Trong mười năm đầu xây dựng chế độ mới ( 1949-1959), nhân dân Trung Quốc đã đạt những thành tựu như thế nào ? Chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong thời gian này ?
Mười năm đầu xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa (1949 - 1959), Trung Quốc đã thi hành chính sách đối ngoại như thế nào?
A. Chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
B. Chống Mĩ và các nước tư bản chủ nghĩa
C. Thi hành một chính sách đối ngoại tích cực nhằm củng cố hòa bình và thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới
D. Quan hệ thân thiện với Mĩ và các nước tư bản chủ nghĩa khác
Mười năm đầu xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa (1949 - 1959), Trung Quốc đã thi hành chính sách đối ngoại như thế nào?
A. Chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
B. Chống Mĩ và các nước tư bản chủ nghĩa.
C. Thi hành một chính sách đối ngoại tích cực nhằm củng cố hòa bình và thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới.
D. Quan hệ thân thiện với Mĩ và các nước tư bản chủ nghĩa khác.
Mười năm đầu xây dựng chế độ Xã hội chủ nghĩa (1949 - 1959), Trung Quốc đã thi hành chính sách đối ngoại như thế nào?
A. Chống Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa.
B. Chống Mĩ và các nước Tư bản chủ nghĩa.
C. Thi hành một chính sách đối ngoại tích cực nhằm củng cố hòa bình và thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới.
D. Thi hành một chính sách đối ngoại nhằm đẩy lùi các phong trào cách mạng thế giới.
Trong những năm 1949-1959, Trung Quốc thi hành chính sách ngoại giao như thế nào?
A. Củng cố hoà bình và thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới.
B. Liên minh với Mĩ và Tây Âu để chống Liên Xô.
C. Hòa bình, trung lập nhưng vẫn ngả về phương Tây.
D. Củng cố mối quan hệ với các nước đã từng đặt quan hệ ngoại giao.
Trong những năm 1949-1959, Trung Quốc thi hành chính sách ngoại giao như thế nào?
A. Củng cố hoà bình và thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới.
B. Liên minh với Mĩ và Tây Âu để chống Liên Xô.
C. Hòa bình, trung lập nhưng vẫn ngả về phương Tây.
D. Củng cố mối quan hệ với các nước đã từng đặt quan hệ ngoại giao.
Trình bày những thành tựu mà nhân dân Trung Quốc đã đạt được trong công cuộc xây dựng chế độ mới qua mười năm đầu sau khi cách mạng thắng lợi (1949 – 1959).
1. Thành tựu mà nhân dân Trung Quốc đã đạt được trong công cuộc xây dựng chế độ mời qua mười năm đầu sau khi cách mạng thắng lợi (1949 – 1959):
- Ngày 1/10/1949, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời đánh dấu Cách mạng dân tộc, dân chủ Trung Hoa đã hoàn thành. Từ đây, nhân dân Trung Hoa bắt đầu xây dựng chế độ mới dưới sự lãnh đạo cuả Đảng Cộng sản Trung Quốc.
- Từ năm 1950, Trung Quốc tiến hành những cải cách quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hoá nhằm xây dựng đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội cải cách ruộng đất, hợp tác hoá nông nghiệp, cải tạo công – thương nghiệp tư bản, xây dựng nền công nghiệp hoá chủ nghĩa xã hội, phát triển văn hoá giáo dục.
- Sau 10 năm xây dựng chế độ mới (1949 – 1950) nền văn hoá, giáo dục đạt được nhiều thành tựu quan trọng (Sản lượng công nghiệp tăng 140%, nông nghiệp tăng 25%).
2. Chính sách đối ngoại: Tháng 2/1950, Trung Quốc kí Hiệp ước hữu nghị liên minh và tương trợ với Liên Xô. Tháng 10/1950, giúp đỡ Triều Tiên chống Mĩ, hộ Việt nam và các nước châu Á, Phi, Mĩ Latinh đấu tranh giải phóng dân tộc. Địa vị cuả Trung Quốc ngày càng được nâng cao trên chính trường quốc tế.
Đến cuối tháng 8-1945, với sự giúp sức của Hồng quân Liên Xô và quân Đồng Minh, cùng sự nỗ lực của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc dân Đảng, cuối cùng cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc kéo dài nhiều năm đã giành được thắng lợi. Tháng 9-1945, Nhật Bản chính thức tuyên bố đầu hàng quân Đồng Minh.
Lợi dụng danh nghĩa tiếp quản, tập đoàn Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch đã chiếm nhiều ngân hàng xí nghiệp công nghiệp và tài sản thương nghiệp quốc gia mà trước đây phát xít Nhật chiếm giữ.
Lúc này, cục diện cách mạng ở Trung Quốc do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo đã có nhiều biến đổi quan trọng. Lực lượng quân đội phát triển nhanh chóng, vùng giải phóng được mở rộng. Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành hoà bình, độc lập dân tộc. Nhờ vận dụng linh hoạt đường lối chiến tranh, nhân dân, Đảng Cộng sản và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã dần dần giành lại thế chủ động. Tháng 10-1945, Đảng Cộng sản và Quốc dân Đảng kí hiệp ước chấm dứt nội chiến và triệu tập hội nghị chính trị hiệp thương để xây dựng lại đất nước. Mặc dù đã tiến hành hội nghị hiệp thương nhưng tập đoàn Tưởng Giới Thạch - với sự giúp đỡ của đế quốc Mỹ - vẫn ráo riết chuẩn bị nội chiến.
Tháng 7-1946, Quốc dân Đảng đồng loạt tấn công vào các vùng giải phóng do Đảng Cộng sản kiểm soát. Từ cuối 1946, Đảng Cộng sản tiếp tục tổ chức các lực lượng nông dân trong các vùng mới giải phóng giành lại ruộng đất từ tay phong kiến, địa chủ, thực hiện dần từng bước nền dân chủ mới. Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã thực hiện chiến lược phòng ngự tích cực, không giữ đất đai mà chủ yếu nhằm tiêu diệt sinh lực địch và xây dựng lực lượng.
Từ tháng 7 đến tháng 9-1946, Quân Giải phóng đã chuyển từ phòng ngự sang phản công trên quy mô cả nước. Sau đó, các vùng Liêu Ninh, Thẩm Dương, Thiên Tân… lần lượt được giải phóng. Tháng 4-1949, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc vượt sông Trường Giang tấn công vào sào huyệt của Quốc dân Đảng. Nền thống trị của Quốc dân Đảng chính thức sụp đổ.
Từ 21 đến 30-9-1949, Hội nghị chính trị hiệp thương được triệu tập tại Bắc Kinh để thông qua Cương lĩnh chung, bầu Hội đồng Chính phủ do Mao Trạch Đông làm Chủ tịch. Hội đồng đã cử Chu Ân Lai làm Thủ tướng Quốc vụ Viện kiêm bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Ngày 1-10-1949, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa chính thức được thành lập.
Cách mạng dân tộc dân chủ Trung Quốc hoàn thành thắng lợi năm 1949 là một trong những sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại trên thế giới. Cuộc cách mạng đã kết thúc hơn 100 năm nô dịch và thống trị của đế quốc, phong kiến tư sản mại bản. Cách mạng 1949 ở Trung Quốc mở đầu thời kì lịch sử mới - thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc.
Với diện tích bằng 1/4 châu Á và dân số gần 1/4 dân số thế giới, thắng lợi của cách mạng Trung Quốc đã góp phần quan trọng tăng cường ảnh hưởng và lực lượng của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới và có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Trong giai đoạn 1949 - 1959, Trung Quốc thi hành đường lối đối ngoại như thế nào?
A. Thụ động, phụ thuộc vào Liên Xô
B. Thù địch với nhiều quốc gia
C. Nước lớn
D. Hòa bình, tích cực ủng hộ phong trào cách mạng thế giới
Đáp án D
Trong giai đoạn 1949-1959, Trung Quốc thi hành chính sách đối ngoại tích cực nhằm củng cố hòa bình và thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới
Câu 1: Người Trung Quốc đã xây dựng nhà nước đầu tiên của mình từ năm nào?
Câu 2: Người Trung Quốc đã xây dựng nhà nước đầu tiên của mình ở khu vực nào?
Câu 3: Công cụ lao động bằng sắt ở Trung Quốc xuất hiện dưới thời nào?
Câu 4:Chế độ phong kiến Trung Quốc đã được hình thành và xác lập vào thời nào?
Câu 5: Những thành thị đầu tiên của người Ấn Độ xuất hiện vào thời nào?
Câu 6: Những thành thị cổ nhất của người Ấn Độ xuất hiện ở những lưu vực nào?
Câu 7: Giữa thế kỉ 19 Ấn Độ trở thành thuộc địa của ai?
a, Tại sao sử cũ gọi giai đoạn lịch sử nước ta từ năm 179 TCN đến thế kỉ X là thời Bắc thuộc?
b, Trong thời gian Bắc thuộc, nước ta đã bị mất tên, bị chia ra, nhập vào với các quận, huyện của Trung Quốc với những tên gọi khác nhau như thế nào? Hãy thống kê cụ thể qua từng giai đoạn bị đô hộ.
c, Chính sách cai trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc đối với nhân dân ta trong thời Bắc thuộc như thế nào? Chính sách thâm hiểm nhất của họ là gì?
a,Từ năm 179TCN cho đến TK X, nước ta chịu sự đô hộ của phương Bắc (Trung Quốc bây giờ). Vì vậy, trong sử cũ, người ta gọi giai đoạn từ năm 179TCN đến thế kỷ X là thời kỳ Bắc thuộc.
b,-Trong suốt hơn 1000 năm đô hộ, đất nước ta bị bọn phong kiến phương Bắc chia ra, nhập vào lãnh thổ Trung Quốc với những tên gọi khác nhau : Nhà Triệu chia nước ta thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân rồi nhập vào Nam Việt. Nhà Hán chia lại thành ba quận Giao Chỉ, Cửu Chán và Nhật Nam rồi gộp với 6 quận của Trung Quốc gọi là châu Giao. Nhà Ngô chia châu Giao thành Quảng Châu và Giao Châu. Nhà Đường đổi thành An Nam đô hộ phủ.
c,-Chính sách cai trị của bọn đỏ hộ đối với nhân dân ta vô cùng tàn bạo, chia lại đơn vị hành chính, cử quan lại người Hán cai trị tới cấp huyện, tiến hành bóc lột dã man bằng các loại thuế và lao dịch nặng nề, vơ vét tài nguyên bằng cách bắt cống nộp, đẩy nhân dân ta vào cảnh khốn cùng. Thâm hiểm nhất là chính sách đồng hoá dân ta về mọi mặt hòng xoá bỏ dân tộc ta...
a, Vì trong suốt thời kỳ từ trước năm 179 TCN đến thế kỉ thứ X, nước ta liên tiếp bị các triều đại phong kiến phương Bắc đô hộ và thống trị nên sử cũ mới gọi là "thời kỳ Bắc thuộc"
b, Trong suốt hơn 1000 năm đô hộ, đất nước ta bị bọn phong kiến phương Bắc chia ra, nhập vào lãnh thổ Trung Quốc với những tên gọi khác nhau : Nhà Triệu chia nước ta thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân rồi nhập vào Nam Việt. Nhà Hán chia lại thành ba quận Giao Chỉ, Cửu Chán và Nhật Nam rồi gộp với 6 quận của Trung Quốc gọi là châu Giao. Nhà Ngô chia châu Giao thành Quảng Châu và Giao Châu. Nhà Đường đổi thành An Nam đô hộ phủ.
c, Chính sách cai trị của bọn đỏ hộ đối với nhân dân ta vô cùng tàn bạo, chia lại đơn vị hành chính, cử quan lại người Hán cai trị tới cấp huyện, tiến hành bóc lột dã man bằng các loại thuế và lao dịch nặng nề, vơ vét tài nguyên bằng cách bắt cống nộp, đẩy nhân dân ta vào cảnh khốn cùng. Thâm hiểm nhất là chính sách đồng hoá dân ta về mọi mặt hòng xoá bỏ dân tộc ta...
a. từ năm 179 tcn - tk X ( mười) có j đó xảy ra tham khảo bên dưới
b. cx tham khảo bên dưới