Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
17 tháng 7 2019 lúc 18:02

Đáp án B

Hoàng Gia Bảo
Xem chi tiết
Nguyễn Vũ Thu Hương
14 tháng 5 2018 lúc 10:01

- Hướng từ đỉnh núi A1 đến đỉnh núi A2 là hướng tây – đông.

- Sự chênh lệch về độ cao của hai đường đồng mức là 100m.

- Độ cao của đỉnh: A1: 900m; A2: trên 600m; B1: 500m; B2: 650m;B3: trên 500m.

- Đỉnh A1 cách đỉnh A2 khoảng 7.500m.

- Sườn phía tây của A1 dốc hơn sườn phía đông (Các đường đồng mức ở phía tây sát gần nhau hơn).

Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
13 tháng 12 2018 lúc 2:58

- Quá trình xâm lược của các nước đế quốc ở Đông Nam Á.

     + Từ TK XV,XVI - XIX Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan xâm lược Inđônêxia.

     + Từ giữa TK XVI Tây Ban Nha xâm lược Philippin. Từ (1889 – 1902) Philippin là thuộc địa của Mĩ

     + TD Anh chiếm Miến Điện (1885), Mã Lai (Malayxia      + Xingapo) đầu TK XX.

     + TD Pháp chiếm ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia cuối TK XIX

     + Xiêm (Thái Lan ) Anh- Pháp tranh chấp → vẫn giữ được độc lập

Tuyết Ngọc Trịnh diệp
Xem chi tiết
Tuyết Ngọc Trịnh diệp
6 tháng 1 2022 lúc 8:55

sgk/87 sao á

Nguyễn Anh Khoa
6 tháng 1 2022 lúc 8:58

ko có hình nên ko trả lời đc nhé bạn

 

 

dương mai hoàng lan
Xem chi tiết
Bình Trần Thị
24 tháng 10 2016 lúc 22:42

quốc gia đông nam á : việt nam , lào , campuchia , thái lan , mianma , malayxia , singapo , philippin , indonexia , brunay , đông timo

Lê Hiếu
6 tháng 1 2017 lúc 17:28

- Hiện nay Đông Nam Á có 11 nước là Việt nam , Lào , Cam-pu-chia . Thái Lan , Mi-an-ma, Ma –lai- xi -a , Xin-ga-po,In- đô -nê –xi- a , Phi -lip -pin , Bru- nây và Đông Ti -mo .

* Điều kiện tự nhiên :
- Có khí hậu gió mùa : mùa khô và mùa mưa , trồng cây lúa nước, cây ăn củ, ăn quả …..

- Thuận lợi: có khí hậu nóng ẩm , nên thuận lợi cho hoạt động nông nghiệp.

- Khó khăn : có nhiều thiên tai.

* Sự hình thành các vương quốc cổ :

- Thời đồ đá có dấu vết người tối cổ khắp Đông Nam Á .

- Thế kỷ đầu Công Nguyên biết dùng đồ sắt và bắt đầu xuất hiện các quốc gia đầu tiên .

- 10 thế kỷ đầu sau Công Nguyên xuất hiện các quốc gia nhỏ như: Champa , Phù Nam ở hạ lưu sông Mê Kông , vương quốc hạ lưu sông Mê nam , đảo In đô nê xi a .

Từ thế kỷ Xà XVIII phát triển và thịnh đạt :

- In đô nê xi a: vương triều Mô giô pa hít (1213-1527)

- X- XV:Đại Việt ,Champa .

- IX –XV :Campuchia thời kỳ Ang-co huy hòang

- XI : vương quốc Pa-gan (Mianma)

- XIII :người Thái ở thượng nguồn sông Mê Kông di cư xuống phía nam (do Mông Cổ tấn công lập ra Su-khô-thay (Thái lan) ; và Lan xang ( Lào )

- Sau thế kỷ XV Đông Nam Á cổ suy yếu nhưng xã hội phong kiến vẫn tồn tại.

- Giữa thế kỷ XIX bị phương Tây xâm chiếm .

nguyệt nguyen
Xem chi tiết
Phan Thùy Linh
12 tháng 10 2016 lúc 19:10

Các quốc gia trong khi vực đông nam á hiện nay

 Việt NamCampuchiaĐôngTimorIndonesiaLàoMalaysiaMyanmaPhilippinesSingapore,Thái Lan .

Em biết gì về các quốc gia đó

Thời  hình thành các quốc gia đông nam á thời phong kiến :Những năm đầu công nguyên ->đầu thế kỉ X

Thời kì phát triển ,thịnh vượng của các quốc gia đông nam á thời phong kiến : Thế kỉ X -> nửa sau thế kỉ XVIII .

Thời kì suy thoái : Từ nửa sau thế kỉ XVIII các quốc gia phong kiến đông nam á bước vào thời kì suy yếu ,bị thực dân phương Tây xâm lược và trở thành thuộc địa hoặc phụ thộc.

 

 

 

 

 

Bình Trần Thị
6 tháng 10 2016 lúc 11:03

các quốc gia đông nam á hiện nay : việt nam , lào , campuchia , thái lan , mianma , maylayxia , indonexia , xingapo , philippin , đông timo .

 

Giang Thủy Tiên
11 tháng 10 2017 lúc 23:27

Hỏi đáp Lịch sử

Thu Hien Nguyen Thi
Xem chi tiết
Trần Lê Thảo Đan
12 tháng 11 2016 lúc 20:48

MÌNH TẢ ĐỀN THỜ ĂNG-CO-VÁT CỦA CAMPUCHIA NHA BẠN !

Angkor Wat nằm cách thị trấn Xiêm Riệp 5.5 km (3.4 dặm) về phía bắc và chếch về phía đông nam của kinh đô cũ, với trung tâm là đền Baphuon. Đây là một khu vực có nhiều kiến trúc cổ quan trọng và là cực nam của cụm di tích chính Angkor.

Truyền thuyết kể rằng Angkor Wat được xây dựng theo lệnh của Indra để làm cung điện cho con trai Precha Ket Mealea.[7] Theo nhà ngoại giao Chu Đạt Quan (thế kỷ 13), một số người tin rằng ngôi đền được xây dựng chỉ trong một đêm bởi một kiến trúc sư nhà Trời.

Việc thiết kế và xây dựng được tiến hành vào nửa đầu thế kỷ 12 dưới thời vua Suryavarman II (trị vì từ năm 1113 - 1150). Thờ thần Vishnu, ngôi đền được coi như thủ đô và đền thờ của nhà vua. Do không tìm thấy tấm bia nền móng cũng như bất kỳ bản khắc nào nhắc đến ngôi đền vào thời đó, tên ban đầu của nó vẫn là một dấu hỏi, nhưng nó có thể đã được gọi là "Varah Vishnu-lok", theo tên của vị thần được thờ. Công việc có vẻ như đã kết thúc sau khi nhà vua băng hà không lâu, dựa vào một số bức điêu khắc vẫn còn dang dở. Năm 1177, 27 năm sau cái chết của Suryavarman II, Angkor bị tàn phá bởi người Chăm Pa, kẻ thù truyền kiếp của người Khmer.Sau đó vua Jayavarman VII đã phục hưng đế quốc và thành lập một thủ đô và đền thờ mới (Angkor Thom và Bayon) cách Angkor Wat vài kilo mét về phía bắc.

Đến cuối thế kỷ 12, Angkor Wat từ một trung tâm tín ngưỡng Ấn Độ giáo dần chuyển sang Phật giáo và tiếp tục cho đến ngày nay. Không giống nhiều ngôi đền Angkor khác, tuy Angkor Wat một phần bị quên lãng từ sau thế kỷ 16, nó không bao giờ hoàn toàn bị bỏ hoang, một phần nhờ con hào bao xung quanh đã bảo vệ ngôi đền khỏi sự xâm lấn của rừng rậm.

Một trong những người châu Âu đầu tiên đặt chân đến Angkor là António da Madalena, một nhà sư người Bồ Đào Nha đến đây vào năm 1586 và nói rằng "nó là một kiến trúc phi thường mà không giấy bút nào tả xiết, chủ yếu là vì nó không giống bất kỳ công trình nào khác trên thế giới. Nó có những tòa tháp, lối trang trí và tất cả sự tinh xảo mà con người có thể tưởng tượng ra.

Cho đến thế kỷ 17, Angkor Wat vẫn chưa hoàn toàn bị bỏ hoang và có chức năng như một đền thờ Phật giáo. Mười bốn bản khắc chữ có niên đại từ thế kỷ thứ 17 được phát hiện ở khu vực Angkor, cho thấy những người hành hương Phật giáoNhật Bản có thể đã thành lập các khu định cư nhỏ cùng với người dân địa phương Khmer.Cũng vào thời điểm đó, các du khách Nhật nghĩ rằng ngôi đền là khu vườn nổi tiếng Jetavana của Đức Phật, ban đầu nằm trong vương quốc Magadha, Ấn Độ.[14]Bản khắc nổi tiếng nhất kể về Ukondafu Kazufusa, người đón chào năm mới của người Khmer tại Angkor Wat năm 1632.

Giữa thế kỷ 19, nhà tự nhiên học và thám hiểm người Pháp Henri Mouhot đã đến đây và giúp phương Tây biết đến Angkor Wat nhiều hơn bằng các ghi chép của mình. Trong đó ông viết:

"Một trong những ngôi đền đó-một đối thủ của đền Solomon, và được một số Michelangelo thời cổ đại dựng lên - có thể có một chỗ đứng trang trọng bên cạnh những công trình đẹp nhất của chúng ta. Nó vĩ đại hơn tất cả những gì người Hy Lạp hay La Mã để lại cho chúng ta, và thể hiện một sự tương phản đáng buồn cho tình trạng man rợ mà đất nước đang mắc phải."[16]

Mouhot, cũng giống như những người phương Tây khác, khó tin rằng người Khmer có thể xây dựng được ngôi đền và đã ngỡ rằng nó được xây dựng cùng thời với thành Rome. Lịch sử thực sự của Angkor Wat chỉ được ráp nối lại với nhau bởi các bằng chứng nghệ thuật và bút tích được thu thập trong quá trình dọn dẹp và phục dựng trên cả khu vực Angkor. Không có nhà ở hoặc dấu vết gì của việc định cư như đồ dùng nấu ăn, vũ khí hoặc trang phục thường thấy tại các địa điểm cổ đại. Thay vào đó là các bằng chứng của một di tích lịch sử.Angkor Wat nằm cách thị trấn Xiêm Riệp 5.5 km (3.4 dặm) về phía bắc và chếch về phía đông nam của kinh đô cũ, với trung tâm là đền Baphuon. Đây là một khu vực có nhiều kiến trúc cổ quan trọng và là cực nam của cụm di tích chính Angkor.

Truyền thuyết kể rằng Angkor Wat được xây dựng theo lệnh của Indra để làm cung điện cho con trai Precha Ket Mealea.Theo nhà ngoại giao Chu Đạt Quan (thế kỷ 13), một số người tin rằng ngôi đền được xây dựng chỉ trong một đêm bởi một kiến trúc sư nhà Trời.

Việc thiết kế và xây dựng được tiến hành vào nửa đầu thế kỷ 12 dưới thời vua Suryavarman II (trị vì từ năm 1113 - 1150). Thờ thần Vishnu, ngôi đền được coi như thủ đô và đền thờ của nhà vua. Do không tìm thấy tấm bia nền móng cũng như bất kỳ bản khắc nào nhắc đến ngôi đền vào thời đó, tên ban đầu của nó vẫn là một dấu hỏi, nhưng nó có thể đã được gọi là "Varah Vishnu-lok", theo tên của vị thần được thờ. Công việc có vẻ như đã kết thúc sau khi nhà vua băng hà không lâu, dựa vào một số bức điêu khắc vẫn còn dang dở. Năm 1177, 27 năm sau cái chết của Suryavarman II, Angkor bị tàn phá bởi người Chăm Pa, kẻ thù truyền kiếp của người Khmer.Sau đó vua Jayavarman VII đã phục hưng đế quốc và thành lập một thủ đô và đền thờ mới (Angkor Thom và Bayon) cách Angkor Wat vài kilo mét về phía bắc.

Đến cuối thế kỷ 12, Angkor Wat từ một trung tâm tín ngưỡng Ấn Độ giáo dần chuyển sang Phật giáo và tiếp tục cho đến ngày nay. Không giống nhiều ngôi đền Angkor khác, tuy Angkor Wat một phần bị quên lãng từ sau thế kỷ 16, nó không bao giờ hoàn toàn bị bỏ hoang, một phần nhờ con hào bao xung quanh đã bảo vệ ngôi đền khỏi sự xâm lấn của rừng rậm.

Một trong những người châu Âu đầu tiên đặt chân đến Angkor là António da Madalena, một nhà sư người Bồ Đào Nha đến đây vào năm 1586 và nói rằng "nó là một kiến trúc phi thường mà không giấy bút nào tả xiết, chủ yếu là vì nó không giống bất kỳ công trình nào khác trên thế giới. Nó có những tòa tháp, lối trang trí và tất cả sự tinh xảo mà con người có thể tưởng tượng ra.

Cho đến thế kỷ 17, Angkor Wat vẫn chưa hoàn toàn bị bỏ hoang và có chức năng như một đền thờ Phật giáo. Mười bốn bản khắc chữ có niên đại từ thế kỷ thứ 17 được phát hiện ở khu vực Angkor, cho thấy những người hành hương Phật giáo Nhật Bản có thể đã thành lập các khu định cư nhỏ cùng với người dân địa phương Khmer.Cũng vào thời điểm đó, các du khách Nhật nghĩ rằng ngôi đền là khu vườn nổi tiếng Jetavana của Đức Phật, ban đầu nằm trong vương quốc Magadha, Ấn Độ. Bản khắc nổi tiếng nhất kể về Ukondafu Kazufusa, người đón chào năm mới của người Khmer tại Angkor Wat năm 1632.

Giữa thế kỷ 19, nhà tự nhiên học và thám hiểm người Pháp Henri Mouhot đã đến đây và giúp phương Tây biết đến Angkor Wat nhiều hơn bằng các ghi chép của mình. Trong đó ông viết:

"Một trong những ngôi đền đó-một đối thủ của đền Solomon, và được một số Michelangelo thời cổ đại dựng lên - có thể có một chỗ đứng trang trọng bên cạnh những công trình đẹp nhất của chúng ta. Nó vĩ đại hơn tất cả những gì người Hy Lạp hay La Mã để lại cho chúng ta, và thể hiện một sự tương phản đáng buồn cho tình trạng man rợ mà đất nước đang mắc phải.

Mouhot, cũng giống như những người phương Tây khác, khó tin rằng người Khmer có thể xây dựng được ngôi đền và đã ngỡ rằng nó được xây dựng cùng thời với thành Rome. Lịch sử thực sự của Angkor Wat chỉ được ráp nối lại với nhau bởi các bằng chứng nghệ thuật và bút tích được thu thập trong quá trình dọn dẹp và phục dựng trên cả khu vực Angkor. Không có nhà ở hoặc dấu vết gì của việc định cư như đồ dùng nấu ăn, vũ khí hoặc trang phục thường thấy tại các địa điểm cổ đại. Thay vào đó là các bằng chứng của một di tích lịch sử.

Angkor Wat, nằm ở 13°24′45″B 103°52′0″Đ, là một sự kết hợp độc đáo của chùa chiền và núi. Angkor Wat đạt thiết kế tiêu chuẩn của đền thờ cấp quốc gia và các tiêu chuẩn sau này của phòng trưng bày hiện đại. Ngôi đền là một đại diện của núi Meru, quê hương của các vị thần: các quincunx trung tâm của tháp tượng trưng cho năm đỉnh núi, và các bức tường và hào tượng trưng cho các dãy núi bao quanh và đại dương. Khả năng đi vào các khu vực trên cao của đền thờ càng ngày càng khó, với các giáo dân chỉ được vào tầng thấp nhất.

Không giống như hầu hết các ngôi chùa Khmer, Angkor Wat được định hướng về phía tây hơn là phía đông. Điều này đã khiến nhiều người (kể cả Maurice Glaize và George Coedès) đã kết luận rằng Suryavarman dự định xây đền này làm lăng mộ của mình.Thêm bằng chứng cho quan điểm này là các bức phù điêu, mà tiến hành trong một hướng ngược chiều kim đồng hồ-prasavya trong tiếng Hindu-vì đây là mặt trái của thứ tự bình thường. Nghi lễ diễn ra trong trật tự ngược trong nghi thức tang lễ Brahminic.Nhà khảo cổ học Charles Higham cũng tìm thấy và mô tả một cái lọ có thể là một cái lọ dùng để chứa tro đã được tìm thấy trong tháp trung tâm.Đền đã được đề cử là như là khoản chi phí lớn nhất cho việc xây dựng lăng mộ để lưu trữ xác người chết.Tuy nhiên Freeman và Jacques lưu ý rằng một số ngôi đền khác của Angkor có định hướng khác với định hướng Đông nói chung, và cho rằng việc định hướng Angkor Wat là vì nghi lễ thờ cúng Vishnu, vị thần có liên quan với phương Tây.

Eleanor Mannikka đã đề xuất một lời giải thích thêm về Angkor Wat. Dựa trên định hướng và kích thước của ngôi đền, và trên các nội dung và cách sắp xếp các phù điêu, bà lập luận rằng cấu trúc đền đại diện cho một kỷ nguyên mới với tuyên bố hòa bình dưới thời vua Suryavarman II: "vì các số đo của chu kỳ thời gian mặt trời và mặt trăng đã được gắn vào không gian thiêng liêng của Angkor Wat, nhiệm vụ cai quản đất nước thiêng liêng này được chạm khắc vào phòng và hành lang ngôi đền, với ý nghĩa là để duy trì quyền lực của nhà vua và để tôn vinh và thờ phượng các vị thần ở trên trời.Nhận xét của Mannikka đã được đón nhận với sự kết hợp giữa quan tâm và hoài nghi trong giới học thuật.Bà đã nhận xét khác hẳn với những suy đoán của những người khác, chẳng hạn như Graham Hancock, rằng Angkor Wat là một phần của việc mô phỏng chòm sao Thiên Long.

Thanh Hằng
Xem chi tiết
Anh Hoang
6 tháng 3 2022 lúc 20:28

_Trung và Nam Mĩ: các đô thị từ 3 triệu dân trở lên phân bố nhiều cả trên mạch núi An-đét lẫn ven biển phía đông nam.

_ Ở Bắc Mĩ: các đô thị từ 3 triệu dân trở lên phân bố chủ yếu ở phía đông.

- Các đô thị ở Trung và Nam Mĩ có số dân trên 5 triệu người: Mê-hi-cô Xi-ti, Bô-gô-ta, Li-ma, Xan-ti-a-gô, Ri-Ô đê Gia-nê-rô, Xao Pao-lô, Bu-ê-nôt Ai-ret.

Trần Đức Tài
Xem chi tiết
Gà mê đam
25 tháng 2 2021 lúc 20:04

Các kiểu môi trường chính ở Trung và Nam Mĩ:

Rừng xích đạo xanh quanh năm: Phân bố ở đồng bằng Amazon, có rừng rậm xanh quang năm

- Rừng rậm nhiệt đới: Phân bố ở eo đất Trung Mĩ và quần đảo Ăng ti, có rừng rậm phát triển

- Rừng thưa và xavan: Phân bố ở phía tây eo đất Trung Mĩ, quần đảo Ăng ti và đồng bằng Ô-ri-nô-cô, có rừng thưa và xavan điển hình

- Thảo nguyên: Phân bố ở đồng bằng Pam-pa, thực vật thay đổi theo mùa

- Hoang mạc, bán hoang mạc: Phân bố ở phía tây duyen hải An-đét, cao nguyên Pa-ta-gô-ni, có các loại cây bụi gai

- Núi cao: Phân bố ở miền núi An đét, thực vật thay đổi từ bắc-nam, từ thấp lên cao

Trần Mạnh
25 tháng 2 2021 lúc 20:06

- Rừng xích đạo xanh quanh năm: Phân bố ở đồng bằng Amazon

- Rừng rậm nhiệt đới: Phân bố ở eo đất Trung Mĩ và quần đảo Ăng ti

- Rừng thưa và xavan: Phân bố ở phía tây eo đất Trung Mĩ, quần đảo Ăng ti và đồng bằng Ô-ri-nô-cô

- Thảo nguyên: Phân bố ở đồng bằng Pam-pa

- Hoang mạc, bán hoang mạc: Phân bố ở phía tây duyen hải An-đét, cao nguyên Pa-ta-gô-ni

- Núi cao: Phân bố ở miền núi An đét