Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Vân Nguyễn Hồng Cẩm
Xem chi tiết
Van Khoa Vuong
11 tháng 12 2016 lúc 21:37

Thời gian : 40-30 vạn năm trước

Địa điểm : Hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai(Lạng Sơn )

Núi Đọ, Quan Yên (Thanh Hóa )

Xuân Lộc ( Đồng Nai)

Hiện vật : Răng, xương của ngwoif tồi cổ, công cụ bằng đá.

Nguyễn Hoàng Vinh
18 tháng 12 2016 lúc 18:17

Dấu tích là...,thời gian...,địa điểm...,hiện vật...

bucminh

Bà DŨNG Vlogs
Xem chi tiết
Huyen Nguyen
Xem chi tiết

1. Khi đặt viên đá lên

=> Viên đá tỏa nhiệt

=> Khung khí xung quanh viên đá hạ nhiệt

=> Hơi nước ngưng tụ thành những giọt nước.

2. Hộp dầu ăn nặng là:

500 + 300 - 200 = 600 (g)

Khối lượng dầu ăn ko tính vỏ hộp là:

600 - 100 = 500 (g)

Dầu ăn trong hộp có thể tích là:

1,2 . 78% = 0,936 (l) = 936 ml

Khối lượng riêng của dầu ăn là:

500 : 936 \(\approx\) 0,534 (g/ml)

=> Khối lượng riêng của dầu ăn tính theo kg/l cũng là 0,534 kg/l

Thế này là hơi ít vì mình biết khối lượng của dầu ăn là 0,8 kg/l mà !

nguyen thi thu hien
Xem chi tiết
Linh nguyen thuy
30 tháng 12 2018 lúc 15:44

Những chuyển biến mới trong đời sống kinh tế của người nguyên thủy trên đất nước ta được phát hiện ở Phùng Nguyên(Phú Thọ),Hoa Lộc(Thanh Hóa),Lung Leng(Kon Tum) và trong khoảng thời gian từ 4000-3500 năm.

Chúc bn học tốt!

Đoàn Nguyễn Bảo Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Phú An
21 tháng 12 2018 lúc 19:52

1.Cách đây 3 - 4 triệu năm

2.1000 năm

3.Khoảng 4 vạn năm trước đây

4.Từ cuối thiên niên kỉ IV(4) đến đầu thiên niên kỉ III(3) trước Công nguyên

5.Ai Cập , Lưỡng Hà , Trung Quốc , Ấn Độ

6.Câu này chịu leuleu

7.Viết không dấu ko dịch được câu hỏi

8.Khoảng đầu thiên niên kỉ I(1) trước Công nguyên

9.Chủ nô và nô lệ

10.Người cổ đại phương Đông không sáng tạo ra loại chữ viết nào . Người cổ đại phương Tây sáng tạo ra hệ chữ cái a,b,c,... gồm 26 chữ

11.Hy Lạp

Thôi mệt lắm mở SGK ra toàn câu dễ mà

nguyen dinh dung
14 tháng 1 2021 lúc 20:38

dai the ai ma tra loi het đuoc

Khách vãng lai đã xóa
Phạm Thị Lan Hương
Xem chi tiết
Khuynh ly Nam cung
1 tháng 11 2019 lúc 12:48

các dấu tích mà ngày nay ta tìm được là

- răng, xương cốt của người nguyên thủy

- công cụ lao đông : rìu đá..

- trang sức , đồ gốm bằng đá

- hình vẽ trên hang đá

Khách vãng lai đã xóa
tronglahot
11 tháng 11 2019 lúc 18:23

cho like nha làm khổ lắm đó

TRANG CHỦ GIỚI THIỆU NỘI DUNG TƯ LIỆU QUẢN TRỊ NỘI DUNG
I. Những dấu tích Người tối cổ ở Việt Nam. Trên đất nước ta, các nhà khảo cổ học mới chỉ phát hiện được dấu vết Người tối cổ cách nay khoảng 500.000 năm. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy các hóa thạch người, các di tích cư trú, các công cụ lao động đá ghè đẽo thô sơ của người tối cổ ở trên nhiều địa bàn của lãnh thổ Việt Nam như Lạng Sơn, Thanh Hóa, Đồng Nai, Bình Phước... họ sống thành từng bầy, chủ yếu săn bắt thú rừng và hái lượm hoa quả để sống.

- Di tích cổ sinh hóa thạch (răng) của người Homo Erectus (người đứng thẳng) ở hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn) và răng người Homo Sapiens (người khôn ngoan sớm) ở Thẩm Ồm (Nghệ An) niên đại 250.000 – 140.000 năm cách ngày nay, hang Hùm (Yên Bái) niên đại 80.000 – 70.000 năm cách ngày nay.

- Di tích cư trú, chế tác công cụ ở núi Đọ, núi Nuông, Quan Yên (Thanh Hóa), Suối Đá, Gia Tân (Đồng Nai)…

Một số loại mảnh tước, công cụ chặt thô, công cụ mũi nhọn… bằng đá gốc Bazan có dấu vết sử dụng của người tiền sử trong việc săn bắt, xẻ thịt hoặc trong chiến đấu. Các động tác thường được thực hiện là: chém, đâm, cắt, chặt, ném, nạo, gọt… Việc biết sử dụng công cụ có cạnh sắc, mũi nhọn cho thấy người tiền sử đã vượt ra khỏi cuộc sống động vật. Công cụ đá dần được ghè đẽo, gia công, tu chỉnh ngày càng sắc bén.

Hang Thẩm Hai -Thẩm Khuyên (Lạng Sơn)

Hang Thẩm Hai - Thẩm Khuyên (Lạng Sơn)

Một hiện vật được tìm thấy ở Hang Thẩm Hai - Thẩm Khuyên (Lạng Sơn). Rìu tay đá cũ Núi Đọ (Thanh Hóa) II. Sự hình thành và phát triển của công xã thị tộc 1. Sự hình thành công xã thị tộc Trải hàng vạn thế hệ, người tối cổ từ cuộc sống bầy đàn tiến hóa thành người tinh khôn với công xã thị tộc, với hoạt động lao động săn bắt hái lượm để sinh tồn, người tiền sử Việt Nam đã tự hoàn thiện kỹ năng đôi tay, năng lực tư duy, tiếng nói… đi từ sử dụng cục đá sẵn có trong tự nhiên lên trình độ chế tác công cụ đá, từng bước có những phát minh làm thay đổi chất lượng cuộc sống.

Dấu tích của người tinh khôn được tìm thấy ở nhiều nơi trên nước ta. Họ sống thành các thị tộc, sử dụng công cụ ghè đẽo, lấy săn bắt và hái lượm làm nguồn sống chính.

- Di tích cổ sinh hóa thạch của người Homo Sapiens Sapiens (người khôn ngoan hiện đại) ở Thung Lang (Ninh Bình), Kéo Lèng (Lạng Sơn) niên đại khoảng 30.000 năm cách ngày nay.

- Di tích cư trú, chế tác công cụ ở Mái đá Ngườm (Thái Nguyên) niên đại khoảng 30.000 – 23.000 năm cách ngày nay, ở Lung Leng (Kon Tum) niên đại 30.000 – 18.000 năm cách ngày nay, ở Sơn Vi (Phú Thọ) niên đại khoảng 23.000 – 11.000 năm cách ngày nay.

- Xuất hiện kỹ nghệ Ngườm (Thái Nguyên) chế tác công cụ mũi nhọn và công cụ nạo cắt bằng đá cuội với kỹ thuật gia công mảnh tước, ghè đẽo và tu chỉnh, cho phép người tiền sử cải tiến năng suất lao động cao hơn. Với việc phát minh kỹ thuật ghè đẽo, tu chỉnh đá cuội, người tiền sử đã bước đầu tự chế được công cụ cho mình theo ý muốn, không còn lệ thuộc vào những cạnh sắc bất kỳ của những mảnh tước như trước nữa. Công cụ Ngườm đã được ghè đẽo tạo cạnh sắc theo chiều ngang, mở ra ý tưởng hình thành những con dao đá sau này.

- Văn hóa Sơn Vi có phạm vi phân bố rộng rãi với hàng trăm di tích được phát hiện trên các tỉnh miền Bắc Việt Nam. Công cụ văn hóa Sơn Vi được chế tác từ đá cuội một cách công phu với kỹ thuật ghè đẽo, bổ ở hai đầu hay ở rìa cạnh thành hình “múi” thực hiện được nhiều chức năng hơn so với giai đoạn trước. So với công cụ Ngườm, công cụ cuội Sơn Vi ghè đẽo rìa cạnh đã có hình dạng ổn định, thuận lợi hơn trong việc sử dụng với cạnh sắc hình múi tạo vết cắt hoặc vết chém sâu hơn mà vẫn sử dụng lực bình thường.

2. Sự phát triển của công xã thị tộc

Nhờ những tiến bộ trong kỹ thuật chế tác công cụ cuối hậu kỳ đá cũ, người tiền sử Việt Nam có điều kiện sống tốt hơn nên ngày càng đông hơn, từ thị tộc đã phát triển thành bộ lạc và từ các miền rừng núi tràn xuống đồng bằng, vùng ven biển để bắt đầu cuộc sống định cư với các hoạt động kinh tế đa dạng: săn bắn, hái lượm theo chu kỳ của nền nông nghiệp nguyên thủy, chăn nuôi nguyên thủy, chế tạo đồ đá, đồ gốm, đồ gỗ, đồ xương… phát triển các loại hình đan, dệt, làm đồ trang sức… cũng như các hoạt động nghệ thuật, tín ngưỡng, tôn giáo. Gắn liền với Văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn và cuộc cách mạng Đã mới.

Di tích sơ kỳ đá mới xuất hiện đều khắp các vùng miền Việt Nam: vùng núi Tây Bắc (Hòa Bình, Bắc Sơn), vùng Đông Bắc (Cái Bèo – Hải Phòng), Soi Nhụ (Quảng Ninh), đồng bằng ven biển Quỳnh Văn (Nghệ An), Đa Bút (Thanh Hóa), Bàu Dũ (Quảng Nam)… Di tích sơ kỳ đá mới thường gặp là các loại mộ táng có công cụ đá, công cụ xương, mảnh gốm, tàn tích than tro, xương động vật, vỏ nhuyễn thể… đôi khi còn di cốt. Nguyên liệu để chế tác công cụ đá sơ kỳ đá mới đã phong phú hơn thời trước, ngoài đá cuội còn có sa thạch, đá ngọc, thạch anh, phiến thạch, gỗ, tre,…

v Hiện vật văn hóa Hòa Bình

Văn hóa Hòa Bình là văn hóa nổi tiếng tiêu biểu cho kỹ thuật chế tác đá thời sơ kỳ đá mới ở Việt Nam. Kỹ thuật này đã được sử dụng trong một vùng rộng lớn từ Nam Trung Quốc đến hết khu vực Đông Nam Á và hiện nay đã trở thành một thuật ngữ khảo cổ học quốc tế: “Hoabinhian” nghĩa là công cụ đá kiểu Hòa Bình.

Các loại công cụ đá cuội Hòa Bình với kỹ thuật ghè chung quanh và ghè hai mặt trong đó công cụ hình đĩa nhiều cạnh sắc, các loại rìu ngắn và nhóm công cụ mài lưỡi… là loại hình đặc trưng của văn hóa Hòa Bình. Cũng đã có dấu vết đồ gốm trong văn hóa Hòa Bình. Kỹ thuật ghè hai mặt với trình độ khá điêu luyện tạo ra công cụ hình đĩa có độ sắc bén cao. Công cụ này tạo điều kiện thoải mái hơn cho người tiền sử khi sử dụng và tạo được năng suất cao hơn.

v Hiện vật văn hóa Bắc Sơn

Gồm các loại công cụ đá, mảnh gốm…trong đó đáng chú ý nhất là loại rìu mài lưỡi cho thấy kỹ thuật mài đá đã trở nên phổ biến. Từ đó người tiền sử đã sở hữu loại công cụ sắc bén làm tăng năng suất lao động. Một loại di vật nổi tiếng là công cụ có vết mài lõm đôi, vết mài lõm này thường được gọi là dấu Bắc Sơn. Kỹ thuật cưa đá cũng đã thấy xuất hiện trong văn hóa Bắc Sơn. Đồ gốm thuộc văn hóa Bắc Sơn không nhiều, phần lớn là các loại đồ đựng có miệng loe đáy tròn, kiểu dáng thô, độ nung thấp.

v Di vật di tích Cầu Sắt (Đồng Nai)

Rìu có kích thước nhỏ, chủ yếu sử dụng trong việc gọt, nạo, cắt, bổ… Người tiền sử Đồng Nai - Nam bộ dùng kỹ thuật cưa và mài để chế tác chiếc rìu này.

Cách đây khoảng 5000-6000 năm,con người đã có tiến bộ vượt bậc trong việc chế tạo công cụ đá với những kỹ thuật mới như: mài, cưa, khoan… làm công cụ ngày càng hoàn thiện, có hình dạng đẹp đẽ, vừa bền chắc vừa dễ sử dụng trong lao động, chiến đấu hoặc dùng để chế tạo các loại công cụ khác. Phát triển kĩ thuật làm đồ gốm bằng bàn xoay. nó làm cho năng suất lao động tăng lên, nông nghiệp trồng lúa phổ biến. Dân số gia tăng. Đời sống vật chất ổn định, đời sống tinh thần nâng cao. Địa bàn cư trú được mở rộng. Trao đổi sản phẩm được đẩy mạnh. Công cụ chặt ở Nậm Tun, Lai Châu Rìu đá của văn hóa Sơn Vi Hang Muối nơi phát hiện dấu tích văn hóa Hòa Binh đầu tiên Rìu đá Hòa Bình - Bắc Sơn Chày và bàn ngiền, võ nhuyễn thể văn hóa Bắc Sơn Võ nhuyễn thể, xương động vật các nền văn hóa vùng ven biển Mô hình hang động cư trú của cư dân văn hóa Hòa Bình Vòng tay, khuyên tai văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn Mặt người được khắc trên hang Đồng Nội, Hòa Bình. Sưu tập công cụ đá và đồ đá mới ở Quảng Bình, Hải Phòng Công cụ, đồ gốm ở Mai Pha, Lạng Sơn
Khách vãng lai đã xóa
Lam Bao Ngoc
Xem chi tiết
Vũ Hương Hải Vi
20 tháng 2 2018 lúc 20:55

Tây Nguyên là nơi bắt nguồn của nhiều con sông. Các sông ở đây chảy qua nhiều vùng có độ cao khác nhau nên lòng sông lắm thác ghềnh. Người ta đã đắp đập, ngăn sông tạo thành hồ lớn và dùng sức nước chảy từ trên cao xuống để chạy tua-bin sản xuất ra điện. Các hồ chứa này còn có tác dụng giữ nước, hạn chế những cơn lũ bất thường

Dưới thời lý, đạo Phật được truyền bá rộng rãi trong cả nước. Các vua nhà Lý như Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông đều theo đạo Phật. Nhiều nhà sư được giữ cương vị quan trọng trong triều đình.

Thời Lý, chùa mọc lên khắp kinh thành, làng xã. Triều đình bỏ tiền ra xây dựng hàng trăm ngôi chùa. Ở các làng, nhân dân cũng đóng góp tiền của xây dựng chùa, hầu như làng xã nào cũng có chùa.

Tố Uyên
Xem chi tiết
Lê Nhật Phương
5 tháng 1 2018 lúc 12:09

Trên thế giới, người tối cổ (người vượn) xuất hiện cách đây từ 4 triệu năm đến 50 - 40 vạn năm. Sự xuất hiện của người tối cổ - từ vượn thành người - đánh đấu sự tiến triển nhảy vọt từ vượn thành người. Ở Việt Nam, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều dấu tích của người tối cổ tương ứng với thời kì đồ đá cũ.
Trong các hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (thuộc xã Tô Hiệu, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn), các nhà khảo cổ học đã phát hiện được một số răng hoá thạch người vượn và nhiều xương cốt động vật thuộc thời kì Cánh tân. ở hang Thấm Khuyên, người ta đã tìm được 9 chiếc răng hoá thạch, trong đó có: 1 răng sữa, 1 răng cửa, 3 răng hàm trên, 1 răng nanh và 3 răng hàm dưới.
Ở hang Thẩm Hai cũng đã phát hiện được 1 chiếc răng hoá thạch và được đoán định là răng sữa hàm trên.
Qua nghiên cứu cho thấy, 10 chiếc răng nói trên vừa có đặc điểm giống với răng người vượn Bắc Kinh (Trung Quốc), lại vừa mang những đặc trưng của người Nêanđéctan. Từ đó, có thể đoán định được rằng, người vượn ở Thẩm Khuyên, Thẩm Hai thuộc vào các cá thể Homo Erectus (Người đứng thẳng) đang trên quá trình tiến hoá, tồn tại trong khoảng thời gian cuối trung kỳ cánh tân, cách ngày nay chừng 30 vạn năm
Ở nhiều địa phương trên cả nước, các nhà khảo cổ học cũng tìm thấy nhiều dấu tích về công cụ lao động của người tối cổ. Ở di chỉ núi Đọ (Thanh Hoá), người ta đã tìm thấy hơn 2.500 công cụ bằng đá. Các công cụ này được làm bằng đá gốc, tất cả đều được chế tác bằng đá bazan - một loại đá cứng nhưng dẻo, có thể tách theo hướng người ta định và tạo ra những mảnh tước có rìu cạnh sắc.
Núi Đọ (Thanh Hóa): Các mảnh đá ghè (còn gọi là mảnh tước) ở núi Đọ đều rất thô, nặng, được đoán định là công cụ dùng để cắt, cạo của người vượn ở nước ta. Bên cạnh mảnh tước là công cụ phổ biến (chiếm hơn 90% tổng số các loại hiện vật) ở núi Đọ còn tìm thấy nhiều hạch đá (là những hòn đá mà từ đó người vượn ghè ra các mảnh tước), nhiều công cụ chặt đập thô sơ thường gọi là trốp-pơ (là những hòn đá được ghè đẽo qua loa, có một phần lưỡi dày và cong) cùng với các công cụ nạo bằng đá được ghè đẽo qua loa và có lưỡi sắc, nhọn, được sửa ở rìa cạnh...Các nhà khảo cổ học cho rằng: “Địa điểm núi Đọ vừa là nơi cư trú, vừa là nơi chế tác công cụ. Đây là một di chỉ xưởng (workshop-site) thông thường như nhiều địa điểm khảo cổ học khác thuộc sơ kỳ thời đại đồ đá cũ trên thế giới”.
Ngoài di chỉ núi Đọ , ở núi Quan Yên (cách núi Đọ 3.000m) và núi Nuông (Thanh Hóa), Tấn Mài Ninh),....các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều công cụ thuộc sơ kỳ thời đại đá cũ của người tối cổ. Công cụ và mảnh tước Núi Đọ (Thanh Hóa). Gần đây, có một số nhà nghiên cứu dự đoán niên đại của núi Đọ và các di chỉ cùng thời có thể muộn hơn. Tuy nhiên, họ cũng không phủ nhận rằng: “Núi Đọ, núi Nuông, Quan Yên đều là những dấu vết vật chất thuộc thời kì nguyên thủy ở đất nước ta”
Mặt khác, nhiều dấu tích của thời đại đá cũ cũng được phát hiện ở khu vực miền Đông Nam Bộ. Đó là các di chỉ: Hàng Gòn VI, Dầu Giây, Suối Đá, Núi Đất, Núi Cẩm Tiên, Cầu Sắt (thuộc tỉnh Đồng Nai) và An Lộc (thuộc huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước). Riêng tại di chỉ Hàng Gôn VI, nhà địa chất học người Pháp E. Saurin đã phát hiện được 15 công cụ bằng đá, trong đó có 3 rìu tay thuộc loại hình Asen điển hình. Các nhà nghiên cứu cho rằng, về mặt loại hình và kĩ thuật, nhiều chiếc rìu tay thuộc sơ kì thời đại đá cũ ở miền đông Nam Bộ có đặc điểm nhỏ gọn và định hình hơn các công cụ chặt thô kiểu trôp-pơ ở Núi Đọ.
Bên cạnh đó, ở khu vực Tây Nguyên, các nhà khoa học tiếp tục phát hiện một số di chỉ mang dấu ấn của thời đại đá cũ sơ kì. Trong “Những phát hiện mới về khảo cổ học'' năm 2003, các nhà khảo cổ học đã công bố việc tìm thấy một số công cụ đá cũ được chế tác từ đá Opal có nguồn gốc núi lửa, niên đại khoảng 85.000 – 125.000 năm cách ngày nay. Những công cụ đá này được khai quật tại xã Xuân Phú, huyện Eakar, tỉnh Đắc Lắc.
Gần đây nhất, các nhà khảo cổ học lại phát hiện được hoá thạch người vượn (Homo Erectus) và động vật trong lớp trầm tích có tuổi 7,5 vạn năm ở hang Ma Ươi (thị trấn Mường Khến, huyện Tân Lạc, tỉnh Hoà Bình). Tại đây đã tìm thấy những chiếc răng người vượn có niên đại muộn nhất khu vực Đông Nam Á lục địa (7,5 vạn năm). Đây là một di tích quan trọng tiếp tục góp phần vào việc nghiên cứu sự hình thành và phát triển của người nguyên thủy trên đất nước ta
Như vậy những dấu tích của người tối cổ và các công cụ lao động tìm được từ các di chỉ Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, núi Đọ, Ma Ươi... đã minh chứng cho sự có mặt từ rất sớm của người vượn trên lãnh thổ Việt Nam.
Mặc dù vẫn cần nhiều chứng cớ xác thực hơn để có được kết luận chính xác nhất, song hầu hết giới nghiên cứu ở nước ta đều cho rằng: cách ngày nay khoảng từ 20 đến 30 vạn năm, ở cả hai miền Bắc và Nam đã có người tối cổ sinh sống. Mặt khác, từ những dấu tích khảo cổ học tìm thấy được cũng cho phép chúng ta bước đầu khẳng định: Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á là một trong những địa vực từ rất xa xưa đã là nơi xuất hiện, tiến hoá của những con người đầu tiên: Người tối cổ (Người vượn).

Ngô Thị Kiều Uyên
9 tháng 3 2022 lúc 9:45

Trên thế giới, người tối cổ (người vượn) xuất hiện cách đây từ 4 triệu năm đến 50 - 40 vạn năm. Sự xuất hiện của người tối cổ - từ vượn thành người - đánh đấu sự tiến triển nhảy vọt từ vượn thành người. Ở Việt Nam, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều dấu tích của người tối cổ tương ứng với thời kì đồ đá cũ.
Trong các hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (thuộc xã Tô Hiệu, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn), các nhà khảo cổ học đã phát hiện được một số răng hoá thạch người vượn và nhiều xương cốt động vật thuộc thời kì Cánh tân. ở hang Thấm Khuyên, người ta đã tìm được 9 chiếc răng hoá thạch, trong đó có: 1 răng sữa, 1 răng cửa, 3 răng hàm trên, 1 răng nanh và 3 răng hàm dưới.
Ở hang Thẩm Hai cũng đã phát hiện được 1 chiếc răng hoá thạch và được đoán định là răng sữa hàm trên.
Qua nghiên cứu cho thấy, 10 chiếc răng nói trên vừa có đặc điểm giống với răng người vượn Bắc Kinh (Trung Quốc), lại vừa mang những đặc trưng của người Nêanđéctan. Từ đó, có thể đoán định được rằng, người vượn ở Thẩm Khuyên, Thẩm Hai thuộc vào các cá thể Homo Erectus (Người đứng thẳng) đang trên quá trình tiến hoá, tồn tại trong khoảng thời gian cuối trung kỳ cánh tân, cách ngày nay chừng 30 vạn năm
Ở nhiều địa phương trên cả nước, các nhà khảo cổ học cũng tìm thấy nhiều dấu tích về công cụ lao động của người tối cổ. Ở di chỉ núi Đọ (Thanh Hoá), người ta đã tìm thấy hơn 2.500 công cụ bằng đá. Các công cụ này được làm bằng đá gốc, tất cả đều được chế tác bằng đá bazan - một loại đá cứng nhưng dẻo, có thể tách theo hướng người ta định và tạo ra những mảnh tước có rìu cạnh sắc.
Núi Đọ (Thanh Hóa): Các mảnh đá ghè (còn gọi là mảnh tước) ở núi Đọ đều rất thô, nặng, được đoán định là công cụ dùng để cắt, cạo của người vượn ở nước ta. Bên cạnh mảnh tước là công cụ phổ biến (chiếm hơn 90% tổng số các loại hiện vật) ở núi Đọ còn tìm thấy nhiều hạch đá (là những hòn đá mà từ đó người vượn ghè ra các mảnh tước), nhiều công cụ chặt đập thô sơ thường gọi là trốp-pơ (là những hòn đá được ghè đẽo qua loa, có một phần lưỡi dày và cong) cùng với các công cụ nạo bằng đá được ghè đẽo qua loa và có lưỡi sắc, nhọn, được sửa ở rìa cạnh...Các nhà khảo cổ học cho rằng: “Địa điểm núi Đọ vừa là nơi cư trú, vừa là nơi chế tác công cụ. Đây là một di chỉ xưởng (workshop-site) thông thường như nhiều địa điểm khảo cổ học khác thuộc sơ kỳ thời đại đồ đá cũ trên thế giới”.
Ngoài di chỉ núi Đọ , ở núi Quan Yên (cách núi Đọ 3.000m) và núi Nuông (Thanh Hóa), Tấn Mài Ninh),....các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều công cụ thuộc sơ kỳ thời đại đá cũ của người tối cổ. Công cụ và mảnh tước Núi Đọ (Thanh Hóa). Gần đây, có một số nhà nghiên cứu dự đoán niên đại của núi Đọ và các di chỉ cùng thời có thể muộn hơn. Tuy nhiên, họ cũng không phủ nhận rằng: “Núi Đọ, núi Nuông, Quan Yên đều là những dấu vết vật chất thuộc thời kì nguyên thủy ở đất nước ta”
Mặt khác, nhiều dấu tích của thời đại đá cũ cũng được phát hiện ở khu vực miền Đông Nam Bộ. Đó là các di chỉ: Hàng Gòn VI, Dầu Giây, Suối Đá, Núi Đất, Núi Cẩm Tiên, Cầu Sắt (thuộc tỉnh Đồng Nai) và An Lộc (thuộc huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước). Riêng tại di chỉ Hàng Gôn VI, nhà địa chất học người Pháp E. Saurin đã phát hiện được 15 công cụ bằng đá, trong đó có 3 rìu tay thuộc loại hình Asen điển hình. Các nhà nghiên cứu cho rằng, về mặt loại hình và kĩ thuật, nhiều chiếc rìu tay thuộc sơ kì thời đại đá cũ ở miền đông Nam Bộ có đặc điểm nhỏ gọn và định hình hơn các công cụ chặt thô kiểu trôp-pơ ở Núi Đọ.
Bên cạnh đó, ở khu vực Tây Nguyên, các nhà khoa học tiếp tục phát hiện một số di chỉ mang dấu ấn của thời đại đá cũ sơ kì. Trong “Những phát hiện mới về khảo cổ học'' năm 2003, các nhà khảo cổ học đã công bố việc tìm thấy một số công cụ đá cũ được chế tác từ đá Opal có nguồn gốc núi lửa, niên đại khoảng 85.000 – 125.000 năm cách ngày nay. Những công cụ đá này được khai quật tại xã Xuân Phú, huyện Eakar, tỉnh Đắc Lắc.
Gần đây nhất, các nhà khảo cổ học lại phát hiện được hoá thạch người vượn (Homo Erectus) và động vật trong lớp trầm tích có tuổi 7,5 vạn năm ở hang Ma Ươi (thị trấn Mường Khến, huyện Tân Lạc, tỉnh Hoà Bình). Tại đây đã tìm thấy những chiếc răng người vượn có niên đại muộn nhất khu vực Đông Nam Á lục địa (7,5 vạn năm). Đây là một di tích quan trọng tiếp tục góp phần vào việc nghiên cứu sự hình thành và phát triển của người nguyên thủy trên đất nước ta
Như vậy những dấu tích của người tối cổ và các công cụ lao động tìm được từ các di chỉ Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, núi Đọ, Ma Ươi... đã minh chứng cho sự có mặt từ rất sớm của người vượn trên lãnh thổ Việt Nam.
Mặc dù vẫn cần nhiều chứng cớ xác thực hơn để có được kết luận chính xác nhất, song hầu hết giới nghiên cứu ở nước ta đều cho rằng: cách ngày nay khoảng từ 20 đến 30 vạn năm, ở cả hai miền Bắc và Nam đã có người tối cổ sinh sống. Mặt khác, từ những dấu tích khảo cổ học tìm thấy được cũng cho phép chúng ta bước đầu khẳng định: Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á là một trong những địa vực từ rất xa xưa đã là nơi xuất hiện, tiến hoá của những con người đầu tiên: Người tối cổ (Người vượn).

Đức Phạm Hồng
Xem chi tiết
nguyễn thi trà giang
15 tháng 9 2017 lúc 19:50

vì các cây có giá trị suất khẩu cao và làm tawng năng suất cây trồng

nguyễn thi trà giang
15 tháng 9 2017 lúc 19:50

tik cho mjk nha