa, làm không đủ ăn, đói no thất thường, đời sống lao động một nắng hai sương, giữ cho được cái nhìn yêu đời và những rung động vô tư như vậy quả thật đáng quý. Đó phải chăng cũng là một nét tính cách của người Việt? Phải chăng tình yêu cái đẹp ấy là một trong những cội nguồn của sự mến mộ văn chương của người Việt, nhất là đối với thơ ca, sự mến mộ mà Nguyễn Bỉnh Khiêm thì gọi là “bệnh yêu thơ” không chữa được, còn Ngô Thì Sĩ thì gọi là bệnh “nghiện thơ” và chính điều đó đã làm cho nước ta thành “một nước thơ” như lời Ngô Thì Nhậm nói khi bàn thơ với Phan Huy Ích (3). Phải chăng tình yêu cái đẹp ấy có khi đã dẫn đến việc tạo ra nét “văn chương phù hoa” trong tính cách người Việt, như nhận xét của Đào Duy Anh?(4).

Trong ca dao, những cảm xúc về cái đẹp bắt nguồn trước hết từ bức tranh thiên nhiên và phong cảnh. Có rất nhiều câu chữ “Đẹp” đi liền với “Cảnh”:

 

Vọng Phu cảnh đẹp núi Nhồi

Có người chinh phụ phương trời đăm đăm.

*        *

*

Đường nào vui bằng đường Thượng Tứ

Cảnh mô đẹp bằng núi Ngự, sông Hương.

 

Cảnh ở đây có thể là cảnh thiên nhiên như hòn Vọng Phu, núi Nhồi, như sông Hương núi Ngự, nhưng cũng có thể là cánh đồng, làng quê, bến nước, con đò, tức là cảnh ở đó tự nhiên và con người gắn với nhau thân thiết, gần gũi:

 

Thanh Trì cảnh đẹp người đông

Có cây sáo trúc bên đồng lúa xanh.

*        *

*

Đại Hoàng phong cảnh hữu tình

Của nhiều, đất rộng, gái xinh trai tài.

 

Cảnh hay phong cảnh đi vào ca dao phổ biến nhất trong bốn trường hợp. Thứ nhất là trong những câu mở đầu (5):

Nước sông Gianh vừa trong vừa mát

Truông Quảng Bình nhỏ cát dễ đi.

Dang tay ngứt đọt từ bi

Cho lòng bên nớ bên ni kết nguyền.

hay:

Trăng lên đỉnh núi trăng mờ

Mình yêu ta thực hay là ghét chơi ?

 

Thứ hai là trong những câu kể chuyện tâm tình, ở đó cảnh là môi trường gặp gỡ, là nơi tình tự, chờ đợi, nhớ nhung, nơi diễn ra câu chuyện yêu đương:

 

Nước sông Tô vừa trong vừa mát

Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh

Dừng chèo muốn tỏ tâm tình

Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu

*        *

*

Đêm khuya trăng lệch trời trong

Muốn trao duyên với bạn sợ lòng mẹ cha

Thứ ba, trong những câu ca giới thiệu về quê hương xứ sở:

Ai về đến huyện Đông Anh

Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương…

*        *

*

Dạo xem phong cảnh trời mây

Lô, Đà, Tam Đảo cũng quay đầu về.

 

Thứ tư, cảnh như đối tượng của sự thưởng thức thẩm mỹ:

 

Gió đưa, đưa lướt chòm thông

Gió bay thông cỗi như lồng bóng ngân

Suối trong leo lẻo trên ngàn

   Kìa con chim Phượng soi làm suối trong.

 

hay:

                                               Ai đi qua phố khoa Trường

Dừng chân ngắm cảnh núi rừng xanh xanh

Dòng sông uốn khúc chảy quanh

Trên đường cái lớn bộ hành ngược xuôi.

Rõ ràng trong trường hợp thứ tư này, thiên nhiên và cảnh vật hiện ra không phải như những đối tượng sở chỉ(reference), ám chỉ hay đưa đẩy, mà là đối tượng của sự chiêm ngưỡng thuần túy. Điều này rất đáng chú ý, nó chứng tỏ ca dao truyền thống không chỉ chứa đựng tâm tư và kinh nghiệm sống ủa người dân quê mà còn thể hiện những rung động thẩm mỹ, tình yêu của họ với cái đẹp của thiên nhiên và cảnh vật xung quanh.

Đặc điểm cơ bản của cảm xúc thẩm mỹ là tính vô tư. Đứng trước một cảnh vật người ta có thể có nhiều cảm xúc khác nhau, nhưng chỉ khi nào cảm xúc thoát khỏi những quan tâm về ý nghĩa hay giá trị thực tế của đối tượng và chỉ tập trung vào hình dáng, màu sắc và sự chuyển động của nó thì cảm xúc đó mới được coi là cảm xúc thẩm mỹ. Trong ca dao chúng ta bắt gặp rất nhiều lần những rung động thẩm mỹ như vậy:

Chiều chiều ra đứng gốc cây

Trong chim bay liệng, trông mây ngang trời

Trông xa xa tít xa vời

Những non cùng nước, những đồi cùng cây.

*        *

*

Trời xanh dưới nước cũng xanh

Trên non gió thổi dưới gành sóng xao.

 

Có điều cần lưu ý là trong ca dao như đã nói ở trên, đối tượng gây nên cảm xúc thẩm mỹ không chì là thiên nhiên mà nhiều khi còn là những cảnh vật do con người tạo nên, gắn bó với đời sống của họ:

Mênh mông biển lúa xanh rờn

Tháp cao sừng sững trăng vờn bóng cau

Một vùng phong cảnh trước sau

Bức tranh thiên cổ đượm màu giang san.

*        *

*

 

Thanh Trì cảnh đẹp người đông

Có cây sáo trúc bên đồng lúa xanh.

Điều này hoàn toàn dễ hiểu. Cuộc sống của người nông dân vốn gắn chặt với thiên nhiên, vì vậy vẻ đẹp của thiên nhiên cũng gắn chặt với sinh hoạt của con người. Cái đẹp của phong cảnh có khi là vẻ đẹp của núi, sông, suối khe thuần túy, nhưng nhiều khi là cánh đồng, là bến sông, là con đường người qua lại đông vui. Trong ý thức của người nông dân, cảm xúc thẩm mỹ không phải lúc nào cũng tồn tại độc lập mà thường pha trộn, xen lẫn với những cảm xúc khác, nhất là cảm xúc về cái có ích. Điều này phản ánh rất rõ trong những câu ca dao có chữ “Đẹp” liên quan đến phong cảnh:

Đường về Đông Việt loanh quanh

Đồng xanh làng đẹp như tranh họa đồ.

 

Vẻ đẹp của quê hương ở đây gắn với cánh đồng lúa xanh hứa hẹn một mùa gặt no ấm, tức là gắn với cảm giác về sự sung túc, với cái có ích.

Sự pha trộn giữa cảm xúc thẩm mỹ và cảm giác về cái có lợi bộc lộ đặc biệt rõ rệt trong những câu thơ về con sông ở làng quê. Một mặt người dân quê rất yêu mến vẻ đẹp của dòng sông với hình dáng uốn cong mềm mại của nó:

Làng tôi có lũy tre xanh

Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng…

Hỡi cô thắt bao lưng xanh

Có về Vạn Phúc với anh thì về

Vạn Phúc có cội bờ đề

Có sông uốn khúc có nghề quay tơ.

 

Trong thị hiếu thẩm mỹ của người Việt, đường cong uyển chuyển này in dấu rất đậm nét:

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ…

Sông Tô một dải lượn vòng

Ấy nơi liệt nữ anh hùng giáng sinh

Sông Hồng uốn khúc chảy quanh

Giai nhân tài tử lừng danh trong ngoài.

Mặt khác, vẻ đẹp của con sông có được không chỉ do hình dáng của nó mà còn nhờ chỗ nó có giá trị “tắm mát”.

 

Làng Chợ đẹp lắm ai ơi

Sông sâu tắm mát trên đồi nương ngô

Vùng Bưởi có lịch, có lề

 sông tắm mát có nghề seo can

Cô kia thắt bao lưng xanh

Có về Yên Mĩ với anh thì về

Yên Mĩ anh có nhiều tre

Có sông tắm mát có nghề trồng ngô.

 

Long tự hào của người dân quê về vẻ đẹp của con sông với những đường nét uốn lượn tự nhiên cùng với công dụng tắm mát của nó cũng tương tự như lời khen ngợi cô thôn nữ vừa đẹp người vừa đẹp nết:

 

Thấy em đẹp nói đẹp cười

Đẹp người đẹp nết, lại tươi răng vàng

Nhất đẹp là gái làng Cầu

Khéo ăn khéo mặc, khéo hầu mẹ cha.

 

Thẩm mỹ của người Việt xưa là vậy. Cái đẹp vừa có tính độc lập nhưng cũng vừa gắn với cái Lợi, cái Đức. Con sông uốn khúc cũng đẹp, sông tắm mát cũng đẹp, cả hai đều đẹp. Người có làn da trắng cũng đẹp, người nết na cũng đẹp, cả hai đều được khen là Đẹp. Cái đẹp vừa có cái riêng (như là phẩm chất về hình thức) vừa có cái chung (như tổng hợp của cả hình thức và ý nghĩa) – đó là quan niệm về cái đẹp rất phổ biến trong ca dao truyền thống và có lẽ cũng cả trong dân gian nói chung.

Bức tranh thiên nhiên và phong cảnh làng quê là cội nguồn của những rung động thẩm mỹ trong ca dao. Khảo sát sự lắp đi lắp lại của những cảnh vật trực tiếp khơi dậy những cảm xúc ấy, chúng ta thấy có những điểm đáng chú ý sau đây.

Vẻ đẹp của cảnh núi – sông. Trong ca dao, “nước”, “non”, “sông”, “núi” là những từ có tần số xuất hiện rất cao. Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì nước ta có địa hình phức tạp, nhiều núi, nhiều sông, núi và sông gắn chặt với đời sống con người, nên núi sông đi vào ca dao nhiều cũng không có gì đặc biệt. Đáng chú ý là ở chỗ, trong nhiều câu ca dao, núi – sông thường đi liền với nhau, tạo nên một phong cảnh gợi cảm xúc thẩm mỹ:

 

Sông Tuần một dãy nông sờ

Hàm Rồng một dãy lờ mờ núi cao

Vui thay núi thẳm nông sâu

Thuyền đi hai dãy như sao hôm rằm

*         *

*

Đường mô vui bằng đường Thượng Tứ

Cảnh mô đẹp bằng cảnh núi Ngự, sông Hương

 

Có rất nhiều câu ca dao trong đó núi – sông đi với nhau tạo nên một hình ảnh thống nhất về vẻ đẹp của thiên nhiên:

 

Núi Truồi ai đắp mà cao

Sông Gianh ai bới ai đào mà sâu.

*         *

*

Ai ơi đứng lại mà trông

Kìa núi Tam Đảo, kìa sông Tam Kì.

 

Dường như trong cảm thức dân gian, núi chỉ đẹp khi có sông và sông chỉ đẹp khi đi với núi. Sông với núi kết hợp thành một đôi SƠN THỦY như một nguồn cảm hứng của tình yêu hay của lòng tự hào về quê hương:

 

Sáng trăng dạo cẳng đi chơi

Dạo miền sơn thủy là nơi hữu tình.

*         *

*

Nhìn xem phong cảnh làng ta

Có sơn có thủy bao la hữu tình.

 

Từ cặp đôi núi sông, sơn thủy này đã hình thành nên biểu tượng nước non phổ biến trong ca dao:

 

Non kia ai đắp mà cao

Sông kia ai bới ai đào mà sâu

Nước non là nước non trời

Ai phân được nước ai dời được non.

 

Nước biếc non xanh trở thành dấu hiệu của vẻ đẹp phong cảnh, thành niềm tự hào về nét đẹp của mỗi vùng quê:

 

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.

*         *

*

Đền Sòng thiêng nhất tỉnh Thanh

Đền Hùng Phú Thọ nước biếc non xanh hữu tình.

 

Vì sao trong ca dao cái đẹp của phong cảnh thường gắn với hình tượng “núi sông”, “sơn thủy”, “nước non”, “non xanh nước biếc”? Ở đây có thể có nhiều cách giải thích khác nhau. Trước hết chúng ta thấy trong sâu thẳm ý thức con người, những gì hài hòa thường là cơ sở tạo nên cảm giác đẹp, dễ chịu, ưa thích. Trong tư duy phương Đông, hài hòa lớn nhất là hài hòa giữa Âm và Dương. Từ cặp hài hòa Âm – Dương sẽ đẻ ra vô số cặp hài hòa khác, phổ biến nhất là những cặp hài hòa mang tính cân đối, đối xứng như kiểu: ngày – đêm, trên – dưới, trong – ngoài, lên – xuống, trưa - tối v.v... Trong ca dao có rất nhiều câu thơ thể hiện nét tư duy ấy:

 

Thương em như lá đài bi

Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương.

*         *

*

Một người trên núi non Bồng

Một người dưới biển dốc lòng chờ nhau.

*         *

*

Ngược xuôi lên thác xuống ghềnh

Chim kêu bên nọ, vượn trèo bên kia.

 

Núi - sông sở dĩ trở thành biểu tượng của vẻ đẹp phong cảnh bởi vì nó là cặp hài hòa lớn nhất, rõ rệt nhất, huống chi ngoài điều đó ra, ở nước ta núi - sông vốn gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của con người, mọi công việc làm ăn, đói no, mọi sinh hoạt vui buồn đều gắn với sông, với núi; sông núi rất gần gũi, thân thiết với con người. Tất cả điều đó làm cho sông núi dễ trở thành biểu tượng tiêu biểu của cái đẹp phong cảnh thường được nhắc đến trong ca dao.

Ngoài ra, ở đây cũng còn một lí do nữa. Sở dĩ ca dao tả phong cảnh thường nói đến sơn - thủy, nước - non có lẽ một phần vì theo quan niệm cổ xưa của phương Đông, núi sông là cốt tủy của sự sống, núi không thể thiếu sông, sông cần phải có núi, thiếu một trong hai cái đó, sự sống không tồn tại, như dương thiếu âm, âm không có dương. Hình ảnh sông núi bên nhau bởi vậy trở thành tượng trưng cho vẻ đẹp của vũ trụ, của đất trời. Để giải thích vì sao tranh sơn thủy Trung Hoa thường vẽ cảnh núi sông, danh họa đời Bắc Tống Quách Hy đã viết: “…núi có sông thì sinh động, có cây cỏ thì đẹp tươi, có khói mây thì mỹ lệ. Sông lấy núi làm khuôn mặt, lấy đình, tạ làm vui mắt, lấy người câu cá làm tinh thần. Cho nên sông có núi thì đẹp… Đó là sự bố trí của núi sông”(6). Trong ý nghĩa ấy có thể nói những câu ca dao về thiên nhiên là những bức tranh sơn thủy.

Bên cạnh “sơn thủy”,”nước non khi nói đến phong cảnh, trong ca dao còn thường gặp hai chữ “hữu tình”:

Nhìn xem phong cảnh làng ta

Có sơn, có thủy bao la hữu tình.

*         *

*

Sáng trăng dạo cẳng đi chơi

Dạo miền sơn thủy là nơi hữu tình.

 

Ở đây vẻ đẹp của sơn thủy không chỉ còn là vẻ đẹp của sự hài hòa như bản chất của sự sống mà còn mang một sắc thái khác – sắc thái của tình yêu. Cảnh đẹp là cảnh phải có tình. Tình ở đây trước hết là tình yêu lứa đôi, có sơn có thủy, có mình có ta. Sơn thủy sở dĩ đẹp vì nó tượng trưng cho tình yêu, tượng trưng cho hình ảnh người con trai và người con gái cho sự sống có cặp có đôi:

Nước non, non nước khơi chừng

Ái ân đôi chữ, xin đừng xa nhau.

 

Chính từ cảm hứng về vẻ đẹp của nước non như biểu tượng của tình yêu trong ca dao, Tản Đà đã viết nên bài “Thề non nước” nổi tiếng:

 

Nước non nặng một lời thề

Nước đi đi mãi không về cùng non…

 

Như chúng ta thấy cảnh đẹp là cảnh “hữu tình”. Nhưng “hữu tình” không phải chỉ là đẹp. “Hữu tình” cũng không phải chỉ gắn với tình yêu:

 

Ở đây sơn thủy hữu tình

Có thuyền, có bến, có mình có ta.

*         *

*

Đại Hoàng phong cảnh hữu tình

Của nhiều đất rộng, gái xinh, trai tài.

*         *

*

Kim Liên phong cảnh hữu tình

Dương cơ cũng lịch, địa hình cũng vui.

 

“Hữu tình” còn gắn với hạnh phúc, no ấm, với độ phì nhiêu của đất đai, với cuộc sống tấp nập và với chính sự hiện diện đẹp đẽ của con người. Rõ ràng cả ở đây thẩm mỹ của dân gian rất nhất quán: cái đẹp luôn gắn với cái có ích. Nhưng ở đây cũng cho thấy một nét tính cách nữa của người Việt, đó là coi trọng chữ tình. Cảnh quí không phải chỉ đẹp mà còn phải hữu tình, hay nói cách khác, đẹp là phải hữu tình, khen một phong cảnh “hữu tình” thì không chỉ là khen nó mỹ miều mà còn khen nó vì nó gợi ra những liên tưởng về tình yêu hoặc cuộc sống no ấm. Chữ tình này là một đặc điểm nổi bật trong tính cách người Việt, thể hiện cả trong thị hiếu thẩm mỹ, trong tình yêu, trong cuộc sống và do đó cả trong văn học, trong ca dao:

 

Yêu nhau căn dặn đủ điều

Càng say về nết, càng yêu vì tình

*        *

*

Sống mà chẳng có chữ tình

Thì em cũng quyết liều mình cho xong.

 

Tìm hiểu đặc điểm của thiên nhiên và phong cảnh như ngọn nguồn của cảm xúc về cái đẹp trong ca dao, chúng ta thấy những cảnh “hữu tình” thường là những cảnh động:

Ở đây phong cảnh vui thay

Trên chợ dưới bến lại có gốc cây hữu tình.

*        *

*

Trên trời có đám mây vàng

Bên sông nước chảy có nàng quay tơ.

 

Người dân quê tuy cuộc sống vất vả, làm lụng cực nhọc, hứng chịu đủ hậu quả thiên tai và bất công xã hội, nhưng nhìn chung cái nhìn của họ về cuộc sống vẫn trong sáng, thấm đượm lòng yêu thiên nhiên, yêu đời. Không có cái nhìn ấy không thể ngắm và vui với phong cảnh quê hương. Niềm vui ấy làm cho cảnh vật trở nên sống động, linh hoạt, tràn đầy sinh khí:

 

Trời xanh dưới nước cũng xanh

Trên non gió thổi dưới gành sóng xao.

*       *

*

Vì mây cho núi lên trời

Vì cơn gió thổi hoa cười với trăng…

*    *

                                                                              *

Làng tôi có lũy tre xanh

Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng

Bên bờ vải nhãn hai làng

Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.

 

Thị hiếu thẩm mỹ dân gian bộc lộ ở đây không chỉ thể hiện cái nhìn lạc quan về cuộc sống. Trong gốc rễ sâu xa, nó gắn liền với vũ trụ quan của người dân quê, với ý niệm thô sơ về tự nhiên, xem sự sinh trưởng và vận động của vạn vật là sự sống và bản thân sự sống đã là đẹp. Đối với người dân quê, quả thực “cái đẹp là cuộc sống”.“Trên một mức độ nào đó, cây xào xạc, cành cây đu đưa, lá cây run rẩn cũng làm ta nghĩ đến cuộc sống của con người… Một phong cảnh đẹp là khi nó có hoạt khí”(7). Cái “hoạt khí” toát lên từ cảnh gió thổi, sóng xao, hoa cười, cá lội tung tăng chứng tỏ phong cảnh trong những câu ca dao trên tràn đầy sự sống và do đó theo thểm mỹ của những người dân quê, nó cũng tràn đầy cái đẹp.

Điều này cho phép chúng ta giải thích thêm một đặc điểm nữa của thiên nhiên và phong cảnh trong ca dao – đó là vì sao trong ca dao thường bắt gặp rất nhiều màu xanh:

Làng tôi có lũy tre xanh

Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng.

*      *

*

Cát Chính có cây đa xanh

Có đường cái lớn chạy quanh trong làng.

*      *

*

Dừa xanh trên bến hai hang

Dừa bao nhiêu trái thương chàng bấy nhiêu.

 

Không chỉ “rau xanh” (con cò lội bãi rau xanh/ Đắng cay chịu vậy than rằng cùng ai) mà còn có “sen xanh” (Xuống đầm ngắt lá sen xanh/ Thấy chim loan phượng đỗ cành xoan nâu), “nải chuối xanh” (Lọng vàng che nải chuối xanh/ Tiếc con chim phượng đậu nhành tre khô), rồi đến “đồng xanh” (Đường về Đông Việt loanh quanh/ Đồng xanh làng đẹp như tranh họa đồ), “rừng xanh” (Muốn tắm mát xuống ngọn sông Đào/ Muốn ăn sim chin thì vào rừng xanh), “núi xanh” (Chim  khôn bay lượn ngang trời/ Trong non non biếc, trông người người xa).

Đáng chú ý là không chỉ đồng xanh, rừng xanh, mà cả biển cũng xanh, trời cũng xanh, mây xanh, sông xanh, nước xanh, hồ xanh, đến chim cũng xanh:

Rừng xanh cả biển cũng xanh

Để xem cây quế ngả cành về đâu.

*    *

*

Trên trời có đám mây xanh

Có bông hoa lí, có nhành mẫu đơn.

*    *

*

Sông xanh phẳng lặng nước đầy

Tình chung hai chữ nghĩa này giao hoan.

*     *

*

Ai đi qua đò có biết

Dòng nước trong xanh biết là bao.

*   *

*

Con chim nhạn xanh xếp cánh bay chuyền

Phận em là gái thuyền quyên má đào.

 

Sự đậm đặc của màu xanh trong ca dao rõ ràng là sự phản ánh màu sắc của thiên nhiên nước ta, một vùng đất nhiệt đới có nhiều cây xanh, nhiều rừng, nhiều cánh đồng trồng lúa và có bờ biển dài từ Bắc đến Nam. Nhưng không phải chỉ như vậy. Cây xanh, đồng xanh, rừng xanh luôn luôn là biểu tượng của sự sinh trưởng, tốt tươi, trù phú. Màu xanh ở đây không chỉ là màu của thiên nhiên mà còn là màu của sự sống. Màu xanh trở thành tượng trưng cho vẻ đẹp của tự nhiên tràn đầy sức sống. Màu xanh cũng thể hiện cái nhìn tươi mới, yêu đời của người dân quê đối với phong cảnh thiên nhiên, thể hiện một nét đáng yêu trong thẩm mỹ dân gian. Chính cái màu xanh ấy và cùng với nó là những rung động thẩm mỹ chứa đầy tình yêu sự sống đã đi vào sáng tác của văn chương bác học làm cho câu thơ mang đậm chất thẩm mỹ dân gian:

Cỏ xanh như khói bến Xuân tươi

Lại có mưa Xuân vỗ nước trời.

                                                                 (Nguyễn Trãi)

Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

                                                                (Nguyễn Du)

 

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời.

                                                                        (Hàn Mặc Tử)

 

 

Cái đẹp thiên nhiên là nguồn cảm hứng lớn của ca dao. Nó là cái đẹp đầu tiên, cái đẹp có trước. Người có đẹp thì người cũng chỉ là một bộ phận của tự nhiên: “Người ta hoa đất”. Trong thẩm mỹ dân gian vẻ đẹp của con người và thiên nhiên hòa với nhau, tô điểm cho nhau, nhưng dường như cái đẹp của thiên nhiên vẫn cao hơn, như là thước đo, như là chuẩn mực:

 

Thấy em mắt phượng môi son

Mày ngài da tuyết đào non trên cành.

 

Điều này giải thích vì sao trong ca dao vẻ đẹp của con người thường được ví với cây, với lá, với hoa:

 

 

Em như cái búp hoa hồng

Anh giơ tay muốn bẻ về bồng nâng niu.

*        *

*

Gái Dự Quần đẹp như hoa lí

Trai thanh tân có ý mà theo.

*        *

*

Nhác trông thấy một bóng người

Răng đen nhưng nhức, miệng cười như hoa.

 

 

Vẻ đẹp của thiên nhiên tràn ngập trong ca dao, hiện lên trên phong cảnh, trên hình dáng và khuôn mặt con người. Thái độ đối với cái đẹp của thiên nhiên ấy vừa phản ánh vũ trụ quan thô sơ của người dân quê coi con người và thiên nhiên như là một, vừa nói lên tình yêu của họ đối với thiên nhiên, một tình yêu vừa có ý nghĩa mỹ học sâu sắc, vừa chứa đựng trong nó một nhãn quan về môi trường rất nhân văn và hiện đại.

 

Tìm hiểu cái đẹp của thiên nhiên và phong cảnh trong ca dao chính là tìm hiểu cách con người cảm nhận vẻ đẹp của thế giới xung quanh, tìm hiểu đặc điểm của những rung động thẩm mỹ đã để lại dấu vết trong cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, trong cách đề cao, khen ngợi những cảnh vật được ưa thích. Từ những khảo sát bước đầu trên đây, chúng ta thấy tình yêu thiên nhiên, trong đó có yêu cái đẹp của thiên nhiên, phong cảnh là một nét nổi bật trong tính cách người Việt. Đối với người dân quê, cảnh đẹp là cảnh có sơn có thủy, sông núi hài hòa, núi sông uốn lượng mềm mại, cảnh vật luân chuyển, hoạt động, tràn đầy sinh khí và sức sống (“xanh tươi”) nhưng cũng đầy tình tứ, gắn bó, tương thông với con người (“hữu tình”). Cảnh đẹp ấy bên cạnh hình dáng uyển chuyển và màu sắc tươi tắn còn là hình ảnh của ấm no, hạnh phúc. Trong thẩm mỹ của người dân quê, cái đẹp và cái có ích không loại bỏ nhau mà gắn chặt với nhau.

 

Nghệ thuật là nơi tập trung cao nhất quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực, nhưng cái đẹp không chỉ có trong nghệ thuật. Cái đẹp có cả trong thiên nhiên trong phong cảnh. Rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên là một bộ phận trong kinh nghiệm thẩm mỹ của con người. Tìm hiểu những rung động thẩm mỹ thể hiện qua ca dao truyền thống cũng là một cách tiếp cận bản sắc văn hóa của người Việt và tìm hiểu cái đẹp của nghệ thuật. “Mỹ học tự nhiên sẽ cho chúng ta những cơ sở cần thiết để xây dựng triết học nghệ thuật”

Trân Khơi My
Xem chi tiết
Nguyễn Công Tỉnh
22 tháng 3 2019 lúc 19:26

Đoạn tả cảnh mặt trời mọc trên biển là một bức tranh rất đẹp, được tác giả thể hiện qua những từ ngữ chỉ hình dáng, màu sắc và những hình ảnh so sánh (chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây bụi; mặt trời nhú lên dần dần, tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn; quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng; y như một mâm lễ phẩm)... Qua cách chọn lọc chính xác các từ ngữ, những hình ảnh so sánh trên đây thật rực rỡ, tráng lệ. Với tài năng quan sát và miêu tả tinh tế của tác giả, cảnh mặt trời mọc ở Cô Tô được thể hiện trong một khung cảnh rộng lớn bao la, đồng thời thể hiện niềm giao cảm hân hoan giữa con người và vũ trụ.

☘️✰NaNa✰☘️
22 tháng 3 2019 lúc 19:30

Tác giả đã trao hết tình cảm sâu sắc nhất đối với thiên nhiên. Khi mới sáng sớm thức dậy, tác giả đã nhìn thấy đảo Cô Tô hôm nay là một ngày trong trẻo, sáng sủa. chưa chắc ai cũng đã cảm nhận được điều đó. Tác giả đã quan sát chi tiết mọi vật ở trên đảo. Nào thì cây cối lại thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc, cát lại vàng giòn hơn nữa,...Đặc biệt là cát, tác giả đã dùng phép ẩn dụ để miêu tả nắng, ko chỉ miêu tả mỗi đc nắng mà tác giả còn miêu tả luôn cả nắng. tác giả còn đã miêu tả cả cảnh mặt trời mọc một cách chi tiết và độc đáo. Đối với tác giả, cái gì cũng phải có nghệ thuật. Không chỉ thế, tác giả còn miêu tả cả cánh chim nhạn và con chim hải âu. Tất cả những thứ trên đều là tình cảm của tác giả đối với vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ.

                                                             Thấy hay thì  t i c k cho mk nha

Quỳnh Đinh
Xem chi tiết
Phạm Thị Trâm Anh
30 tháng 10 2016 lúc 20:45

Trong xã hội phong kiến xưa, thân phận của người phụ nữ vô cùng nhỏ bé, bất hạnh, họ là đối tượng bị xã hội phong kiến đối xử bất công, tàn nhẫn. Vì vậy mà đã có rất nhiều những tác phẩm thơ văn của các nhà thơ Trung đại hướng ngòi bút của mình đến những con người này. Một trong số đó không thể không kể đến nhà thơ Hồ Xuân Hương, bà là một nhà văn nữ tài năng, bà viết về những người phụ nữ phong kiến bằng tất cả những tình thương, sự xót xa đồng cảm. Đồng thời bà cũng sẵn sàng phê phán, chỉ chích những bất công của xã hội bằng những lời lẽ sâu cay, thâm thúy nhất, vì đã làm cho cuộc đời những người phụ nữ này đau khổ. Ta có thể thấy, trong tất cả những sáng tác thơ văn của Hồ Xuân Hương, bài thơ “Bánh trôi nước” là một trong số rất hiếm những bài thơ có giọng điệu dịu dàng, nữ tính khi thể hiện những nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Trong bài thơ “Bánh trôi nước”, nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương đã mượn hình ảnh của những chiếc bánh trôi để nói về vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp phẩm chất của những người phụ nữ Việt Nam xưa, bài thơ dùng những hình ảnh giản dị, gần gũi nhất với con người, nhưng thông qua hình ảnh ấy nhà thơ Hồ Xuân Hương đã tạo ra một biểu tượng bất hủ về người phụ nữ Việt Nam. Mở đầu bài thơ, nhà thơ Hồ Xuân Hương đã dẫn ra lời tâm sự của những chiếc bánh trôi nước:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non”

Ở đây cũng gợi ra hình ảnh thực của những chiếc bánh trôi nước, gợi cho người đọc liên tưởng đến những chiếc bánh trôi tròn, trắng muốt được nặn ra bởi bàn tay của những người thợ lành nghề. “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”, hình ảnh những viên bánh trôi vừa “trắng” lại vừa “tròn” không chỉ gợi ra ấn tượng về mặt thị giác với người đọc, đó là hình ảnh tròn trịa, vẹn nguyên của những viên bánh trôi mà còn tạo sự ấn tượng mạnh mẽ về mặt xúc giác, chỉ qua những hình ảnh đẹp đẽ bên ngoài, người đọc cũng có thể tưởng tượng, hình dung ra được cái mùi vị tươi ngon của những viên bánh trôi này.

Nếu câu thơ đầu nhà thơ Hồ Xuân Hương gợi cho người đọc liên tưởng về hình dáng và màu sắc của những chiếc bánh trôi thì câu thơ sau lại gợi mở về quá trình chín của những viên bánh trôi này. Bánh trôi được làm chín bằng cách thả vào nồi nước để luộc, khi thả xuống những viên bánh trôi này sẽ chìm,còn khi chín nó sẽ nở to và nổi trên mặt nước. Cũng căn cứ vào đặc điểm này mà người làm bánh có thể nhận biết được bánh chín hay chưa. Tuy nhiên, mục đích của nhà thơ Hồ Xuân Hương ở đây không phải là những chiếc bánh trôi nhỏ bé ấy mà thông qua hình ảnh của chiếc bánh để thể hiện sự ngưỡng mộ về những người phụ nữ, chính xác hơn là vẻ đẹp hình thức cũng như vẻ đẹp tâm hồn của những người phụ nữ ấy.

Ta có thể thấy ở đây, thông qua hình ảnh trắng, tròn của những viên bánh trôi, nhà thơ Hồ Xuân Hương đã thể hiện thái độ đề cao vẻ đẹp hình thức của những người phụ nữ. Nhưng, vẻ đẹp hình thức ấy tuy được nhà văn ca ngợi, ngưỡng mộ chỉ là bước đệm để nhà văn khẳng định một vẻ đẹp đáng trân trọng hơn của người phụ nữa, đó là vẻ đẹp tâm hồn. “Bảy nổi ba chìm với nước non” có thể hiểu là những biến cố, bất hạnh có thể xảy đến với cuộc đời của những người phụ nữ này. Bảy nổi ba chìm là một cuộc đời đầy trắc trở, gian truân nó khiến cho những người phụ nữ gặp rất nhiều khó khăn, đau khổ với có thể chạm được vào hạnh phúc.

Câu thơ trên như để làm cơ sở cho câu thơ dưới, cũng như vẻ đẹp hình thức chỉ là bước đà để vẻ đẹp tâm hồn có thể tỏa rạng. Bởi không chỉ trải qua những biến cố của cuộc đời mà hạnh phúc của người phụ nữ còn thụ thuộc vào những người đàn ông, những người chồn của họ, nếu họ biết trân trọng thì đó là hạnh phúc, còn không biết trân trọng thì đó thực sự là một bất hạnh đối với người phụ nữ:

“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son”

Câu thơ cũng gợi liên tưởng đến những chiếc bánh trôi, khi nó được những người thợ chú tâm vào làm thì sẽ vẹn tròn viên mãn, và người lại sẽ bị nát, hỏng. Ở trong mối liên hệ với người phụ nữ, ta có thể hiểu số phận của họ hoàn toàn phụ thuộc vào những người đàn ông, vì xã hội phong kiến xưa có quan niệm: “Xuất giá thì tòng phu”,nghĩa là mọi chuyện đều nghe theo người chồng, và khi xưa thì những người phụ nữ lấy chồng đều do sự an bài, sắp xếp của cha mẹ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” nên người chồng của mình như thế nào, có đối xử tốt với mình hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào số phận, vì vậy mà những người phụ nữ chỉ mong mỏi mình gặp được người đàn ông tốt. Tuy cuộc sống, hạnh phúc đều nằm ở người đàn ông, nhưng người phụ nữ ở trong bài thơ vấn kiên quyết giữ tấm lòng thủy chung, son sắc, một lòng một dạ với người chồng của mình, dù có “rắn”, “nát” ra sao đi nữa.

Bài thơ “Bánh trôi nước” đã khắc họa được một hình ảnh thật đẹp về người phụ nữ, với bao phẩm chất tốt đẹp, không chỉ đẹp người mà còn đẹp nết. Có thể thấy những nhà văn trung đại xưa rất ít khi viết về những người phụ nữ, nếu viết thì cúng không với thái độ ca ngợi, đề cao như vậy. Nhà thơ Hồ Xuân Hương đã có những đồng cảm sâu sắc với những người phụ nữ Việt Nam nên từng nét phác họa của bà đều hết sức chân thực, sinh động

bui phuong phuong
Xem chi tiết
Lãnh Hạ Thiên Băng
21 tháng 11 2016 lúc 19:40

Bạn Mai đi từ Nam ra Bắc và quãng đường từ Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh là:

1000 + 724 = 1724 (km)

Đáp số: 1724km

Lãnh Hạ Thiên Băng
21 tháng 11 2016 lúc 19:40

tuoi cua chi 4 nam truoc la

(24+8):2=16 tuoi

tuoi cua chi hien nay la

16+4=20 tuoi

tuoi cua em hien nay la

20-8=12 tuoi

sp;1724km

anandi
21 tháng 11 2016 lúc 19:42

tổng số tuổi hiện nay của hai chị em là :

24+8=32[tuổi ]

tuổi của em là :

[32-8]:2=12[tuổi]

tuổi chị là:

12+8=20[tuổi ]

đáp số : tuổi em : 12

             tuổi chị : 20 

kapu kotepu
Xem chi tiết
Pika Pika
13 tháng 5 2021 lúc 22:40

Tham khảo nhé

Mình cho bài viết

TPO - Dịp kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh (15/5/1941 – 15/5/2021), Bí thư T.Ư Đoàn, Chủ tịch Hội đồng Đội T.Ư Nguyễn Ngọc Lương đã gửi thư chúc mừng các đồng chí cán bộ phụ trách Đội các thời kỳ và các em đội viên, thiếu niên, nhi đồng cả nước, với nhiều tình cảm, niềm tin yêu.

Báo Tiền Phong xin trích đăng nguyên văn Thư chúc mừng của Bí thư T.Ư Đoàn, Chủ tịch Hội đồng Đội T.Ư Nguyễn Ngọc Lương:

Nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Đội TNTP Hồ Chí Minh (15/5/1941 – 15/5/2021), thay mặt Hội đồng Đội T.Ư tôi thân ái gửi lời chúc mừng tốt đẹp nhất tới các đồng chí cán bộ phụ trách Đội các thời kỳ và các em đội viên, thiếu niên, nhi đồng cả nước.

Kỷ niệm 80 năm thành lập Đội là sự kiện có ý nghĩa quan trọng để các thế hệ cán bộ phụ trách Đội và các em đội viên, thiếu nhi cùng nhau ôn lại lịch sử, truyền thống vẻ vang của tổ chức Đội; là dịp để các cấp bộ Đội thể hiện tình cảm tri ân với những đóng góp, cống hiến của đội ngũ cán bộ phụ trách thiếu nhi các thời kỳ. Qua đó, tiếp thêm động lực, niềm tin, quyết tâm để cán bộ phụ trách thiếu nhi hôm nay phấn đấu, thi đua thực hiện tốt hơn nhiệm vụ công tác Đội và phong trào thiếu nhi trong giai đoạn mới.

 

Những thành tích tự hào của tổ chức Đội trong chặng đường 80 năm qua luôn gắn liền với sự quan tâm, chăm lo đặc biệt của Đảng, Bác Hồ, các cấp, các ngành và toàn xã hội, sự dìu dắt của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

Chúng ta trân trọng cảm ơn sự cống hiến, hy sinh thầm lặng của các thế hệ cán bộ phụ trách thiếu nhi và các tổ chức, cá nhân tâm huyết, có lòng nhiệt tình, yêu trẻ đã vượt qua những khó khăn, vất vả trong cuộc sống, vượt qua những thách thức về điều kiện sức khỏe, tuổi tác, dành cả quãng thời gian công tác của mình để thực hiện mục đích cao đẹp là đem lại niềm vui, nụ cười cho các em thơ, đặc biệt là các em thiếu nhi ở miền núi, vùng sâu, vùng xa; vun trồng, chăm sóc cho lớp măng non đất nước ngày một trưởng thành, trở thành những công dân có ích cho xã hội. Chúng ta ghi nhận và biểu dương sự nỗ lực, cố gắng, tinh thần trách nhiệm cao của các tập thể Đội, các em đội viên, thiếu nhi trong các phong trào thi đua, góp phần tô thắm thêm những trang sử vẻ vang của tổ chức Đội.

Trong thời điểm tổ chức Đội và các em đội viên, thiếu nhi cả nước hăng hái thi đua thực hiện những công trình, phần việc chào mừng sinh nhật Đội và chuẩn bị chu đáo cho ngày vui sum họp kỷ niệm 80 năm thành lập Đội, tình hình dịch bệnh COVDID-19 có diễn biến mới phức tạp nên một số hoạt động cấp Trung ương và cơ sở phải tạm hoãn.

Hội đồng Đội Trung ương đã chủ động thông tin tới các cơ sở Đội, đồng thời, cùng các cấp bộ Đội tổ chức các hoạt động thăm hỏi, tri ân sự đóng góp của các thế hệ cán bộ phụ trách thiếu nhi và những tổ chức, cá nhân đã dành nhiều tình cảm, sự quan tâm, hỗ trợ cho công tác Đội và phong trào thiếu nhi thời gian qua. Các hoạt động kỷ niệm 80 năm thành lập Đội được tổ chức vừa đảm bảo tuyệt đối an toàn trong bối cảnh phòng chống dịch bệnh COVID 1-9, vừa lan tỏa được giá trị, ý nghĩa của sự kiện 80 năm ngày thành lập Đội.

Chúng ta cùng hy vọng, với tinh thần quyết tâm cao, hành động quyết liệt của cả hệ thống chính trị, tình hình dịch bệnh COVID-19 sẽ sớm được kiểm soát để các hoạt động dành cho thiếu nhi cả nước sẽ tiếp tục được tổ chức trong thời gian sớm nhất, giúp các em có một môi trường, điều kiện thuận lợi để phát triển toàn diện.

Quảng Cáo  

Nhân dịp này, Hội đồng Đội T.Ư trân trọng cảm ơn tình cảm, sự quan tâm, phối hợp, hỗ trợ quý báu của các ban, bộ, ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức phi chính phủ, các đồng chí cán bộ Đoàn, Đội các thời kỳ, giúp tổ chức Đội có thêm nhiều điều kiện để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng.

Mừng “80 mùa hoa, Đội ta lớn lên cùng đất nước”, xin chúc các đồng chí cán bộ phụ trách Đội thiếu nhi sức khỏe, tiếp tục sáng tạo, dành nhiều tâm huyết, tình cảm để có thêm nhiều đóng góp xây dựng tổ chức Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh ngày cãng vững mạnh!

Chúc các em đội viên, thiếu niên, nhi đồng tiếp tục phấn đấu, xứng đáng là con ngoan, trò giỏi, đội viên tốt, cháu ngoan Bác Hồ!

 
Quoc Tran Anh Le
Xem chi tiết
Kiều Sơn Tùng
15 tháng 9 2023 lúc 0:02

(10/3/1919 – 3/2/2012) là giáo sư, nhà giáo nhân dân, đồng thời cũng là một nhà nghiên cứu đi tiên phong trong việc vận dụng quan điểm Mác-xít trong nghiên cứu.

- Là hiệu trưởng sáng lập Trường Trung học cơ sở – Trung học phổ thông Nguyễn Khuyến, một ngôi trường nổi tiếng ở Thành phố Hồ Chí Minh với tỷ lệ đậu Đại học cao và lượng thủ khoa, á khoa các trường Đại học nhiều nhất nước

- Được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2012.

huy phạm
Xem chi tiết