Những câu hỏi liên quan
ĐứcTM NgôTM
Xem chi tiết
pham huu huy
Xem chi tiết
Nguyễn Trần Thành Đạt
8 tháng 12 2016 lúc 22:49

Câu hỏi của Nguyễn Anh Thư - Công nghệ lớp 7 | Học trực tuyến

Bình luận (0)
Nguyễn Trọng Phúc
Xem chi tiết
Hà Hương Linh
Xem chi tiết
Xem chi tiết
Nguyễn Trần Thành Đạt
20 tháng 10 2016 lúc 21:58

Rừng là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá của nhân loại. Rừng giúp cân bằng hệ sinh thái, nhờ có rừng mà một số loài động vật, thực vật còn có thể tồn tại đến ngày nay. Rừng cũng đóng góp một phần không nhỏ trong việc phát triển ngành du lịch. Rừng có nhiều lợi ích như thế, nhưng.... hiện nay rừng như thế nào? Hiện nay, diện tích rừng ngày càng giảm do khai thác một cách bừa bãi. Không những thế lượng lâm sản ngày càng tăng, song một số loài cây lớn đã tuyệt chủng. Khi diện tích rừng giảm đồng nghĩa với việc đất bị trôi, bạc màu, đất giữ nước kém, đất thoái hóa trầm trọng. Vì thế chúng ta cần làm gì? Để khắc phục điều này chúng ta cần phải khôi phục rừng bằng nhiều biện pháo khác nhau: trồng rừng, hạn chế khai thác rừng một cách bừa bãi,...

Bình luận (5)
Trần Gia Hân
20 tháng 10 2016 lúc 22:11

Hậu quả của việc tàn phá rừng

+làm cho đất bị bạc màu, tăng khả năng xói mòn đất làm đất dễ bị rửa trôi.

+gây ô nhiễm môi trường, biến đổi khì hậu

+làm mất nơi cư trú của nhiều loài động vật.

vai trò hiện chưa kể hết được!

Bình luận (0)
Nguyễn Thế Phong
20 tháng 10 2016 lúc 20:27

đây là link trả lời nhe.

/hoi-dap/question/99896.html

Bình luận (0)
Nguyễn Trọng Phúc
Xem chi tiết
Lê Nữ Khánh Huyền
Xem chi tiết
Đặng Thị Cẩm Tú
14 tháng 10 2016 lúc 16:29

Rừng là vai trò quan trọng trong cuộc sống chúng ta ngày nay. Biết giữ gìn rừng là biết giữ gìn chính bản thân ta. Rừng là gì? Rừng là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước, là một bộ phận quan trọng của môi trường sinh thái, có giá trị to lớn đối với đời sống và sản xuất của xã hội. Nếu chúng ta tàn phá rừng, thì sẽ gây ra hậu quả cực kì nghiêm trọng. Chặt phá rừng thì bão cát sẽ tràn tới, luc lụt kéo đến, phá tan và cuốn trôi đi nhà cửa, con người, động vật, là do ai? Do chính tay con người tạo dựng. Nếu không có rừng chúng ta có lẽ đã chết vì không có khí O2 để hô hấp. Vì những lí do trên nên chúng ta cần phải xây dựng nền tảng rừng hợp lí. Trồng rừng đầu nguồn để chống những cơn lũ quét tràn xuống, tuần tra, bảo vệ rừng, trồng cây ở đường phố, khu dân cư  giúp con người hô hấp đều đặn,  trồng rừng ở ven biển sẽ ngăn chặn nước biển dâng, ngăn chặn ngập mặn. Tất cả đều phải phủ một màu xanh tươi của rừng. Giáo dục ý thức bảo vệ rừng. Rừng là lá phổi xanh của nhân loại.

Bình luận (4)
Phạm Thị Thanh Trúc
24 tháng 10 2016 lúc 19:29

Rừng là nguồn tài nguyên quý giá mà mẹ thiên nhiên đã ban tặng cho loài người chúng ta.Tuy nhiên,rừng cũng là một nguồn tài nguyên có hạn nên loài người phải biết khai thác một cách hợp lí.Như chúng ta đã biết,thành phần chính của rừng là cây xanh,mà cây xanh lại có tác dụng rất lớn đối với môi trường sống của con người.Không chỉ đơn thuần là tạo bóng mát,làm đẹp cho phố phường mà hơn hết cây xanh còn làm điều hòa khí hậu,giúp con người chống lại được những thiên tai,thảm họa.Không những thế rừng còn là nơi du lịch sinh thái vô cùng lí tưởng bởi vẻ đẹp hoang sơ,mộc mạc mà khó nơi nào có được.

Hiện nay,nhiều người chỉ vì lợi ích của bản thân mà không ngưng tay khai thác rừng một cách bừa bãi mặc dù hằng ngày,hằng giờ trên các phương tiện thông tin đại chúng vẫn luôn luôn tuyên truyền rộng rãi về ý thức bảo vệ môi trường để giúp môi trường xanh-sạch-đẹp.Họ chỉ biết khai thác mà không hề nghĩ đến việc mà họ làm đang khiên mẹ thiên nhiên đâu đớn và khổ sở biết nhường nào.Hằng ngày,mẹ luôn gào khóc và van xin sự giúp đỡ từ con người chúng ta trong vô vọng.Con người là nguyên nhân chính khiên môi trường từng ngày cành suy giảm như ngày hôm nay.Tại sao thay vào hành động vô ý thức kia không phải là hành động mà tất cả mọi người đều cảm thấy thán phục:đó chính là rồng rừng.trồng rừng để những tán cây xanh ngày càng vươn cao và to lớn hơn để bù đắp phần nào những mất mác và đau đớn mà "rừng"đang chịu.Còn riêng về phần chính bản thân mình-chúng ta-những học sinh hãy cố gắng hết sức để tuyên truyền cho mọi người dân địa phương mình cách khai thác rừng hợp lí,và cả cách để cùng chung tay với đồng bào cả nước bảo vệ lá phổi của Trái Đất.

Mk ms vừa nghĩ ra mong các bn hk chê.HÌ HÌ

leuleu

 

 

 

 

 

 

 

 

Bình luận (6)
songuku
7 tháng 12 2016 lúc 10:22

hay quáyeu

Bình luận (2)
Nguyễn Trọng Phúc
Xem chi tiết
Souta
13 tháng 12 2016 lúc 12:38

Rừng là nguồn tài nguyên quý giá, có ý nghĩa to lớn đốivới môi trường cũng như cuộc sống của con người. Đó là một thành phần của môi trường địa lí tham gia vào vòng tuần hoàn vật chất sinh địa-hóa toàn hành tinh, là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá và đa diện, bảo đảm nhu cầu nhiều mặt của con người. Ngày nay, do dân số tăng nhanh, nhu cầu về tài nguyên ngày càng lớn nên đã gây sức ép đối với các loại tài ngyên nói chung và tài nguyên rừng nói riêng. Tài nguyên rừng đã được huy động ngày càng nhiều nhằm đáp ứng nhu cầu tăng nhanh về lương thực, thực phẩm, gỗ củi và các nguyên liệu cho sự phát triển kinh tế xã hội của con người. Vì vậy, vấn đề suy giảm tài nguyên rừng đã và đang trở thành vấn đề chung, cấp bách của toàn thế giới đặc biệt là ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Việt Nam là đất nước nhiều đồi núi, dân số lại đông và tăng nhanh nên tài nguyên rừng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên trong những năm gần đây do việc khai thác quá mức của con người cùng với thiên tai cháy rừng, tài nguyên rừng của Việt Nam đã bị suy giảm đến mức báo động cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng đang là vấn đề đặt ra hàng đầu đối với nước ta hiện nay. 1. Vai trò của rừng. Rừng là nguồn tài nguyên quý giá có vai trò đặc biệt quan trọng đối với môi trường cũng như phát triển kinh tế xã hội. - Đối với môi trường: + Rừng góp phần quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, đảm bảo cân bằng sinh thái, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai. + Ngăn chặn xói mòn đất, bảo vệ mực nước ngầm. + Là nơi lưu giữ các nguồn gien động thực vật quý hiếm. - Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: + Rừng là nguồn cung cấp gỗ và lâm sản phục vụ cho nhu cầu đời sống và sản xuất. + Cung cấp các mặt hang lâm sản có giá trị xuất khẩu góp phần thu ngoại tệ phục vụ qua trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. + Cung cấp các dược liệu quý có tác dụng chữa bệnh, nâng cao sức khỏe cho con người + Đối với các vùng núi nước ta, rừng còn là nguồn sống chủ yếu của các đồng bào dân tộc ít người. 2. Hiện trạng suy giảm tài nguyên rừng Việt Nam. Việt Nam là đất nước nhiều đồi núi, diện tích đồi núi chiếm tới ¾ diện tích lãnh thổ nên phần lớn diện tích lãnh thổ được rừng che phủ. Diện tích đất lâm nghiệp nước ta năm 2005 là 14,43 triệu ha chiếm 43,6% diện tích đất tự nhiên. Đất nước Việt Nam trải dài trên nhiều vĩ tuyến và đai cao, với địa hình rất đa dạng, hơn 2/3 lãnh thổ là đồi núi, lại có khí hậu thay đổi từ nhiệt đới ẩm phía Nam, đến á nhiệt đới ở vùng cao phía Bắc, đã tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái tự nhiên và sự phong phú về các loài sinh vật. Những hệ sinh thái đó bao gồm nhiều loại rừng như rừng cây lá rộng thường xanh, rừng nửa rụng lá, rừng rụng lá, rừng trên núi đá vôi, rừng hỗn giao lá rộng và lá kim, rừng lá kim, rừng tre nứa, rừng ngập mặn, rừng tràm, rừng ngập nước ngọt,... Tuy nhiên trong những năm qua, do tác động của nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan nên rừng của nước ta đã bị suy giảm nghiêm trọng cả về số lượng và chất lượng rừng. 2.1 Về trữ lượng ( diện tích ) rừng. Sự suy giảm tài nguyên rừng biểu hiện trước hết và rõ nét thông qua việc suy giảm diện tích. Trước đây phần lớn đất nước Việt Nam có rừng che phủ, nhưng chỉ khoảng một thế kỷ qua, rừng bị suy thoái nặng nề. Trong thời kỳ Pháp thuộc, nhiều vùng đất rộng lớn ở phía Nam đã bị khai phá để trồng cà phê, cao su, chè và một số cây công nghiệp khác. Vào khoảng giữa thế kỷ XX, hầu như các khu rừng thuộc châu thổ sông Hồng, một phần lớn châu thổ sông Cửu Long cùng với các khu rừng trên đất thấp ven biển đã bị khai phá để trồng trọt và xây dựng xóm làng. Vào lúc này độ che phủ của rừng còn lại 43% diện tích đất tự nhiên. Ba mươi năm chiến tranh tiếp theo là giai đoạn mà rừng Việt Nam bị thu hẹp lại khá nhanh. Hơn 80 triệu lít chất diệt cỏ cùng 13 triệu tấn bom đạn với hơn 25 triệu hố bom đạn, bom cháy cùng với đội xe ủi đất khổng lồ đã tiêu hủy hơn 2 triệu ha rừng nhiệt đới các loại. Bảng 1: Sự biến động diện tích rừng Việt Nam giai đoạn 1943-2009 ( triệu ha ) Năm Loại rừng 1945 1976 1985 1995 2005 2009 Tổng diện tích 14.3 11.2 9.9 9.3 12.7 13.2 Rừng tự nhiên 14.3 11.1 9.3 8.3 10.2 10.3 Rừng trồng 0 0.1 0.6 1.0 2.5 2.9 Độ che phủ (%) 43.0 33.8 30.0 28.2 38 39.1 ( Nguồn: gso.gov) Qua bảng số liệu 1 ta có thể thấy, từ năm 1945 đến năm 1995 tổng diện tích rừng của nước ta liên tục giảm xuống ( giảm 5 triệu ha trong vòng 50 năm, trung bình mỗi năm giảm 0.1 triệu ha), trong đó đặc biệt giảm nhanh ở giai đoạn 1976 – 1985, trung bình mỗi năm mất khoảng 0.14 triệu ha. Nguyên nhân chính làm mất rừng trong giai đoạn này là do dân số tăng nhanh, nạn đốt nương làm rẫy tràn lan, quá trình khai hoang lấy đất trồng các cây công nghiệp như cà phê, chè, cao su…và khai thác gỗ xuất khẩu. Từ những năm 1990 – 1995, do công tác trồng rừng được đẩy mạnh đã phần nào làm cho diện tích rừng tăng lên, từ 9.3 triệu ha lên 13.2 triệu ha ( trung bình mỗi năm tăng 0.21 triệu ha). Tuy nhiên, nhìn chung diện tích rừng vẫn chưa thể phục hồi. + Trong tổng diện tích rừng thì rừng tự nhiên có xu hướng giảm đi rõ rệt và đang dần bị thay thế bởi rừng trồng. Diện tích rừng tự nhiên liên tục giảm từ năm 1945 đến năm 1995 đặc biệt giảm nhanh trong giai đoạn 1976-1995 (giảm từ 11.1 triệu ha xuống còn 8.3 triệu ha tức là giảm 2.8 triệu ha trong vòng 19 năm, trung bình mỗi năm giảm 0.11 triệu ha). Đặc biệt nghiêm trọng ở một số vùng, như Tây Nguyên mất 440.000ha, vùng Đông Nam Bộ mất 308.000ha, vùng Bắc Khu IV cũ mất 243.000ha, vùng Bắc Bộ mất 242.500ha. Nguyên nhân là do sau thời kỳ chiến tranh, dân địa phương tranh thủ chặt gỗ làm nhà và lấy đất trồng trọt. Tình trạng đó vẫn còn đang tiếp diễn cho đến ngày nay. Tuy nhiên từ năm 1995 đến nay diện tích rừng tự nhiên đang có xu hướng tăng trở lại, năm 1995 là 8.3 triệu ha đến năm 2009 đạt 10.3 triệu ha ( trung bình mỗi năm tăng 0.5 triệu ha). Điều này được lí giải là chủ yếu do sự phát triển của rừng tái sinh và rừng tre nứa mặc dù trong một thời gian ngắn các loại rừng đó chưa thể thành rừng tự nhiên tốt được. Trong 7 kiểu rừng tự nhiên chủ yếu ở nước ta thì trừ rừng lá rộng rụng lá và rừng hỗn giao giữa gỗ và tre nứa tất cả các kiểu rừng còn lại đều giảm về diện tích. Trong số này, rừng lá rộng thường xanh và nửa rụng lá là loại rừng bị giảm nhiều nhất mà tiêu biểu là Đăc Lắc và Gia Lai ở Tây Nguyên. Cùng với đó, diện tích rừng tre nứa cũng giảm tương đối nhanh nhất là ở Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và Đông Bắc do việc đốt rừng làm rẫy và phá rừng để lấy đất trồng cây công nghiệp. Diện tích rừng ngập mặn và rừng chua phèn cũng giảm mạnh do phá rừng để nuôi trồng thủy sản đặc biệt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. + Trong những năm qua diện tích rừng trồng có xu hướng tăng lên rõ rệt đặc biệt là từ năm 1995 trở lại đây. Năm 1995, diện tích rừng trồng nước ta mới có 1 triệu ha thì đến năm 2009 đã tăng lên 2.9 triệu ha, trung bình mỗi năm tăng 0.1 triệu ha. Sự gia tăng diện tích rừng trồng gắn liền với các chính sách khuyến lâm đặc biệt là việc giao đất giao rừng cho các hộ nông dân. Ngoài ra còn có các chương trình trồng rừng được sự hỗ trợ về vốn và kĩ thuật nhà nước của các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, trên thực tế diện tích rừng trồng vẫn chưa bù đắp lại được số diện tích rừng của nước ta đã bị mất đi trong những năm qua, đặc biệt là về chất lượng rừng. Cùng với sự biến động của diện tích rừng, độ che phủ rừng cũng biến động thất thường qua các năm. Từ năm 1945 đến 1995 diện tích rừng liên tục giảm kéo theo sự suy giảm của độ che phủ rừng từ 43% xuống còn 28.2% (giảm 14.8%). Từ năm 1995 trở lại đây do diện tích rừng trồng tăng lên nên tỉ lệ che phủ rừng cũng tăng đạt 39,1% năm 2009. Tuy nhiên, vẫn thấp hơn rất nhiều so với mức an toàn sinh thái (45%). Bảng 2: Bình quân diện tích rừng theo đầu người của Việt Nam giai đoạn 1943-2009 (Đơn vị: ha/người) Năm 1943 1976 1985 1995 1999 2005 2009 Ha/người 0.63 0.23 0.17 0.13 0.14 0.15 0.15 Bình quân diện tích rừng theo đầu người của nước ta vào loại thấp nhất thế giới. Giai đoạn 1943-1995 diện tích rừng theo đầu người liên tục giảm mạnh từ 0.63 ha/người xuống còn 0.13 ha/người tức giảm tới 0.5 ha/người. Từ năm 1995 đến nay tuy có tăng lên nhưng không đáng kể. Năm 2009 chỉ số này là 0.15 ha/người thấp hơn nhiều so với trung bình của thế giới ( Diện tích rừng bình quân đầu người của thế giới là 0.93 ha/người). Nguyên nhân là dân số nước ta tăng nhanh trong khi diện tích rừng trồng bổ sung hàng năm là không đáng kể. Bảng 3: Diện tích rừng bị chặt phá phân theo các vùng giai đoạn 1995-2009 ( Đơn vị: ha ) Năm 1995 1998 2001 2004 2007 Sơ bộ 2009 Cả nước 18914.0 7503.4 2819.7 2254.0 1348.1 1563.0 Đồng bằng sông Hồng 115.0 517.5 505.0 393.7 3.2 8.5 Trung du miền núi phía Bắc 2199.0 2116.1 218.2 208.2 229.0 309.3 Duyên hải miền Trung 2487.0 713.4 199.7 268.6 124.6 84.4 Tây Nguyên 10134.0 3092.7 1305.2 457.2 481.3 714.8 Đông Nam Bộ 1387.0 751.0 481.5 886.7 483.9 428.0 Đồng bằng sông Cửu Long 2592.0 312.7 110.1 39.6 26.1 18.0 ( Nguồn: gso.gov ) Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự suy giảm diện tích rừng là do nạn chặt phá rừng bừa bãi của người dân. Năm 1995 cả nước mất tới 18 914 ha, từ đó đến nay tuy đã giảm nhưng trung bình mỗi năm diện tích rừng bị chặt phá vẫn lên tới 1 239.3 ha. Trong phạm vi cả nước thì Tây Nguyên là vùng có diện tích rừng bị chặt phá lớn nhất cả nước, năm 1995 là 10134 ha đến năm 2009 có giảm mạnh nhưng vẫn bị mất tới 714.8 ha và trung bình mỗi năm diện tích rừng bị chặt phá của vùng là 672.8 ha. Diện tích rừng bị chặt phá của vùng lớn nhất trong cả nước là do tập quán đốt nương làm rẫy của các dân tộc thiểu số, mặt khác do chính sách phá rừng để lấy đất trồng các cây công nghiệp dài ngày và ngắn ngày như: cao cu, hồ tiêu, cà phê…( đây là vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn nhất trong cả nước). Đồng bằng sông Hồng là vùng có diện tích rừng bị chặt phá thấp nhất cả nước (năm 2009 diện tích bị chặt phá là 8.5 ha) do diện tích rừng ở khu vực này ít và chính sách bảo vệ rừng được thực hiện nghiêm ngặt hơn. Đồng bằng sông Cửu Long thời gian đầu tức năm 1995 diện tích rừng bị chặt phá lớn 2595 ha chủ yếu là do phá rừng ngập mặn để nuôi trồng thủy sản, giai đoạn sau diện tích rừng bị chặt phá đã giảm đáng kể chỉ còn 18 ha năm 2009. Bảng 4: Diện tích rừng bị cháy phân theo các vùng giai đoạn 1995-2009 ( Đơn vị: ha ) Năm 1995 1998 2001 2004 2007 Sơ bộ 2009 Cả nước 7457.0 19943.3 1523.4 4787.0 5136.4 1658.0 Đồng bằng sông Hồng 0.0 170.1 48.5 460.1 979.2 216.6 Trung du và miền núi phía Bắc 679.0 5051.0 270.0 1590.2 3059.0 1124.2 Duyên hải miền Trung 1842.0 1195.1 488.1 503.6 328.9 222.0 Tây Nguyên 2344.0 1246.1 301.5 367.6 420.7 25.3 Đông Nam Bộ 520.0 2067.7 127.7 97.6 22.2 6.2 Đồng bằng sông Cửu Long 2072.0 10213.3 287.7 1611.5 326.4 63.5 ( Nguồn: gso.gov ) Bên cạnh việc chặt phá rừng thì cháy rừng cũng là nguyên nhân quan trọng khiến diện tích rừng bị suy giảm nghiêm trọng trong những năm qua. Diện tích rừng bị cháy của nước ta diễn biến thất thường qua các năm phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, khí hậu. Trung bình mỗi năm nước ta mất khoảng 414.2 ha rừng do bị cháy, riêng năm 1998 là 1 trong những năm hạn hán nhất trong lịch sử diện tích rừng bị cháy đạt tới con số kỉ lục 19 943,3 ha. Nhìn chung, trong cả nước thì đồng bằng sông Cửu Long là vùng có diện tích rừng bị cháy lớn nhất cả nước năm 1995 là 2072 ha, năm 1998 là 10213.3 ha do đặc điểm khí hậu của khu vực này là có một mùa khô kéo dài. 2.2. Về chất lượng rừng Trước năm 1945 rừng nước ta có trữ lượng gỗ vào khoảng 200 – 300m3/ha, trong đó các loài gỗ quí như đinh, lim, sến, táu, nghiến, trai, gụ là rất phổ biến. Những cây gỗ có đường kính 40 – 50cm chiếm tới 40 – 50% trữ lượng của rừng. Rừng tre nứa với những cây tre có đường kính 18 – 20cm, nứa 4 – 6cm và vầu 8 – 12cm rất phổ biến (Hoàng Hòe, 1998). Nhưng hiện nay chất lượng rừng đã giảm sút đáng kể, chỉ còn chủ yếu là rừng nghèo có giá trị kinh tế không cao. Trữ lượng gỗ rừng năm 1993 ước tính khoảng 525 triệu m3 (trung bình 76 m3/ha). Tốc độ tăng trưởng trung bình của rừng Việt Nam hiện nay là 1 – 3m3/ha/năm, đối với rừng trồng có thể đạt 5 – 10 m3/ha/năm. Trong giai đoạn 1990-1995, tuy tổng diện tích rừng có tăng lên nhưng chất lượng rừng thì giảm đi đáng kể. Diện tích rừng giàu (>150m3 gỗ/ha) và trung bình (80-150 m3/ha) giảm từ 2458,7 nghìn ha xuống còn 2165,3 nghìn ha, trong khi rừng nghèo (< 80 m3/ha) và rừng phục hồi tăng từ 4389.8 nghìn ha lên 4621.7 nghìn ha cũng trong thời gian trên. Chất lượng, trữ lượng và giá trị đa dạng sinh học được duy trì, bảo tồn tốt hơn ở những khu rừng đặc dụng đã được thành lập và có ban quản lý. Tuy nhiên, tình trạng phổ biến là rừng tự nhiên vẫn bị suy giảm về chất lượng, những khu rừng nguyên sinh, rừng giàu chủ yếu chỉ còn ở những khu rừng đặc dụng và phòng hộ thuộc vùng sâu, vùng xa. Rừng tự nhiên thuộc quy hoạch rừng sản xuất hiện có 3.105.647ha, trong đó rừng giàu và trung bình chỉ còn 652.645 ha chiếm 21%, rừng nghèo và rừng non 2.453.002ha chiếm 79% đa số là rừng tự nhiên tái sinh và rừng phục hồi sau khai thác, sau canh tác nương rẫy. Rừng trồng tăng nhanh cả về diện tích và trữ lượng trong những năm qua, góp phần nâng cao độ che phủ rừng trong cả nước. Tuy nhiên, chất lượng rừng trồng còn thấp, cấu trúc thiếu ổn định, giá trị về đa dạng sinh học, khả năng cung cấp gỗ, tác dụng phòng hộ và bảo vệ môi trường chưa cao. Chất lượng rừng chưa được cải thiện, vẫn tiếp tục bị suy giảm, rừng tự nhiên đầu nguồn và rừng ngập mặn vẫn còn bị tàn phá nghiêm trọng. Rừng giầu, rừng kín, rừng nguyên sinh chỉ còn chiếm khoảng 13% trong khi rừng nghèo và rừng tái sinh chiếm tới 55% tổng diện tích rừng. 3. Nguyên nhân của hiện trạng suy giảm tài nguyên rừng Việt Nam. Có thể nêu ra các nguyên nhân chính gây nên sự mất rừng và làm suy thoái rừng ở nước ta là: - Đốt nương làm rẫy: sống du canh du cư; trong tổng số diện tích rừng bị mất hàng năm thì khoảng 40 – 50% là do đốt nương làm rẫy. Ở Đắc Lắc trong thời gian từ 1991 – 1996 mất trung bình 3.000 đến 3.500 ha rừng/ năm, trong đó trên 1/2 diện tích rừng bị mất do làm nương rẫy. - Chuyển đất có rừng sang đất sản xuất các cây kinh doanh, đặc biệt là phá rừng để trồng các cây công nghiệp như cà phê ở Tây Nguyên chiếm 40 – 50% diện tích rừng bị mất trong khu vực. - Dân số đông và tăng nhanh trong điều kiện cuộc sống ngày càng nâng cao dẫn đến nhu cầu về tài nguyên rừng ngày càng lớn -> Khai thác quá mức vượt khả năng phục hồi tự nhiên của rừng. - Do khai thác không có kế hoạch, kỹ thuật khai thác lạc hậu làm lãng phí tài nguyên rừng. - Do cháy rừng, nhất là các rừng tràm, rừng thông, rừng khộp rụng lá. - Do ảnh hưởng của bom đạn và các chất độc hóa học trong chiến tranh, riêng ở miền Nam đã phá hủy khoảng 2 triệu ha rừng tự nhiên. 4. Một số giải pháp khắc phục. Đây là vấn đề mang tính xã hội cao, để giải quyết vấn nạn này không đơn thuần là giải pháp riêng biệt của một ngành, một lĩnh vực mà cần có những giải pháp tổng hợp với sự tham gia của nhiều ngành chức năng * Giải pháp về chính sách: + Những năm qua, chúng ta đã thực hiện một số chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng, khuyến lâm, giao đất giao rừng và thực hiện các chính sách hưởng lợi từ rừng cho người dân miền núi. + Tạo công ăn việc làm, đào tạo nghề, nâng cao năng lực quản lý kinh tế hộ gia đình cho đồng bào dân tộc, tạo đầu ra cho các sản phẩm nông lâm kết hợp, chế biến và bảo quản nông sản... + Tiếp tục đổi mới hệ thống quản lý ngành lâm nghiệp để đáp ứng nhu cầu cho công tác quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng, nhanh chóng xã hội hóa hoạt động lâm nghiệp + Chấm dứt tình trạng tự do di cư - di canh bừa bãi đã tồn tại mấy chục năm nay bằng cách quản lý chặt chẽ các đồng bào dân tộc chuyên sống du canh du mục từ trước đến nay tại các địa phương. * Về phía chính quyền: các ngành chức năng phải làm tốt công tác truyền thông, cung cấp cho người dân những hiểu biết, thông tin thiết thực phục vụ quá trình sản xuất, hướng dẫn để người dân áp dụng có hiệu quả các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. * Giải pháp về tổ chức thực hiện: Các cấp chính quyền, các chủ rừng phải xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các kế hoạch hoạt động và phương án bảo vệ rừng từng năm, từng giai đoạn trên phạm vi địa phương mình quản lý. + Chú trọng tăng cường lực lượng và trang thiết bị đủ mạnh để bảo vệ rừng, đồng thời có biện pháp quản lý hiệu quả đối với diện tích rừng đã được giao + Duy trì và tổ chức hoạt động của các tổ đội quần chúng bảo vệ rừng có hiệu quả.. Các biện pháp bảo vệ rừng phải được xây dựng trên cơ sở gắn với các hoạt động phát triển rừng và hướng tới cộng đồng. KẾT LUẬN Tài nguyên rừng của nước ta có vai trò đặc biệt quan trọng đối với môi trường cũng như đời sống sản xuất nhất là trong điều kiện nước ta ¾ diện tích là đồi núi và dân số đông lại liên tục tăng nhanh. Tuy nhiên, hiện nay nguồn tài nguyên này đã và đang bị suy giảm nghiêm trọng cả về trữ lượng lẫn chất lượng do một loạt các nguyên nhân khách quan và chủ quan. Do vậy, bảo vệ tài nguyên rừng đang là vấn đề đặt ra hàng đầu đối với nước ta hiện nay. Đây là vấn đề mang tính xã hội cao, để giải quyết vấn nạn này không đơn thuần là giải pháp riêng biệt của một ngành, một lĩnh vực mà cần có những giải pháp tổng hợp với sự tham gia của nhiều ngành chức năng. Một số hình ảnh về hiện trạng suy giảm tài nguyên rừng ở Việt Nam Diện tích rừng ở Việt Nam ngày càng bị thu hẹpRừng là nguồn tài nguyên quý giá, có ý nghĩa to lớn đốivới môi trường cũng như cuộc sống của con người. Đó là một thành phần của môi trường địa lí tham gia vào vòng tuần hoàn vật chất sinh địa-hóa toàn hành tinh, là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá và đa diện, bảo đảm nhu cầu nhiều mặt của con người. Ngày nay, do dân số tăng nhanh, nhu cầu về tài nguyên ngày càng lớn nên đã gây sức ép đối với các loại tài ngyên nói chung và tài nguyên rừng nói riêng. Tài nguyên rừng đã được huy động ngày càng nhiều nhằm đáp ứng nhu cầu tăng nhanh về lương thực, thực phẩm, gỗ củi và các nguyên liệu cho sự phát triển kinh tế xã hội của con người. Vì vậy, vấn đề suy giảm tài nguyên rừng đã và đang trở thành vấn đề chung, cấp bách của toàn thế giới đặc biệt là ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Việt Nam là đất nước nhiều đồi núi, dân số lại đông và tăng nhanh nên tài nguyên rừng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên trong những năm gần đây do việc khai thác quá mức của con người cùng với thiên tai cháy rừng, tài nguyên rừng của Việt Nam đã bị suy giảm đến mức báo động cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng đang là vấn đề đặt ra hàng đầu đối với nước ta hiện nay. 1. Vai trò của rừng. Rừng là nguồn tài nguyên quý giá có vai trò đặc biệt quan trọng đối với môi trường cũng như phát triển kinh tế xã hội. - Đối với môi trường: + Rừng góp phần quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, đảm bảo cân bằng sinh thái, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai. + Ngăn chặn xói mòn đất, bảo vệ mực nước ngầm. + Là nơi lưu giữ các nguồn gien động thực vật quý hiếm. - Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: + Rừng là nguồn cung cấp gỗ và lâm sản phục vụ cho nhu cầu đời sống và sản xuất. + Cung cấp các mặt hang lâm sản có giá trị xuất khẩu góp phần thu ngoại tệ phục vụ qua trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. + Cung cấp các dược liệu quý có tác dụng chữa bệnh, nâng cao sức khỏe cho con người + Đối với các vùng núi nước ta, rừng còn là nguồn sống chủ yếu của các đồng bào dân tộc ít người. 2. Hiện trạng suy giảm tài nguyên rừng Việt Nam. Việt Nam là đất nước nhiều đồi núi, diện tích đồi núi chiếm tới ¾ diện tích lãnh thổ nên phần lớn diện tích lãnh thổ được rừng che phủ. Diện tích đất lâm nghiệp nước ta năm 2005 là 14,43 triệu ha chiếm 43,6% diện tích đất tự nhiên. Đất nước Việt Nam trải dài trên nhiều vĩ tuyến và đai cao, với địa hình rất đa dạng, hơn 2/3 lãnh thổ là đồi núi, lại có khí hậu thay đổi từ nhiệt đới ẩm phía Nam, đến á nhiệt đới ở vùng cao phía Bắc, đã tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái tự nhiên và sự phong phú về các loài sinh vật. Những hệ sinh thái đó bao gồm nhiều loại rừng như rừng cây lá rộng thường xanh, rừng nửa rụng lá, rừng rụng lá, rừng trên núi đá vôi, rừng hỗn giao lá rộng và lá kim, rừng lá kim, rừng tre nứa, rừng ngập mặn, rừng tràm, rừng ngập nước ngọt,... Tuy nhiên trong những năm qua, do tác động của nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan nên rừng của nước ta đã bị suy giảm nghiêm trọng cả về số lượng và chất lượng rừng. 2.1 Về trữ lượng ( diện tích ) rừng. Sự suy giảm tài nguyên rừng biểu hiện trước hết và rõ nét thông qua việc suy giảm diện tích. Trước đây phần lớn đất nước Việt Nam có rừng che phủ, nhưng chỉ khoảng một thế kỷ qua, rừng bị suy thoái nặng nề. Trong thời kỳ Pháp thuộc, nhiều vùng đất rộng lớn ở phía Nam đã bị khai phá để trồng cà phê, cao su, chè và một số cây công nghiệp khác. Vào khoảng giữa thế kỷ XX, hầu như các khu rừng thuộc châu thổ sông Hồng, một phần lớn châu thổ sông Cửu Long cùng với các khu rừng trên đất thấp ven biển đã bị khai phá để trồng trọt và xây dựng xóm làng. Vào lúc này độ che phủ của rừng còn lại 43% diện tích đất tự nhiên. Ba mươi năm chiến tranh tiếp theo là giai đoạn mà rừng Việt Nam bị thu hẹp lại khá nhanh. Hơn 80 triệu lít chất diệt cỏ cùng 13 triệu tấn bom đạn với hơn 25 triệu hố bom đạn, bom cháy cùng với đội xe ủi đất khổng lồ đã tiêu hủy hơn 2 triệu ha rừng nhiệt đới các loại. Bảng 1: Sự biến động diện tích rừng Việt Nam giai đoạn 1943-2009 ( triệu ha ) Năm Loại rừng 1945 1976 1985 1995 2005 2009 Tổng diện tích 14.3 11.2 9.9 9.3 12.7 13.2 Rừng tự nhiên 14.3 11.1 9.3 8.3 10.2 10.3 Rừng trồng 0 0.1 0.6 1.0 2.5 2.9 Độ che phủ (%) 43.0 33.8 30.0 28.2 38 39.1 ( Nguồn: gso.gov) Qua bảng số liệu 1 ta có thể thấy, từ năm 1945 đến năm 1995 tổng diện tích rừng của nước ta liên tục giảm xuống ( giảm 5 triệu ha trong vòng 50 năm, trung bình mỗi năm giảm 0.1 triệu ha), trong đó đặc biệt giảm nhanh ở giai đoạn 1976 – 1985, trung bình mỗi năm mất khoảng 0.14 triệu ha. Nguyên nhân chính làm mất rừng trong giai đoạn này là do dân số tăng nhanh, nạn đốt nương làm rẫy tràn lan, quá trình khai hoang lấy đất trồng các cây công nghiệp như cà phê, chè, cao su…và khai thác gỗ xuất khẩu. Từ những năm 1990 – 1995, do công tác trồng rừng được đẩy mạnh đã phần nào làm cho diện tích rừng tăng lên, từ 9.3 triệu ha lên 13.2 triệu ha ( trung bình mỗi năm tăng 0.21 triệu ha). Tuy nhiên, nhìn chung diện tích rừng vẫn chưa thể phục hồi. + Trong tổng diện tích rừng thì rừng tự nhiên có xu hướng giảm đi rõ rệt và đang dần bị thay thế bởi rừng trồng. Diện tích rừng tự nhiên liên tục giảm từ năm 1945 đến năm 1995 đặc biệt giảm nhanh trong giai đoạn 1976-1995 (giảm từ 11.1 triệu ha xuống còn 8.3 triệu ha tức là giảm 2.8 triệu ha trong vòng 19 năm, trung bình mỗi năm giảm 0.11 triệu ha). Đặc biệt nghiêm trọng ở một số vùng, như Tây Nguyên mất 440.000ha, vùng Đông Nam Bộ mất 308.000ha, vùng Bắc Khu IV cũ mất 243.000ha, vùng Bắc Bộ mất 242.500ha. Nguyên nhân là do sau thời kỳ chiến tranh, dân địa phương tranh thủ chặt gỗ làm nhà và lấy đất trồng trọt. Tình trạng đó vẫn còn đang tiếp diễn cho đến ngày nay. Tuy nhiên từ năm 1995 đến nay diện tích rừng tự nhiên đang có xu hướng tăng trở lại, năm 1995 là 8.3 triệu ha đến năm 2009 đạt 10.3 triệu ha ( trung bình mỗi năm tăng 0.5 triệu ha). Điều này được lí giải là chủ yếu do sự phát triển của rừng tái sinh và rừng tre nứa mặc dù trong một thời gian ngắn các loại rừng đó chưa thể thành rừng tự nhiên tốt được. Trong 7 kiểu rừng tự nhiên chủ yếu ở nước ta thì trừ rừng lá rộng rụng lá và rừng hỗn giao giữa gỗ và tre nứa tất cả các kiểu rừng còn lại đều giảm về diện tích. Trong số này, rừng lá rộng thường xanh và nửa rụng lá là loại rừng bị giảm nhiều nhất mà tiêu biểu là Đăc Lắc và Gia Lai ở Tây Nguyên. Cùng với đó, diện tích rừng tre nứa cũng giảm tương đối nhanh nhất là ở Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và Đông Bắc do việc đốt rừng làm rẫy và phá rừng để lấy đất trồng cây công nghiệp. Diện tích rừng ngập mặn và rừng chua phèn cũng giảm mạnh do phá rừng để nuôi trồng thủy sản đặc biệt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. + Trong những năm qua diện tích rừng trồng có xu hướng tăng lên rõ rệt đặc biệt là từ năm 1995 trở lại đây. Năm 1995, diện tích rừng trồng nước ta mới có 1 triệu ha thì đến năm 2009 đã tăng lên 2.9 triệu ha, trung bình mỗi năm tăng 0.1 triệu ha. Sự gia tăng diện tích rừng trồng gắn liền với các chính sách khuyến lâm đặc biệt là việc giao đất giao rừng cho các hộ nông dân. Ngoài ra còn có các chương trình trồng rừng được sự hỗ trợ về vốn và kĩ thuật nhà nước của các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, trên thực tế diện tích rừng trồng vẫn chưa bù đắp lại được số diện tích rừng của nước ta đã bị mất đi trong những năm qua, đặc biệt là về chất lượng rừng. Cùng với sự biến động của diện tích rừng, độ che phủ rừng cũng biến động thất thường qua các năm. Từ năm 1945 đến 1995 diện tích rừng liên tục giảm kéo theo sự suy giảm của độ che phủ rừng từ 43% xuống còn 28.2% (giảm 14.8%). Từ năm 1995 trở lại đây do diện tích rừng trồng tăng lên nên tỉ lệ che phủ rừng cũng tăng đạt 39,1% năm 2009. Tuy nhiên, vẫn thấp hơn rất nhiều so với mức an toàn sinh thái (45%). Bảng 2: Bình quân diện tích rừng theo đầu người của Việt Nam giai đoạn 1943-2009 (Đơn vị: ha/người) Năm 1943 1976 1985 1995 1999 2005 2009 Ha/người 0.63 0.23 0.17 0.13 0.14 0.15 0.15 Bình quân diện tích rừng theo đầu người của nước ta vào loại thấp nhất thế giới. Giai đoạn 1943-1995 diện tích rừng theo đầu người liên tục giảm mạnh từ 0.63 ha/người xuống còn 0.13 ha/người tức giảm tới 0.5 ha/người. Từ năm 1995 đến nay tuy có tăng lên nhưng không đáng kể. Năm 2009 chỉ số này là 0.15 ha/người thấp hơn nhiều so với trung bình của thế giới ( Diện tích rừng bình quân đầu người của thế giới là 0.93 ha/người). Nguyên nhân là dân số nước ta tăng nhanh trong khi diện tích rừng trồng bổ sung hàng năm là không đáng kể. Bảng 3: Diện tích rừng bị chặt phá phân theo các vùng giai đoạn 1995-2009 ( Đơn vị: ha ) Năm 1995 1998 2001 2004 2007 Sơ bộ 2009 Cả nước 18914.0 7503.4 2819.7 2254.0 1348.1 1563.0 Đồng bằng sông Hồng 115.0 517.5 505.0 393.7 3.2 8.5 Trung du miền núi phía Bắc 2199.0 2116.1 218.2 208.2 229.0 309.3 Duyên hải miền Trung 2487.0 713.4 199.7 268.6 124.6 84.4 Tây Nguyên 10134.0 3092.7 1305.2 457.2 481.3 714.8 Đông Nam Bộ 1387.0 751.0 481.5 886.7 483.9 428.0 Đồng bằng sông Cửu Long 2592.0 312.7 110.1 39.6 26.1 18.0 ( Nguồn: gso.gov ) Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự suy giảm diện tích rừng là do nạn chặt phá rừng bừa bãi của người dân. Năm 1995 cả nước mất tới 18 914 ha, từ đó đến nay tuy đã giảm nhưng trung bình mỗi năm diện tích rừng bị chặt phá vẫn lên tới 1 239.3 ha. Trong phạm vi cả nước thì Tây Nguyên là vùng có diện tích rừng bị chặt phá lớn nhất cả nước, năm 1995 là 10134 ha đến năm 2009 có giảm mạnh nhưng vẫn bị mất tới 714.8 ha và trung bình mỗi năm diện tích rừng bị chặt phá của vùng là 672.8 ha. Diện tích rừng bị chặt phá của vùng lớn nhất trong cả nước là do tập quán đốt nương làm rẫy của các dân tộc thiểu số, mặt khác do chính sách phá rừng để lấy đất trồng các cây công nghiệp dài ngày và ngắn ngày như: cao cu, hồ tiêu, cà phê…( đây là vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn nhất trong cả nước). Đồng bằng sông Hồng là vùng có diện tích rừng bị chặt phá thấp nhất cả nước (năm 2009 diện tích bị chặt phá là 8.5 ha) do diện tích rừng ở khu vực này ít và chính sách bảo vệ rừng được thực hiện nghiêm ngặt hơn. Đồng bằng sông Cửu Long thời gian đầu tức năm 1995 diện tích rừng bị chặt phá lớn 2595 ha chủ yếu là do phá rừng ngập mặn để nuôi trồng thủy sản, giai đoạn sau diện tích rừng bị chặt phá đã giảm đáng kể chỉ còn 18 ha năm 2009. Bảng 4: Diện tích rừng bị cháy phân theo các vùng giai đoạn 1995-2009 ( Đơn vị: ha ) Năm 1995 1998 2001 2004 2007 Sơ bộ 2009 Cả nước 7457.0 19943.3 1523.4 4787.0 5136.4 1658.0 Đồng bằng sông Hồng 0.0 170.1 48.5 460.1 979.2 216.6 Trung du và miền núi phía Bắc 679.0 5051.0 270.0 1590.2 3059.0 1124.2 Duyên hải miền Trung 1842.0 1195.1 488.1 503.6 328.9 222.0 Tây Nguyên 2344.0 1246.1 301.5 367.6 420.7 25.3 Đông Nam Bộ 520.0 2067.7 127.7 97.6 22.2 6.2 Đồng bằng sông Cửu Long 2072.0 10213.3 287.7 1611.5 326.4 63.5 ( Nguồn: gso.gov ) Bên cạnh việc chặt phá rừng thì cháy rừng cũng là nguyên nhân quan trọng khiến diện tích rừng bị suy giảm nghiêm trọng trong những năm qua. Diện tích rừng bị cháy của nước ta diễn biến thất thường qua các năm phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, khí hậu. Trung bình mỗi năm nước ta mất khoảng 414.2 ha rừng do bị cháy, riêng năm 1998 là 1 trong những năm hạn hán nhất trong lịch sử diện tích rừng bị cháy đạt tới con số kỉ lục 19 943,3 ha. Nhìn chung, trong cả nước thì đồng bằng sông Cửu Long là vùng có diện tích rừng bị cháy lớn nhất cả nước năm 1995 là 2072 ha, năm 1998 là 10213.3 ha do đặc điểm khí hậu của khu vực này là có một mùa khô kéo dài. 2.2. Về chất lượng rừng Trước năm 1945 rừng nước ta có trữ lượng gỗ vào khoảng 200 – 300m3/ha, trong đó các loài gỗ quí như đinh, lim, sến, táu, nghiến, trai, gụ là rất phổ biến. Những cây gỗ có đường kính 40 – 50cm chiếm tới 40 – 50% trữ lượng của rừng. Rừng tre nứa với những cây tre có đường kính 18 – 20cm, nứa 4 – 6cm và vầu 8 – 12cm rất phổ biến (Hoàng Hòe, 1998). Nhưng hiện nay chất lượng rừng đã giảm sút đáng kể, chỉ còn chủ yếu là rừng nghèo có giá trị kinh tế không cao. Trữ lượng gỗ rừng năm 1993 ước tính khoảng 525 triệu m3 (trung bình 76 m3/ha). Tốc độ tăng trưởng trung bình của rừng Việt Nam hiện nay là 1 – 3m3/ha/năm, đối với rừng trồng có thể đạt 5 – 10 m3/ha/năm. Trong giai đoạn 1990-1995, tuy tổng diện tích rừng có tăng lên nhưng chất lượng rừng thì giảm đi đáng kể. Diện tích rừng giàu (>150m3 gỗ/ha) và trung bình (80-150 m3/ha) giảm từ 2458,7 nghìn ha xuống còn 2165,3 nghìn ha, trong khi rừng nghèo (< 80 m3/ha) và rừng phục hồi tăng từ 4389.8 nghìn ha lên 4621.7 nghìn ha cũng trong thời gian trên. Chất lượng, trữ lượng và giá trị đa dạng sinh học được duy trì, bảo tồn tốt hơn ở những khu rừng đặc dụng đã được thành lập và có ban quản lý. Tuy nhiên, tình trạng phổ biến là rừng tự nhiên vẫn bị suy giảm về chất lượng, những khu rừng nguyên sinh, rừng giàu chủ yếu chỉ còn ở những khu rừng đặc dụng và phòng hộ thuộc vùng sâu, vùng xa. Rừng tự nhiên thuộc quy hoạch rừng sản xuất hiện có 3.105.647ha, trong đó rừng giàu và trung bình chỉ còn 652.645 ha chiếm 21%, rừng nghèo và rừng non 2.453.002ha chiếm 79% đa số là rừng tự nhiên tái sinh và rừng phục hồi sau khai thác, sau canh tác nương rẫy. Rừng trồng tăng nhanh cả về diện tích và trữ lượng trong những năm qua, góp phần nâng cao độ che phủ rừng trong cả nước. Tuy nhiên, chất lượng rừng trồng còn thấp, cấu trúc thiếu ổn định, giá trị về đa dạng sinh học, khả năng cung cấp gỗ, tác dụng phòng hộ và bảo vệ môi trường chưa cao. Chất lượng rừng chưa được cải thiện, vẫn tiếp tục bị suy giảm, rừng tự nhiên đầu nguồn và rừng ngập mặn vẫn còn bị tàn phá nghiêm trọng. Rừng giầu, rừng kín, rừng nguyên sinh chỉ còn chiếm khoảng 13% trong khi rừng nghèo và rừng tái sinh chiếm tới 55% tổng diện tích rừng. 3. Nguyên nhân của hiện trạng suy giảm tài nguyên rừng Việt Nam. Có thể nêu ra các nguyên nhân chính gây nên sự mất rừng và làm suy thoái rừng ở nước ta là: - Đốt nương làm rẫy: sống du canh du cư; trong tổng số diện tích rừng bị mất hàng năm thì khoảng 40 – 50% là do đốt nương làm rẫy. Ở Đắc Lắc trong thời gian từ 1991 – 1996 mất trung bình 3.000 đến 3.500 ha rừng/ năm, trong đó trên 1/2 diện tích rừng bị mất do làm nương rẫy. - Chuyển đất có rừng sang đất sản xuất các cây kinh doanh, đặc biệt là phá rừng để trồng các cây công nghiệp như cà phê ở Tây Nguyên chiếm 40 – 50% diện tích rừng bị mất trong khu vực. - Dân số đông và tăng nhanh trong điều kiện cuộc sống ngày càng nâng cao dẫn đến nhu cầu về tài nguyên rừng ngày càng lớn -> Khai thác quá mức vượt khả năng phục hồi tự nhiên của rừng. - Do khai thác không có kế hoạch, kỹ thuật khai thác lạc hậu làm lãng phí tài nguyên rừng. - Do cháy rừng, nhất là các rừng tràm, rừng thông, rừng khộp rụng lá. - Do ảnh hưởng của bom đạn và các chất độc hóa học trong chiến tranh, riêng ở miền Nam đã phá hủy khoảng 2 triệu ha rừng tự nhiên. 4. Một số giải pháp khắc phục. Đây là vấn đề mang tính xã hội cao, để giải quyết vấn nạn này không đơn thuần là giải pháp riêng biệt của một ngành, một lĩnh vực mà cần có những giải pháp tổng hợp với sự tham gia của nhiều ngành chức năng * Giải pháp về chính sách: + Những năm qua, chúng ta đã thực hiện một số chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng, khuyến lâm, giao đất giao rừng và thực hiện các chính sách hưởng lợi từ rừng cho người dân miền núi. + Tạo công ăn việc làm, đào tạo nghề, nâng cao năng lực quản lý kinh tế hộ gia đình cho đồng bào dân tộc, tạo đầu ra cho các sản phẩm nông lâm kết hợp, chế biến và bảo quản nông sản... + Tiếp tục đổi mới hệ thống quản lý ngành lâm nghiệp để đáp ứng nhu cầu cho công tác quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng, nhanh chóng xã hội hóa hoạt động lâm nghiệp + Chấm dứt tình trạng tự do di cư - di canh bừa bãi đã tồn tại mấy chục năm nay bằng cách quản lý chặt chẽ các đồng bào dân tộc chuyên sống du canh du mục từ trước đến nay tại các địa phương. * Về phía chính quyền: các ngành chức năng phải làm tốt công tác truyền thông, cung cấp cho người dân những hiểu biết, thông tin thiết thực phục vụ quá trình sản xuất, hướng dẫn để người dân áp dụng có hiệu quả các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. * Giải pháp về tổ chức thực hiện: Các cấp chính quyền, các chủ rừng phải xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các kế hoạch hoạt động và phương án bảo vệ rừng từng năm, từng giai đoạn trên phạm vi địa phương mình quản lý. + Chú trọng tăng cường lực lượng và trang thiết bị đủ mạnh để bảo vệ rừng, đồng thời có biện pháp quản lý hiệu quả đối với diện tích rừng đã được giao + Duy trì và tổ chức hoạt động của các tổ đội quần chúng bảo vệ rừng có hiệu quả.. Các biện pháp bảo vệ rừng phải được xây dựng trên cơ sở gắn với các hoạt động phát triển rừng và hướng tới cộng đồng. KẾT LUẬN Tài nguyên rừng của nước ta có vai trò đặc biệt quan trọng đối với môi trường cũng như đời sống sản xuất nhất là trong điều kiện nước ta ¾ diện tích là đồi núi và dân số đông lại liên tục tăng nhanh. Tuy nhiên, hiện nay nguồn tài nguyên này đã và đang bị suy giảm nghiêm trọng cả về trữ lượng lẫn chất lượng do một loạt các nguyên nhân khách quan và chủ quan. Do vậy, bảo vệ tài nguyên rừng đang là vấn đề đặt ra hàng đầu đối với nước ta hiện nay. Đây là vấn đề mang tính xã hội cao, để giải quyết vấn nạn này không đơn thuần là giải pháp riêng biệt của một ngành, một lĩnh vực mà cần có những giải pháp tổng hợp với sự tham gia của nhiều ngành chức năng. Một số hình ảnh về hiện trạng suy giảm tài nguyên rừng ở Việt Nam Diện tích rừng ở Việt Nam ngày càng bị thu hẹp

Bình luận (3)
siddharth sukla
Xem chi tiết
qwerty
9 tháng 10 2016 lúc 16:28

Con người sống, tồn tại, làm việc, giải trí hàng ngày trong một môi trường sống trong sạch. Một trong những yếu tố tạo nên sự trong sạch đó chính là "rừng". 

Không phải dĩ nhiên mà trái đất được gọi là hành tinh xanh. Với diện tích lớn là biển, rừng và tầng ôzôn bao quanh, trái đất với điều kiện lý tưởng ấy là nơi bắt nguồn cho sự sống - một điều mà chưa hành tinh nào có. Đặc biệt là rừng - một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người. 

Rừng là gì? Đó là một quần lạc sinh địa, trong đó sinh vật rừng, đất và khí hậu tạo thành một thể thống nhất, có quan hệ tương hỗ chặt chẽ với nhau. Nó được tạo nên bởi nhiều thành phần mà cây là thành phần chính. Vậy thì tại sao rừng lại có một ảnh hưởng lớn như vậy đến cuộc sống con người? 

Như chúng ta đã biết, thành phần chính của rừng là cây xanh. Mà cây xanh lại có tác dụng rất lớn đối với môi trường sống. Không đơn thuần là tạo bóng mát, làm đẹp phố phường mà hơn hết cây xanh điều hòa khí hậu giúp cho không khí trong lành, làm sạch bầu khí quyển. Hãy thử tưởng tượng xem nếu như trái đất này không có cây xanh thì chắc chắn xung quanh ta sẽ chỉ là một bầu không khí bụi bặm, ô nhiễm nắng, nóng hoặc mưa lạnh giá, hạn hán ngập lụt sẽ giày xéo lên cuộc sống của người dân. Nói cách khác không có cây xanh sự sống của con người sẽ chấm dứt. 

Đố các bạn đây là cái gì?

Cuộc sống con người không chỉ được quyết định ở yếu tố vật chất mà nó còn bị ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên khách quan. Trong đó xói mòn đất là một hiện tượng tự nhiên thường xảy ra nơi những vùng dồi dào, đất trọc ít cây bao phủ. Xói mòn làm cho lớp đất mặt bị rửa trôi, tạo thành khe rãnh gây lũ lụt, đất trôi lở... ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất và đời sống con người. Rồi hiện tượng gió, gió mạnh ảnh hưởng lớn đến cây rừng làm giảm 30 - 90% sự đồng hóa thực vật, gió nóng làm giảm khả năng thụ phấn của cây, dèm cát vùi lấp đồng ruộng, nhà cửa... Tất cả những thiên tai khủng khiếp đó đều có thể được ngăn chặn hoặc giảm bớt bằng cách trồng cây xanh. Rừng điều hòa khí hậu, điều tiết dòng chảy trên mặt đất, bảo vệ, cải tạo làm tơi xốp đất, giữ nước cho sản xuất, hạn chế sức phá hoại của gió ngăn sự di chuyển của cát vào sâu đất liền, ngăn chặn gió, bão, mùa màng, làng xóm. Không chỉ thế rừng còn là nguồn cung cấp cho con người gỗ, củi, hoa quả và làm phân xanh. Có thể nói rừng đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của mỗi con người. 

Không chỉ là yếu tố, thành phần chính trong hoàn cảnh sống của con người mà rừng còn là môi trường sống của rất nhiều động vật quý hiếm. Rừng có các loại cây từ thấp lên cao. ở mỗi tầng là một môi trường hoàn cảnh thích nghi riêng biệt với từng loài vật. Nào thỏ, hươu, nai, hổ đến khỉ, vượn, sóc, chim... đó là những loài động vật rất quý hiếm mà môi trường sống duy nhất của chúng chính là rừng - thiên nhiên hoang dã. 

Trong rừng có rất nhiều loài gỗ quý hiếm như đinh, lim, sến, táu,... rồi các loại thuốc quý. Có những khu rừng được con người trồng lên để phục vụ cho chế biến công nghiệp như rừng cao su, rừng tre, nứa, keo tai tượng,.... 

Bên cạnh đó rừng còn là môi trường sinh thái trong lành - một địa điểm du lịch lý thú, một danh lam thắng cảnh tuyệt vời đầy bí ẩn, hoang dã và tràn đầy hấp dẫn, lôi cuốn. 

Ảnh hưởng lớn và có tính chất quyết định đến sự sống con người rừng còn rất có ích với các lĩnh vực khác như nông nghiệp, công nghiệp, du lịch, dịch vụ... hiểu rõ được những lợi ích và ảnh hưởng của rừng ta mới thấy rõ vị trí và tầm quan trọng của nó như thế nào? 

Đất nước ta với ba phần tư diện tích là rừng, đồi núi - một điều kiện thiên nhiên tuyệt vời. Vậy mà giờ đây diện tích rừng đó còn lại bao nhiêu? Không hiểu rõ tầm quan trọng của rừng rất nhiều người đã chặt phá cây bừa bãi nhất là những người dân thiếu hiểu biết "đốt nương làm rẫy" khai phá rừng một cách vô ý thức. Nhưng cũng có những người biết được lợi ích của rừng hiểu được sự sai trái trong hành động của mình nhưng vẫn chặt trộm, khai khác rừng trái phép để kiệm lợi về mình. Hậu quả của những việc chặt phá, khai thác thiếu quy củ, đốt rừng, phá rừng ấy thật không thể tưởng tượng được. Từng tự hào với cánh rừng U Minh rộng lớn, phong phú thì nhưng chỉ vì thiếu ý thức, công tác quản lý kém mà hàng trăm, hàng nghìn hecta rừng bị phá hủy, thiêu rụi trong ngọn lửa làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường người dân và thiệt hại hàng trăm tỷ đồng của nhà nước. Những vùng đồi xanh đẹp đẽ xưa kia những cánh rừng nguyên sinh xưa kia giờ đây chỉ còn là những quả đồi trọc, những khu rừng thứ sinh. Tiếp theo đó là những thảm họa thiên nhiên liên tục xảy ra nào hạn hán, nào lũ lụt, nào sụt lở đất... làm thiệt hại bao tiền của và đau đớn hơn là tính mạng của những người dân vô tội. Không có rừng thì lấy cái gì để ngăn chặn lũ lụt, điều hòa không khí, để chống xói mòn, để bảo vệ làng mạc. Những tai hại to lớn và khủng khiếp ấy đều chỉ vì một sự vô ý thức, sự thiếu hiểu biết và hám lợi của một số cá nhân gây ra. 

Mất rừng đồng nghĩa với việc môi trường sống của con người đang dần dần bị tàn phá, hủy hoại. Những loại động vật hoang dã cũng mất đi môi trường sống của mình. Đã bao loài động vật bị tuyệt chủng, bị đem vào danh sách đỏ. Nguy cơ tuyệt chủng tất cả cũng vì chặt phá rừng. 

Hiểu rõ tầm quan trọng, thấy rõ những hậu quả của việc tàn phá rừng, chúng ta thêm phần yêu quý và biết bảo vệ rừng hơn. 

Hiện nay Đảng và chính quyền nhà nước ta đã có những biện pháp thích hợp và quản lý chặt chẽ trong việc khai thác rừng. Bằng cách khai thác hợp lý kết hợp với việc tái tạo rừng, nhiều khu rừng đã được phục hồi "phủ xanh đồi trọc". 

Tác động của con người tới tái sinh tự nhiên là rất lớn bởi trong tái sinh tự nhiên thường gặp hoàn cảnh bất lợi, ảnh hưởng đến sự nảy mầm của hạt, sự sinh trưởng của cây con. Để khắc phục người sản xuất phải chủ động tạo hoàn cảnh sống thích hợp bằng cách chặt phá những cây, cành mọc quá rậm, phát bớt bụi để hạt tiếp xúc nảy mầm dễ và xới đất tơi xung quanh gốc. Là học sinh, sinh viên chúng ta có thể góp sức nhỏ của mình trong công cuộc cải tạo rừng bằng cách tuyên truyền tầm quan trọng của rừng, hậu quả của việc khai thác trái phép và có thể trồng cây quanh nhà để góp phần làm trong sạch không khí, môi trường sống trong xóm làng. 

Hãy yêu quý và bảo vệ rừng để trái đất của chúng ta mãi là "hành tinh xanh" "Tổ quốc Việt Nam yêu dấu, có sạch đẹp mãi được không. Điều đó tuỳ thuộc hành động của bạn, chỉ thuộc vào bạn mà thôi".

 

Đề bài: Em hãy viết một bai văn thuyết minh về vai trò cây xanh trong việc bảo vệ môi trường. 

Xã hội ngày càng hiện đại, nạn ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên trầm trọng, ảnh hưởng lớn đến đời sống sức khỏe của con người. Từ lâu, các nhà khoa học, các tổ chức bảo vệ môi trường đã không ngừng tìm kiếm những biện pháp tích cực để đi đến kết luận: trợ thủ đắc lực nhất giúp chúng ta bảo vệ môi trường trong sạch chính là cây xanh.

Môi trường theo nghĩa rộng là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sống, sản xuất của con người như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã hội,… Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố tự nhiên như vật lí, hóa học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít chịu nhiều tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi rừng biển cả, không khí, động, thực vật, đất, nước,… Môi trường tự nhiên cho ta không khí để ở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú.

Trong môi trường sống tự nhiên đó của con người, cây xanh có vai trò cực kì quan trọng. Nó điều hòa không khí nhờ khả năng hấp thu năng lượng mặt trời, xả hơi nước mát vào không khí, hấp thu các khí độc hại trong môi trường, đồng thời nhả khí oxi vào môi trường.

Cây xanh là cái máy điều hòa tự nhiên tuyệt vời nhất: Nó hấp thu và phản xạ năng lượng mặt trời chiếu xuống đất làm giảm sức nóng của trái đất, hấp thu khí cacbonnic, gây hiệu ứng nhà kính. Cái máy điều hòa không khí nhân tạo chỉ có thể làm mát trong nhà và thải khí nóng vào môi trường. Mặt khác, chúng cần năng lượng để hoạt động nên nó càng làm cho môi trường nóng lên, chưa kể đến các khí chạy máy lạnh còn hủy hoại tầng ôzôn. Như vậy, máy lạnh chỉ là thiết bị làm mát tạm thời trong một phạm vi rất nhỏ mà thôi, trong khi cây xanh lại chính là caí máy điều hòa không khí vĩ đại của chúng ta. Những số liệu tin cậy của các nhà vệ sinh học kết luận rằng, ngồi dưới bóng cây bàng ta bớt được bốn lần cái nắng cháy da buổi trưa hè trên đường nhựa. Các tầng lá cây xanh có tác dụng cản 50% bụi đường, tính ra trong một vụ hè, một trăm cây xanh ở đường phố đã giữ lại 340kg bụi để giũ xuống mặt đường sau mỗi trận mưa. Cây cối còn là hàng rào cách li tiếng động, hấp thụ và hắt lại những sóng âm thanh hỗn tạp để khỏi làm chấn động thần kinh. Người ta ví rất đúng: cây xanh là lá phổi của hành tinh chúng ta. Không có cây xanh thì chẳng mấy chốc muôn loài sẽ ngạt thở. Cây xanh ngăn cản và lọc khí độc trong không khí. Trong rừng thông, rừng bá thông không khí dường như vô trùng. Lượng vi trùng gây bệnh trong không khí ở nông thôn có nhiều cây xanh hay rừng ít hơn ở thành phố khoảng 10 lần. Cây xanh nhả ra các ion âm rất có lợi cho sức khỏe chúng ta qua đường hô hấp. Các ngôi nhà, đường sá, trường học được bao phủ cây xanh sẽ vô cùng có lợi cho sức khỏe con người. Tâm hồn chúng ta sẽ trở nên dịu lắng, thanh thoát, minh mẫn, sảng khoái. Ngược lại, thiếu cây xanh, không những bệnh tật dễ hoành hành , sức khỏe con người bị ảnh hưởng nghiêm trọng mà tâm hồn con người cũng có nguy cơ bị chai cứng, dễ sinh các tổn thương về tinh thần. Đối với con người trên hành tinh chúng ta, cây xanh là một vị thần hòa giải tuyệt vời.

Cây xanh là nguồn nhiên liệu và năng lượng quý giá cho cuộc sống. Trồng, chăm sóc cà bảo vệ cây xanh chính là hành động thiết thực nhất nhằm bảo vệ môi trường, bảo vệ chính cuộc sống của chúng ta. Đó vừa là lời khuyến cáo của các nhà khoa học vừa là nguyện vọng thiết tha, chân thành của mỗi con người trong cuộc sống hôm nay. Trồng một cây xanh cho mình, cho ngôi nhà của mình chẳng khó gì. Trồng một cây xanh cho hôm nay cũng là trồng một cây xanh cho thế hệ mai sau.

Nguồn: Kênh tri thức

 

Thuyết minh về vai trò của cây cối trong việc bảo vệ môi trường sống? 

Tính từ năm 1990 đến nay, thế giới đã mất đi 3% diện tích rừng nghĩa là mỗi năm mất 13 triệu ha rừng do chặt phá tràn lan. Nhưng mối năm, có đến 6 triệu ha rừng có nguy co bị phá huỷ. Hiện tại, có 76 nước trên thế giới không còn rừng nguyên sinh. Các bạn của tôi ơi! Liệu những con số này có đáng làm các bạn ngạc nhiên? 

Ai chả biết rừng là ngôi nhà tự nhiên của các loài chim muông. Thiếu đi rừng, muông thú sẽ lang thang để rồi rơi vào tay những người thợ săn. Theo báo cáo mới nhất của UICN, có 16,306 loài bị đe dọa biến khỏi bề mặt trái đất, nhiều hơn con số 16,118 loài công bố năm ngoái. Loài khỉ orang-outan đảo Sumatra, Indonesia, hiện chỉ còn 7.300 con. Trong vòng 75 năm qua, số lượng orang-outan ở đây đã giảm đi hơn 80%. Giống chim vẹt đảo Maurice chỉ có thể tìm thấy duy nhất ở vùng Đông-Nam đảo Maurice, trong khu vườn quốc gia PNBRG. Tại đây, một chương trình bảo tồn giống vẹt quý này đã được tiến hành ráo riết. Nạn tàn phá rừng là nguyên chính gây nên sự hiếm hoi của loài chim này. Hay ngay như trong đất nước ta, bạn có thể dễ dàng nhìn thấy những chú voi trên tivi, sách báo hay trong các vườn thú, vườn quốc gia. Nhưng bạn có biết, Việt Nam hiện nay chỉ còn khoảng 100-110 con?... Tất nhiên, có những con số ở đây bạn thấy còn nó rất lớn. Nhưng hãy thử nghĩ lại một chút. Đó là con số của cả một quốc gia, thậm chí của cả một thế giới thì có còn lớn nữa không? Đây là những con số thật sự đáng tiếc! 

Mà không chỉ với các loài động thực vật, nếu mất đi rừng, sẽ xảy ra hiện tượng lũ lụt, xói mòn, xói lở đất. Các bạn ơi, các bạn hãy thử nghĩ mà xem. Ngưòi nông dân vất vả cả năm trời được có 2 vụ lúa. Vậy mà chỉ một lần lũ về là cuốn sạch mất một vụ rồi. Thử hỏi nỗi khổ tâm ấy ai thấu? Hay dải đất miền Trung thân thương của Tổ quốc năm nào cũng phải chịu khổ vì nước lũ, các hộ dân khó mà tạo được cuộc sống ổn định. Như thế có thiệt thòi hay không? Vâng, xin nói lại rằng tôi và rất nhiều người ở đây chưa từng tham gia chặt phá rừng. Nhưng chúng ta có dám chắc rằng chúng ta chưa từng dung những sản phẩm của rừng xanh? Có những nhu cầu cơ bản quan trọng, nhưng lại có những nhu cầu chỉ để thoả mãn mục đích cá nhân. Hầu hết mọi người đều ưa dung đồ gỗ hơn, nhất là những loại gỗ quý. Vậy thì tại sao không từ bỏ một chút lợi ích cá nhân mà cứu lấy môi trường này- ngôi nhà chung của tất cả chúng ta? 

Rừng là lá phổi xanh của thế giới. Trong mỗi chúng ta, có ai có thể sống thiếu phổi? Cũng như vậy, chúng ta không thể sống thiếu rừng, thiếu cay xanh.

 

Cây cối với vai trò vô cùng quan trọng trong môi trường sống của chúng ta. 

Vai trò trước hết có thể nói là tạo ra môi trường sống! 

Thật vậy, trong sinh giới (thế giới sống), chúng là sinh vật sản xuất ra gần như toàn bộ chất hữu cơ mà từ trong đó là thức ăn của các động vật, tiếp đó động vật lại là thức ăn của các động vật ăn thịt ở cấp cao hơn trong chuỗi thức ăn,... 

Toàn bộ sinh giới có quan hệ chặt chẽ về mặt dinh dưỡng mà cây cối (thực vật) đã sản xuất ra nguồn hữ cơ cơ bản đầu tiên. 

Không chỉ là cỗ máy tạo ra môi trường sống mà nó còn vận hành, bảo tồn và phát triển môi trường sống. Sự sản sinh các chất thải từ con người và động vật trong trao đổi chất với môi trường đặc biệt là CO2 lại được cây xanh sử dụng để tái tạo chất hữu cơ. Việc tái tạo này đã sử dụng không chỉ CO2 mà còn sử dụng năng lượng ánh sáng mặt trời tích lũy trong các hợp chất hữu cơ tạo thành từ đó làm cho nhiệt độ trái đất không tăng cao mà còn dự trữ năng lượng cho con người và động vật sử dụng làm thức ăn, bảo tồn năng lượng (dầu mỏ, than đá có nguồn gốc từ thực vật). 

Nói tóm lại cây cối hay thực vật là một cỗ máy sinh học tuyệt vời mà chúng ta cần phải bảo vệ, triệt để khai thác một cách hợp lí sao cho có ích cho cuộc sống không chỉ của chúng ta mà toàn bộ sinh giới, không chỉ cho hôm nay mà còn cho mai sau. 

Bạn hãy trồng một cây xanh trong góc vườn, hay trong một chậu cây trên thềm cửa sổ, dù chỉ một hành động nhỏ bạn cũng cho thế giới xanh hơn, nhìn chúng bạn sẽ thấy quy luật tuần hoàn và ý nghĩa cuộc sống. 

Mỗi khi tiêu dùng một sản phẩm bạn hãy nhớ nó đa phần là có nguồn gốc hữu cơ hoặc sinh ra có liên quan hoặc sử dụng đến nguyên liệu hữu cơ mà nguyên liệu hữu cơ này lại bắt nguồn từ cây xanh, hãy biết tiết kiệm hợp lí vì tương lai của trái đất, vì tương lai thế giới.

 

Đề bài: Thuyết minh về cây xanh và môi trường

1. Yêu cầu của đề bài

- Về nội dung: Đề văn yêu cầu học sinh thuyết minh về mối quan hệ giữa cây xanh và môi trường, trong đó chủ yếu trình bày được vai trò của cây xanh, tác dụng của nó trong việc giữ gìn và bảo vệ môi trướng sống của con người. Từ đó xác định trách nhiệm của mỗi người trong việc trồng, chăm sóc, bảo vệ cây xanh, bảo vệ môi trường.

- Về cách thức làm bài: Bài viết yêu cầu tạo lập văn bản thuyết minh, nội dung bài là những tri thức, sự hiểu biết của người viết về vai trò của cây xanh đối với môi trường. Bằng những kiến thức của mình, học sinh cần biết vận dụng các phương pháp thuyết minh sao cho phù hợp, kết hợp các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm trong các bài văn để đạt hiệu quả thuyết phục cao nhất.

2. Gợi ý lập dàn ý

a) Mở bài

- Dẫn dắt, giới thiệu về vấn đề cần thuyết minh, đó là mối quan hệ giữa cây xanh và môi trường.

- Nêu khái quát suy nghĩ của bản thân.

b) Thân bài

-Giới thiệu khái niệm môi trường, các yếu tố cấu thành môi trường.

- Cây xanh và những công dụng chủ yếu

- Mối quan hệ giữa cây xanh và môi trường: Vì sao có cây xanh? Cây xanh có vai trò như thế nào đối với sự sống của con người, đối với việc giữ gìn bảo vệ môi trường (tăng vẻ mĩ quan, cân bằng hệ sinh thái, duy trì nguồn khí trong lành, đảm bảo sức khỏe của con người,…)

- Con người cần làm gì để bảo vệ môi trường, cây xanh?

c) Kết bài

Cảm xúc, suy nghĩ những gì bản thân mình có thể làm để đóng góp phần bảo vệ cây xanh, bảo vệ môi trường.

 

Bài làm

Rừng và cây trực tiếp hoặc gián tiếp đều ảnh hưởng tới cuộc sống của con người, động vật và thực vật. Càng ngày con người càng nhận thức được tầm quan trọng của môi trường sống và đã có nhiều hoạt động tác động tích cực lên hệ sinh thái rừng và cây trồng, nhưng sự suy thoái của rừng vẫn đang tiếp tục diễn ra với một tốc độ đáng lo sợ. Để góp phần bảo vệ, khôi phục và phát triển rừng, ở nước ta từ lâu đã có tục lệ đẹp "Mùa xuân là Tết trồng cây"... 

Thực tế đã chứng minh cây có vai trò quan trọng trong việc cải thiện nguồn nước. Các khu rừng trồng làm giảm sụt lở và xói mòn đất. Sự che phủ của rừng và cây ở đầu nguồn góp phần tích cực bảo vệ, cân bằng nước cho sản xuất nông nghiệp. Cây cối thường được trồng trong các đô thị hoặc làng xã để làm giảm bụi, giảm ô nhiễm không khí và bảo vệ các công trình xây dựng lịch sử. Nhiều loài cây cũng đã được trồng để lấy dược liệu và lá, cành, vỏ cây rừng được thu hái để làm thuốc chữa bệnh. Cây Nim (Agadirachta) thường được trồng gần nhà để chống muỗi. Cây Mô-rin-ga thường được trồng xen với cây khác để thanh lọc nước. Cây che bóng và là nơi ẩn nấp cho người, gia súc khi đang làm việc trên các cánh đồng. Đây là một cách làm rẻ, đơn giản để làm giảm cơn nóng bức trên đồng ruộng.

Không có cây thì không có rừng, nhưng rừng không phải chỉ là một tập hợp của những cây rừng. Mỗi một khu rừng là một hệ sinh thái có ảnh hưởng qua lại, chứa đựng bên trong hàng triệu sinh vật sống khác nhau, có nhiều loài trong đó cho đến nay khoa học vẫn chưa mô tả hoặc chưa khám phá được.

Rừng và cây ảnh hưởng tích cực đối với môi trường ở nhiều khía cạnh khác nhau nhưng diện tích rừng bị phá hoại, sự suy thoái của rừng vẫn đang diễn ra ở mức độ rất cao. Theo điều tra mới đây của Tổ chức Lương – Nông thế giới (FAO), rừng bị tàn phá là do: Thiếu lương thực và nghèo đói do tốc độ gia tăng dân số, chiến tranh, thảm hoạ khí hậu; Nhiều quốc gia thiếu trách nhiệm, không có biện pháp để bảo vệ rừng; Không quản lý được việc khai thác rừng; Không rõ ràng về quyền sử dụng đất đai, pháp luật và hệ thống thuế liên quan; Thiếu hiểu biết và ý thức trách nhiệm; Thiếu cơ chế chính sách, quyền hạn, phương pháp để thực hiện chính sách; Quan tâm quá yếu việc phát triển nông thôn dựa vào sự tham gia của người dân.

Để bảo vệ rừng và sự đa dạng tài nguyên rừng, các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam đã xây dựng các chiến lược phát triển rừng, trong đó bảo vệ nghiêm ngặt rừng quốc gia và các khu bảo tồn tự nhiên. Bất kỳ khách du lịch nào đến tham quan khu vực này đều phải chấp nhận và chịu sự kiểm soát của viên chức nhà nước. Đa dạng sinh học là khía cạnh quan trọng nhất trong khu vực này với mục đích là giữ gìn hệ sinh thái cho thế hệ con cháu mai sau.

Tại Việt Nam, theo chiến lược phát triển rừng, đến năm 2020, diện tích rừng cần phát triển là 16 triệu héc-ta (gồm cả rừng cao su), rừng sản xuất hơn tám triệu héc-ta và rừng phòng hộ cùng với rừng đặc dụng gần tám triệu héc-ta. Việt Nam nằm sát biển mà hai phần ba diện tích thuộc vùng đồi núi nhiều và lại trong vùng nhiệt đới nhưng không thể xây dựng lâm phận quốc gia bằng khoảng gần 70% diện tích như Nhật Bản hiện nay. Nguyên nhân, do nước ta vẫn là một nước nông nghiệp và do mật độ số dân của Việt Nam hiện rất cao. Quỹ đất quốc gia còn phải ưu tiên để làm nhiều việc khác, như xây dựng đô thị, sản xuất lương thực, v.v.. và xây dựng khu công nghiệp. Nếu chỉ dừng lại như vậy, thì không thể tạo được đột phá trong việc xây dựng lâm phận quốc gia. Vấn đề quan trọng là hơn tám triệu héc-ta rừng sản xuất ấy sẽ làm thâm canh khoảng bốn triệu héc-ta (hơn hai triệu héc-ta rừng tự nhiên và 1,5 triệu héc-ta rừng trồng thâm canh) ở vùng trọng điểm để cung cấp gỗ, tre, v.v.. làm hàng xuất khẩu, sản xuất bột, giấy v.v.. và tạo ra một số mặt hàng đặc sản rừng. Trong gần tám triệu héc-ta rừng còn lại, thì sẽ có khoảng sáu triệu ha rừng phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển, phòng hộ môi trường và khoảng hai triệu ha rừng đặc dụng là các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên và khu di tích lịch sử. 

Theo ý kiến của các nhà khoa học lâm nghiệp, cần tập trung xây dựng các khu rừng phòng hộ trọng điểm quốc gia (khoảng ba triệu héc-ta), như rừng phòng hộ đầu nguồn thủy điện. Trong hai triệu héc-ta rừng đặc dụng thì tập trung xây dựng hệ thống vườn quốc gia (Tam Đảo, Phong Nha - Kẻ Bàng, v.v...), các khu bảo tồn có đặc trưng nhiệt đới cao và khu di tích lịch sử trọng điểm, không dàn trải. Đây chính là điểm đột phá, tránh lãng phí trong đầu tư lâm nghiệp và là con đường hợp lý để nâng cao năng suất lao động, năng suất rừng, v.v...

Đối với công tác xây dựng rừng, cần phải làm có trọng tâm, trọng điểm, có hiệu quả, vì hiện nay chúng ta không còn ở giai đoạn phủ xanh đất trống, đồi núi trọc nữa. Cần khẩn trương xây dựng các khu rừng công nghiệp thâm canh gồm cả rừng tự nhiên có năng suất, chất lượng tốt, đáp ứng mục tiêu sản xuất đồ gỗ và làm nguyên liệu để chế biến ván nhân tạo, giấy, bột giấy. Hàng hóa đặc sản rừng thì trồng, tạo ra và chế biến, tìm thị trường cho sản phẩm quế, hồi, sa nhân, thảo quả, trầm, mật rắn, mật ong v.v…

Bình luận (0)