Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
HP Channel
Xem chi tiết
Nguyen Thi Mai
27 tháng 12 2016 lúc 16:45
*Hoạt động chủ yếu của NAQ từ 1919-1930:
+6-1919 NAQ đã gửi tời hội nghị Véc xai bản yêu sách gồm 8 điểm đòi quyền dân tộc cơ bản của nhân dân An Nam.
+7-1920 NAQ đã đọc được bản sơ thảo Luận cương của lê nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa.
+12-1920 NAQ tham gia đại hội Tua của Đảng Xã Hội Pháp và tham gia sáng lập ĐCS Pháp và tuyên bố đứng hẳn về phía Quốc tế III.
+1921 NAQ sáng lập ra hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa.
+6-1923 NAQ dời Pháp đi Liên Xô.
+1924 NAQ tham dự Đại hội IV của QTCS và tham dự Đại hội quốc tế nông dân.
+11-1924 NAQ về Quảng Châu Trung Quốc tập hợp những người VN yêu nước tại Quảng Châu để chuẩn bị thành lập một tổ chức cách mạng tiên tiến.
+2-1925 NAQ cải tổ Tâm Tâm xã thành tổ chức Cộng Sản đoàn.
+6-1925 NAQ sáng lập ra Hội VNCMTN mà hạt nhân là Cộng Sản Đoàn.
+21-6-1925 Người sáng lập ra tờ báo cách mạng làm cơ quan ngôn luận cho Hội VNCMTN lấy tên là báo Thanh Niên do Người làm chủ bút
+1927 tập hợp những bài giảng của NAQ tại Quảng Châu Trung Quốc đã được xuất bả thành sách lấy tên là Đường Kách Mệnh.
+6-1 đến 8-2-1930 NAQ chủ động triệu tập và chủ trì hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản để thành lập ra ĐCSVN.
+2-1930 NAQ soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
*Vai trò:
+Tìm ra con đường cứu dân cứu nước đúng đắn và giải phóng dân tộc VN khỏi ách áp bức bóc lột của TDf đó là con đường đi theo CNXH (độc lập dân tộc gắn liền với CNXH)
+Truyền bá chủ nghĩa Mác Lê Nin vào trong nước thông qua con đường sách báo và các tổ chức do người sáng lập.
+Thành lập ra Hội VNCMTN tỏ chức tiền thân của ĐCSVN sau này.
+Trực tiếp phát hiện,đào tạo và bồi dưỡng nhiều cán bộ cho cách mạng sau này.
+Chủ động triệu tập hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản sáng lập ra ĐCSVN.
+Đưa ra cương lĩnh đấu tranh đầu tiên cho cách mạng VN.Một cương linhc thể hiện sự đúng đắn sáng tạo khoa học.
*Trong đó vai trò lớn nhất là tìm ra con đường cứu nước và gpdt.Vận động thành lập ĐCSVN.
Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
30 tháng 5 2018 lúc 18:23

Đáp án A

Công lao của Nguyễn Ái Quốc trong giai đoan 1919 – 1930 bao gồm 3 công lao chính:

- Tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, con đường cách mạng vô sản.

- Chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.

- Triệu tập hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.

le hong thuy
Xem chi tiết
Ánh Lemon
Xem chi tiết
Kaneki Ken
13 tháng 12 2016 lúc 19:57

dài quá đấy

Nhân Navi
18 tháng 12 2016 lúc 12:43

kb với mk ko

 

 

Võ Thành Tài
Xem chi tiết
Đỗ Minh Đức
Xem chi tiết
Hà Quang Minh
Xem chi tiết
Thanh An
13 tháng 9 2023 lúc 20:33

Tham khảo!

Việc dời đô của Lý Công Uẩn mang lại ý nghĩa lớn cho vận mệnh đất nước và có tác động tích cực đến cuộc sống của nhân dân. Kinh đô Hoa Lư trước đó không thể phát triển đất nước được vì địa thế không tốt và cuộc sống của nhân dân còn khó khăn. Lý Công Uẩn đã đưa ra những lập luận và dẫn chứng thuyết phục để chứng minh việc dời đô đến Đại La là cần thiết và phù hợp. Đầu tiên, thành Đại La đã trở thành một nơi giao thoa văn hóa của các dân tộc và quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Điều này tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp cận với những giá trị văn hóa mới và phát triển thêm các ngành nghề thủ công truyền thống. Thứ hai, việc dời đô đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý và kiểm soát lãnh thổ, đồng thời mở rộng kinh tế và tăng cường quan hệ ngoại giao với các nước lân cận. Thứ ba, thành Đại La đã trở thành trung tâm giáo dục và văn hóa của đất nước, thu hút được những tài năng và người học giỏi đến đây học tập và nghiên cứu. Như vậy, việc dời đô không chỉ là giải pháp phát triển đất nước mà còn là một sự chăm lo cho cuộc sống của nhân dân. Điều này cho thấy sự tầm nhìn xa trông của Lý Công Uẩn và ông đã để lại một di sản lớn cho đất nước và con người Việt Nam

Vòng Thúy Ngân
Xem chi tiết
Quốc Đạt
12 tháng 12 2016 lúc 10:07

Thời đồng thau, Thủy tổ nước VN có 15 bộ lạc, có bộ lạc sống chủ yếu ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ hàng chục bộ lạc Âu Việt sống chủ yếu ở miền Bắc Việt Bắc, Do nhu cầu trị thủy và giao thương kinh tế, văn hóa nên có xu hướng hợp nhất lại, Trong các bộ lạc đó, Bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả, thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất các Bộ lạc Lạc Việt lại, thành lập nên nhà nước Văn lang, xưng là Hùng Vương, các con cháu của ông sau này đều nối truyền danh hiệu đó.
Thời gian tồn tại của Nhà nước Văn lang khoảng từ đầu thiên niên kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ III trước công nguyên
Sau này năm 211 trước công nguyên Tần Thủy Hoàng cho Quân đi xâm lược, thủ lĩnh lúc này của liên minh các bộ lạc là Thục Phán được cử đi đánh giặcn năm 208 TCN quân Tần rút lui, với uy thế của mình, Thcj Phán xưng Vương gọi là An Dương vương, liên kết các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt lại thành nước Âu Lạc (Tên ghép của Lạc Việt và Âu Việt). Sau này năm 179 sau CN Triệu Đà là vua của Nam Việt đánh Thục Phán, Âu lạc bị đô hộ suốt 7 thế kỷ sau đó, bị chia ra thành nhiều Châu, Quận nhưng cái tên Âu Lạc Vẫn còn mãi...
Ăn nói cẩn thận con người có gốc rễ, được kiểm chứng bởi các nhà sử học trong và ngoài nước với các chứng tích di chỉ, thư tịch cổ của VN và các đời vua bên TQ, Thanh Sử, Hán sử có ghi... Bạn không nên nói là chưa đẻ nên không biết vì như thế là phủ nhận hoàn toàn, điều tối kỵ của con người- nhất là nguồn gốc của mình. Nếu bạn nói thế, có người nói thủy tổ bạn là con bò vì lúc đó bạn chưa đẻ nên không biết bạn có chịu không? do vậy cần cẩn trọng. Quá lời xin đừng buồn.

Dương Thị Kim Ngân
Xem chi tiết
Sáng
11 tháng 12 2016 lúc 19:37

Thời đồng thau, Thủy tổ nước VN có 15 bộ lạc, có bộ lạc sống chủ yếu ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ hàng chục bộ lạc Âu Việt sống chủ yếu ở miền Bắc Việt Bắc, Do nhu cầu trị thủy và giao thương kinh tế, văn hóa nên có xu hướng hợp nhất lại, Trong các bộ lạc đó, Bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả, thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất các Bộ lạc Lạc Việt lại, thành lập nên nhà nước Văn lang, xưng là Hùng Vương, các con cháu của ông sau này đều nối truyền danh hiệu đó.
Thời gian tồn tại của Nhà nước Văn lang khoảng từ đầu thiên niên kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ III trước công nguyên
Sau này năm 211 trước công nguyên Tần Thủy Hoàng cho Quân đi xâm lược, thủ lĩnh lúc này của liên minh các bộ lạc là Thục Phán được cử đi đánh giặcn năm 208 TCN quân Tần rút lui, với uy thế của mình, Thcj Phán xưng Vương gọi là An Dương vương, liên kết các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt lại thành nước Âu Lạc (Tên ghép của Lạc Việt và Âu Việt). Sau này năm 179 sau CN Triệu Đà là vua của Nam Việt đánh Thục Phán, Âu lạc bị đô hộ suốt 7 thế kỷ sau đó, bị chia ra thành nhiều Châu, Quận nhưng cái tên Âu Lạc Vẫn còn mãi...

Nguyễn Trần Thành Đạt
11 tháng 12 2016 lúc 23:45

Công lao của vua hùng:
Mẹ tiên Âu bố rồng Lạc - khởi nguyên thần thoại dân tộc Việt Nam, nhưng Âu Việt miền đồi gò thung lũng kết hợp với Lạc Việt miền sông núi biển cả để trở thành Âu - Lạc và miền Đất Tổ, xuất phát điểm địa lý của sự hình thành Nhà nước của người Việt cổ là một hiện thực. Chuyện Hùng Vương kén rể, chuyện tình của Sơn Tinh tức thần núi Tản, của Thủy Tinh thần nước với Mỵ Nương công chúa là huyền thoại ... cũng là huyền thoại khi tổ tiên ta nhìn những ngọn đồi trung du thành 99 con voi về chầu Đất Tổ ...
Nhưng sự nghiệp dựng nước của các Vua Hùng, sự nghiệp chống ngoại xâm giữ nước của người Việt cổ lại là sự thật lịch sử rõ ràng. Hiện thực đó hiển hiện qua hàng trăm di chỉ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt sớm được phát hiện và khai quật bao năm qua trên miền Đất Tổ. Và, những chiếc cuốc đá, rìu sắt, lưỡi cày, liềm hái đồng thau ... cùng bao vòng tay hạt chuỗi, khuyên tai đá-ngọc đứng xếp hàng trong nhà Bảo tàng Đất Tổ-Vua Hùng là những vật minh chứng cho cả một chặng đường dài lịch sử vài thiên niên kỷ trước công nguyên. Công việc của các nhà khoa học là "giải ảo hiện thực" - như cách nói của Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng - để phục chế lại sự thực lịch sử khách quan thời đại các Vua Hùng. Còn dân gian xưa thì nội tâm hoá mọi nghiệm sinh lịch sử để qua cái nhìn huyền thoại-huyền tích mà xuất lộ những câu chuyện truyền khẩu để đời.
Trong các truyền thuyết của người Việt có rất nhiều truyền thuyết liên quan đến thời đại của các Vua Hùng được truyền lại trong dân gian đến nay; đó là chuyện Vua Hùng kén rể, chuyện nàng công chúa Tiên Dung với chàng trai nghèo Chử Đồng Tử, là sự tích bánh chưng, bánh dày gắn với tích Hùng Vương chọn người truyền ngôi báu...Nhưng cùng với những truyền thuyết đó, là những trang sử được ghi lại: "Thời Trang Vương nhà Chu năm 692-682 TCN, ở bộ Gia Ninh có dị nhân dùng yêu thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, truyền 18 đời đều gọi là Hùng Vương." (Đại Việt sử lược). Trong Đại Nam nhất thống chí - Quốc sử quán triều Nguyễn cũng thấy chép rằng, Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu, nay là huyện Bạch Hạc.
Từ ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt coi trọng việc đầu tư cho các công trình nghiên cứu khảo cổ học để tìm ra những bằng chứng đích thực của buổi đầu dựng nước. Nhiều công trình đã chứng minh được rằng, từ ngàn năm trước, dải đất từ Việt Trì đến Đền Hùng và một số địa danh phụ cận là đất phát tích của người Việt Nam. Nơi đây đã ra đời một kinh đô đầu tiên, Nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và Đền Hùng là nơi thờ tự 18 đời Vua Hùng theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Mỗi địa danh trên đất Phú Thọ, đặc biệt là dải đất từ Việt Trì đến Đền Hùng đều có tên gọi gắn liền với một tích cổ thời Hùng Vương. Tích Vua Hùng chọn đất đóng đô ở Bạch Hạc, nơi hội tụ của ba con sông cửa ngõ giao lưu đường thuỷ. Mùa xuân hằng năm, trên bến sông này lại có hội bơi chải diễn lại tích "Thổ lệnh Thạch Khanh" từ thời nhà Hùng. Tích Vua Hùng dạy dân cấy lúa được thể hiện lại ở Minh Nông. Đất Dữu Lâu có vườn trầu của nhà Vua; đất Hương Trầm gắn liền với tích về một cánh đồng, nơi hoàng tử Lang Liêu trông lúa thơm làm bánh chưng, bánh dầy...
Có thể thấy, khi đặt các tích cổ và các công trình khảo cổ khoa học về Đền Hùng và những vùng đất lân cận bên cạnh nhau, thêm một lần chúng ta có cơ sở để công nhận Đền Hùng là Đất tổ của người Việt. Và cũng có thể nhận định, Đền Hùng là một khu di tích chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc về cội nguồn dân tộc Việt ta. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên bền vững và sống mãi trong tâm thức của 54 đồng bào các dân tộc Việt Nam, truyền từ đời này sang đời khác, qua các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê... đã làm nên sức mạnh phi thường của cả dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Thời nhà Lê đã phong cho làng Cổ Tích, xã Hy Cương làm "con trưởng tạo lệ", cho miễn các thứ thuế, chỉ đầu tư trông nom thờ cúng Hùng Vương vào ngày 10-3 âm lịch hằng năm. Chính cái hay, cái đẹp khi hành hương về Đất Tổ ngày 10-3 lịch trăng, khi trở về "cội nguồn dân tộc" là như vậy. Ta đi thăm Đền Thượng, Đền Trung, Đền Hạ … ta ngắm nhìn vùng ngã ba sông hoành tráng, những núi đồi như bát úp ở trung du...Ta tìm cái thực mà cứ ngỡ như trong mơ. Ta đặt chân trên tảng nền Đất Tổ nhưng tâm ta lại được hoà trong khói hương huyền thoại. Và cũng vẫn còn đó âm vang lời Bác Hồ kính yêu dặn đoàn quân chiến thắng về tiếp quản Thủ đô tại đền Hùng ngày 19-9-1954: "Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước".

Vòng Thúy Ngân
12 tháng 12 2016 lúc 9:30

Công lao của vua Hùng là:

_Sáng lập ra nhà nước Văn Lang _ nhà nước quân chủ đầu tiên ở nước ta
_dạy dân trồng lúa nước
_đánh giặc Ân báo vệ tổ quốc
_mở mang bờ cõi