KỂ LẠI MỘT CÁI KẾT MỚI CHO TRUYỆN '' SỌ DỪA '' BẰNG NGÔI THỨ 3
VIẾT ĐOẠN VĂN KHOẢNG 1/2 TRANG GIẤY, KỂ LẠI MỘT CÁI KẾT MỚI CHO TRUYỆN '' SỌ DỪA '' BẰNG NGÔI THỨ 3
tham khảo
Trong kho tàng cổ tích Việt Nam, em thích nhất là câu chuyện Cây khế. Vì câu chuyện không chỉ hay mà còn chứa đựng những bài học nhân văn sâu sắc.
Câu chuyện Cây khế, kể về hai người anh em trai nhưng lại có tích cách đối lập hoàn toàn. Người anh thì tham lam lại lười biếng, còn người em đã chăm chỉ lại còn hiền lành, tốt bụng. Sau khi kết hôn hai anh em vẫn chung sống hòa thuận cùng cha. Tuy nhiên năm đó, cha không may lâm bệnh nặng rồi qua đời. Trước khi mất, cha có để lại một khối tài sản lớn cho hai anh em. Tuy nhiên người anh tham lam đã dành hết tất cả tiền bạc, đất đai, chỉ để lại cho người em một túp lều nhỏ và cây khế già ở cạnh đó.
Tuy bị anh đối xử tệ bạc, người em vẫn không hề oán hận, mà cùng vợ dọn ra sống trong túp lều nhỏ. Hằng ngày, hai vợ chồng vất vả đi làm thuê ở khắp nơi mới đủ ăn. Nhưng họ vẫn rất lạc quan, thường xuyên giúp đỡ bà con trong vùng. Mùa hè năm đó, cây khế ngọt cạnh túp lều của người em rất sai trái. Quả nào cũng to và ngọt lịm. Chắc mẩm sẽ có nhiều khế đem ra chợ bán, hai vợ chồng vui lắm. Ngờ đâu khi đến ngày thu hoạch, từ đâu có một con chim rất lớn bay đến. Ngày nào, nó cũng ăn một lượng lớn trái khế, khiến cây vơi đi trông thấy. Nhìn tình cảnh đó, người em tuy lo sợ nhưng vẫn quyết ra trò chuyện cùng chim. Sau khi anh kể khổ, chim bỗng nhiên cất tiếng người, trả lời anh:
- Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng.
Theo lời chim, người em dặn vợ may một chiếc túi ba gang, đứng sẵn chờ chim đến. Sau khi cùng chim vượt qua những ngọn núi cao, biển rộng, người em được đưa đến một hòn đảo có rất nhiều vàng bạc đá quý. Nhưng người em vẫn chỉ nhặt đủ trong chiếc túi con mình mang theo rồi cùng chim về nhà. Nhờ số vàng đó, gia đình người em có cuộc sống sung sướng và hạnh phúc.
Còn phía người anh, thấy em mình bỗng nhiên giàu có liền chạy sang mặt dày hỏi chuyện. Biết được ngọn ngành sự việc, hắn liền xin đổi gia sản lấy cây khế già. Thoạt đầu người em không đồng ý, nhưng do người anh nài nỉ quá nên đành chấp nhận. Mọi chuyện vẫn diễn ra y hệt như những gì xảy ra với người em. Chỉ khác là, trong đêm trước khi cùng chim ra đảo, người anh trai đã dặn vợ may một chiếc túi mười hai gang, lớn hơn hẳn bốn lần chim dặn. Khi đến đảo, người anh tham lam đã nhặt vàng bạc cho đầy vào chiếc túi mười hai gang, rồi còn nhét vào áo quần nữa. Vậy nên ì ạch mãi hắn mới bò lên được lưng chim. Thế nên, khó nhọc vô cùng chim mới cất cánh được. Ngờ đâu, trên đường về lại có một cơn dông lớn quét qua, khiến chim rơi thẳng xuống biển. May sao, chim vùng cánh bay lên lại được, còn người anh tham lam thì vì buộc quá nhiều vàng bạc trên người nặng nề nên đã bị sóng cuốn đi mất. Thật đáng đời cho kẻ như hắn ta.
Qua hai kết cục khác biệt của người anh và người em trong câu chuyện Cây khế. Tác giả dân gian đã răn dạy cho người đọc bài học về cách sống. Rằng không được tham lam, ích kỉ, lười biếng. Mà phải biết sống giàu tình yêu thương, luôn chăm chỉ làm việc.
Kể lại một truyện cổ tích hoặc một truyện ngắn mà anh (chị) yêu thích (ví dụ: Sọ Dừa, Bến Quê, Những ngôi sao xa xôi, …)
1. Mở bài
– Kể giới thiệu gia cảnh bố mẹ Sọ Dừa
– Sự ra đời thần kì và hình ảnh dị dạng của Sọ Dừa.
2. Thân bài
Lần lượt kể các sự việc sau:
– Sọ Dừa đi chăn bò cho nhà Phú ông những tưởng sẽ rất khó khăn nhưng cậu chăn rất giỏi.
– Phú ông cắt cử ba cô con gái đưa cơm cho Sọ Dừa.
+ Hai cô chị ác nghiệt, kiêu kì, thường hắt hủi Sọ Dừa.
+ Cô út hiền lành, tính hay thương người, đối đãi với Sọ Dừa rất tử tế.
– Cô út nhiều lần bắt gặp Sọ Dừa biến thành chàng trai tuấn tú khôi ngô đem lòng yêu thương chàng.
– Sọ Dừa đòi mẹ sang hỏi cho mình con gái Phú ông.
– Hai cô chị xấu tính nên từ chối. Cô út vì biết được thân hình của Sọ Dừa nên cúi mặt, e lệ bằng lòng,
– Sọ Dừa đi thi. Trước khi đi còn dặn dò và trao cho vợ những vật hộ thân.
– Hai cô chị bày mưu ác rồi đẩy cô em vào bụng cá.
– Cô em không chết, giạt vào sống ở đảo hoang rồi may mắn nhờ vào những vật hộ thân mà gặp được chồng mình.
3. Kết bài
– Hai cô chị thấy cô em trở về thì xấu hổ bỏ đi biệt tích.
– Vợ chồng quan trạng từ đấy sống hạnh phúc bên nhau.
Kể lại một truyện cổ tích hoặc một truyện ngắn mà anh (chị) yêu thích. (ví dụ: Sọ Dừa, Bến Quê, Những ngôi sao xa xôi….)
Dàn ý: Kể lại Truyện cổ tích “Sọ Dừa”
1. Mở bài
– Kể giới thiệu gia cảnh bố mẹ Sọ Dừa
– Sự ra đời thần kì và hình ảnh dị dạng của Sọ Dừa.
2. Thân bài
Lần lượt kể các sự việc sau:
– Sọ Dừa đi chăn bò cho nhà Phú ông những tưởng sẽ rất khó khăn nhưng cậu chăn rất giỏi.
– Phú ông cắt cử ba cô con gái đưa cơm cho Sọ Dừa.
+ Hai cô chị ác nghiệt, kiêu kì, thường hắt hủi Sọ Dừa.
+ Cô út hiền lành, tính hay thương người, đối đãi với Sọ Dừa rất tử tế.
– Cô út nhiều lần bắt gặp Sọ Dừa biến thành chàng trai tuấn tú khôi ngô đem lòng yêu thương chàng.
– Sọ Dừa đòi mẹ sang hỏi cho mình con gái Phú ông.
– Hai cô chị xấu tính nên từ chối. Cô út vì biết được thân hình của Sọ Dừa nên cúi mặt, e lệ bằng lòng,
– Sọ Dừa đi thi. Trước khi đi còn dặn dò và trao cho vợ những vật hộ thân.
– Hai cô chị bày mưu ác rồi đẩy cô em vào bụng cá.
– Cô em không chết, giạt vào sống ở đảo hoang rồi may mắn nhờ vào những vật hộ thân mà gặp được chồng mình.
3. Kết bài
– Hai cô chị thấy cô em trở về thì xấu hổ bỏ đi biệt tích.
– Vợ chồng quan trạng từ đấy sống hạnh phúc bên nhau.
Kể lại một truyện cổ tích hoặc một truyện ngắn mà anh (chị) yêu thích (ví dụ: Sọ Dừa, Bến quê, Những ngôi sao xa xôi…).
Ngày xưa, có hai vợ chồng một lão nông nghèo đi ở cho nhà một phú ông. Họ hiền lành, chăm chỉ nhưng đã ngoài năm mươi tuổi mà chưa có lấy một mụn con.
Một hôm, người vợ vào rừng lấy củi. Trời nắng to, khát nước quá, thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, bà bèn bưng lên uống. Thế rồi, về nhà, bà có mang.
Ít lâu sau, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình mẩy, cứ tròn lông lốc như một quả dừa. Bà buồn, toan vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng bảo.
– Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp. Bà lão thương tình để lại nuôi rồi đặt tên cho cậu là Sọ Dừa.
Lớn lên, Sọ Dừa vẫn thế, cứ lăn lông lốc chẳng làm được việc gì. Bà mẹ lấy làm phiền lòng lắm. Sọ Dừa biết vậy bèn xin mẹ đến chăn bò cho nhà phú ông.
Nghe nói đến Sọ Dừa, phú ông ngần ngại. Nhưng nghĩ: nuôi nó thì ít tốn cơm, công sá lại chẳng đáng là bao, phú ông đồng ý. Chẳng ngờ cậu chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà. Cả đàn bò, con nào con nấy cứ no căng. Phú ông lấy làm mừng lắm!
Vào ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Trong những lần như thế, hai cô chị kiêu kì, ác nghiệt thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô em vốn tính thương người là đối đãi với Sọ Dừa tử tế.
Một hôm đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Mới đến chân núi, cô bỗng nghe thấy tiếng sáo véo von. Rón rén bước lên cô nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên chiếc võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Thế nhưng vừa mới đứng lên, tất cả đã biến mất tăm, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đấy. Nhiều lần như vậy, cô út biết Sọ Dừa không phải người thường, bèn đem lòng yêu quý.
Đến cuối mùa ở thuê, Sọ Dừa về nhà giục mẹ đến hỏi con gái phú ông về làm vợ. Bà lão thấy vậy tỏ ra vô cùng sửng sốt, nhưng thấy con năn nỉ mãi, bà cũng chiều lòng.
Thấy mẹ Sọ Dừa mang cau đến dạm, phú ông cười mỉa mai:
– Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Bà lão đành ra về, nghĩ là phải thôi hẳn việc lấy vợ cho con. Chẳng ngờ, đúng ngày hẹn, bỗng dưng trong nhà có đầy đủ mọi sính lễ, lại có cả gia nhân ở dưới nhà chạy lên khiêng lễ vật sang nhà của phú ông. Phú ông hoa cả mắt lúng túng gọi ba cô con gái ra hỏi ý. Hai cô chị bĩu môi chê bai Sọ Dừa xấu xí rồi ngúng nguẩy đi vào, chỉ có cô út là cúi đầu e lệ tỏ ý bằng lòng.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa trọc lốc, xấu xí đâu chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Mọi người thấy vậy đều cảm thấy sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc lại vừa ghen tức.
Từ ngày ấy, hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Không những thế, Sọ Dừa còn tỏ ra rất thông minh. Chàng ngày đêm miệt mài đèn sách và quả nhiên năm ấy, Sọ Dừa đỗ trạng nguyên. Thế nhưng cũng lại chẳng bao lâu sau, Sọ Dừa được vua sai đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà nói là để hộ thân
.
Ganh tị với cô em, hai cô chị sinh lòng ghen ghét rắp tâm hại em để thay làm bà trạng. Nhân quan trạng đi vắng, hai chị sang rủ cô út chèo thuyền ra biển rồi cứ thế lừa đẩy cô em xuống nước. Cô út bị cá kình nuốt chửng, nhưng may có con dao mà thoát chết. Cô dạt vào một hòn đảo, lấy dao khoét bụng cá chui ra, đánh đá lấy lửa nướng thịt cá ăn. Sống được ít ngày trên đảo, cặp gà cũng kịp nở thành một đôi gà đẹp để làm bạn cùng cô út.
Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy to:
Ò… ó… o
Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan cho thuyền vào xem, chẳng ngờ đó chính là vợ mình. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà, quan trạng mở tiệc mừng mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị thấy thế khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra chiều thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy cô em thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ.
Thuở xưa ở vùng đất Lạc Việt có vị thần tên là Lạc Long Quân, con trai của thần Long Nữ sống ở dưới biển Đông. Thần hình rồng, sức khỏe phi thường và có nhiều phép lạ. Thỉnh thoảng thần lên sống trên cạn, giúp dân diệt trừ các loài yêu quái như Ngư Tinh, Hồ tinh, Mộc Tinh. thần còn dạy dân cách trồng trọt và sinh sống.
Âu cơ là một tiên nữ dòng dõi Thần Nông ở vùng núi cao phương Bắc. Nàng thích ngao du đây đó, những nơi có phong cảnh đẹp. Bên trai tài, bên gái sắc, họ yêu nhau rồi kết thành vợ chồng.
Ít lâu sau, Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con khôi ngô tuấn tú lạ thường. Chẳng cồn bú mớm mà đàn con lớn nhanh như thổi, khỏe mạnh như thần.
Một hôm, nhớ biển cả và cảm thấy mình không thể sống lâu trên cạn được, Lạc Long Quân đành từ biệt Âu Cơ để trở về chốn thủy cung. Âu Cơ một mình nuôi con. Ngày lại ngày qua, nàng sốt ruột trông ngóng chồng với tâm trạng buồn tủi. Cuối cùng, nàng gọi chồng lên mà than thở:
- Sao chàng nỡ bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi các con?!
Lạc Long Quân ân cần giải thích:
- Ta vốn nòi rồng ở miền nước thẳm, nàng là dòng tiên ở chốn non cao. Kẻ trên cạn người dưới nước, tính tình tập quán khác nhau, khó lòng mà ăn ở cùng nhau một nơi lâu dài được. Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. Kẻ miền núi, người miền biển, khi có việc gì khó khăn thì giúp đỡ nhau, đừng quên lời hẹn.
Âu Cơ nghe theo đưa năm mươi người con lên đất Phong Châu. Người con trưởng được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, lập ra nước Văn Lang, đóng đo ở Phong Châu (vùng Bạc Hạc, Lâm Thao, Phú Thọ ngày nay). Triều đình có quan văn, quan võ (Lạc tướng, Lạc hầu). Con trai của vua gọi là lang, con gái vua gọi là mị nương. Vua cha chết, con trai trưởng nối ngôi. Mười tám đời vua kế tiếp nhau đều lấy hiệu Hùng Vương.
Từ sự tích này mà dân tộc Việt Nam thường nhắc đến nguồn gốc cao quý của mình là con Rồng cháu Tiên. Tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều là anh em cùng chung một bọc sinh ra (đồng bào). Các dân tộc đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước
Bài làm
Ngày xửa, ngày xưa, có hai anh em nhà kia cha mẹ mất sớm. Người anh tham lam, khi chia gia tài liền chiếm hết nhà cửa, ruộng vườn cha mẹ để lại, chỉ cho người em một túp lều nhỏ và mảnh vườn, trong đó có cây khế ngọt. Người em không chút phàn nàn, ngày ngày chăm bón cho mảnh vườn và cây khế.
Năm ấy, cây khế trong vường nhà người em ra quả rất sai. Từng chùng quả chín vàng như năng lúc lỉu trên cành. Người em nhìn cây khể mà vui mừng, tính đem bán để lấu tiền mua gạo.
Một hôm, có con chim lạ từ đâu bay đến ăn khế. Thấy cây khế bị chim ăn xơ xác người em ôm mặt khóc. Chim bỗng cất lời:
“Ăn một quả trả một cục vàng
May túi ba gang, mang đi mà đựng”
Người em nghe chim nói tiếng người lấy làm kinh ngạc, bèn vể kể cho vợ nghe. Hai vợ chồng may một chiếc túi vừa đúng ba gang, chờ chim đến. Hôm sau, chim bay đến, bảo người em ngồi lên lòng mình. Chim bay rất xa, dên một hòn đảo đầy vàng bạc giữa biển khơi bao la. Người em lấy vàng bỏ đầy túi ba gang rồi lại theo chim trở về nhà. Từ đó, người em trở nên giàu có.
Người anh nghe thấy em giàu liền sang chơi và lân la hỏi chuyện. Em không giấu giếm kể lại cho anh tường tận mọi điều. Người anh nằng nặc đòi đổi nhà cửa ruộng vườn của mình lấy mảnh vườn và cây khế, người em dù không muốn nhưng thấy anh cương quyết quá cũng đành đởi cho anh.
Mùa năm sau, cây khế lại sai trĩu những quả vàng chín mọng, người anh khấp khởi mừng thầm, ngày ngày ngóng chờ con chim lạ tới. Thế rồi một hôm, chim tới ăn khế, người anh giả vờ khóc lóc, chim cũng nói:
“Ăn một quả trả một cục vàng
May túi ba gang, mang đi mà đựng”
Người anh nghe vậy, mừng như mở cờ trong bụng, vội vã cùng vợ may một chiếc túi to thật là to. Hôm sau chim tới đưa người anh đi lấy vàng ở hòn đảo xa lạ nọ. Nhìn thấy vàng bạc châu bái trên đảo, người anh vội vàng nhết đầy túi to, lại còn giắt khắp người. Khi người anh leo lên lưng chim, chim phải vổ cánh mấy lần mới bay lên được. Vì quá nặng nên chim bay chậm, mãi vẫn ở trên biển. Chim bảo người anh vứt bớt vàng bạc đi nhưng anh ta không chịu. Chim nặng quá, nghiêng cánh, thế là người anh tham lam cùng túi vàng rơi xuống biển sâu, không bao giờ trở về được nữa.
kể lại một truyện cổ tích sọ dừa bằng lời văn của em
kể lại một truyện cổ tích "sọ dừa" bằng lời văn của em
kể lại một truyện cổ tích "sọ dừa "bằng lời văn của em
- Ò ó o… o!
Nghe tiếng gà gáy, cô út choàng tỉnh dậy. Phải mất một lúc, cô mới hình dung nổi tình cảnh hiện tại của mình. Cô vừa thoát khỏi bụng con cá mập to tướng, một mình trên hoang đảo, xung quanh chỉ có đôi gà để làm bạn.
Cô bỗng nhớ lại tất cả, bắt đầu từ cái ngày kì lạ ấy. Thấy hai cô chị kiên quyết không ai chịu đem cơm cho Sọ Dừa, cô đành nhận lời đi. “Tuy dung mạo có hơi xấu nhưng dù sao cậu ta cũng biết nói tiếng người, thậm chí còn ăn nói rất dễ thương nữa là đằng khác” – cô nghĩ.
Từ đằng xa cô đã nghe thấy tiếng sáo du dương trầm bổng. Lạ quá ! Ai thổi sáo thế nhỉ ? Không lẽ lại là Sọ Dừa? Nhưng anh ta làm sao mà thổi sáo được kia chứ. Cô vẫn nhớ cái ngày Sọ Dừa xuất hiện ở nhà cô. Trông anh ta thật buồn cười, cứ lăn lông lốc dưới đất như một quả bí, vậy mà ăn nói đến là khéo. Hai cô chị trông thấy Sọ Dừa thì quay mặt đi, riêng cô không thấy sợ mà lại thương con người dung mạo kì dị, nhất là khi thấy anh ta làm việc gì cũng đến nơi đến chốn, chăn cả đàn bò mà con nào con nấy cứ béo tròn nung núc. Cô lên đưa cơm nhưng thực ra cũng muốn đến xem anh chăn bò như thế nào.
Đến gần, cô út lại càng ngạc nhiên. Sao lại có cái võng mắc ở kia, lại có ai đang nằm trên đó thổi sáo nữa chứ! Hay đó là người anh em của Sọ Dừa mà cô không biết? Thế anh ta đâu rồi?
Mải suy nghĩ, cô út dẫm phải một cành cây khô làm phát ra tiếng động. Cô cúi xuống nhìn rồi ngẩng lên, sửng sốt khi không thấy cả chiếc võng lẫn chàng thanh niên đâu cả. Chỉ có anh chàng Sọ Dừa, lúc trước không thấy đâu, giờ đang ở dưới gốc cây mà cười toe toét:
- Chào cô út! Cô mang cơm cho tôi hay là lên thăm tôi đấy?
Cô út không trả lời vì còn đang thắc mắc. Cô hỏi anh:
- Cái anh chàng vừa nằm trên võng thổi sáo đâu rồi?
Sọ Dừa chối biến:
- Chắc cô trông nhầm đấy chứ tôi ở đây suốt, làm gì có anh chàng nào thổi sáo đâu!
Cô út không tin là mình nhầm. Cô chợt nghĩ ra một điều khác thường. Phải rồi, Sọ Dừa nếu cứ thế kia thì làm sao có thể chăn được cả đàn bò, lại còn chàng trai trẻ, chiếc võng vừa đây mà đã biến mất… Cô không hỏi thêm gì nữa, đưa cơm cho anh rồi đi về, lòng vui rộn ràng.
Khi phú ông hỏi các cô con gái xem ai đồng ý lấy Sọ Dừa là hỏi lấy lệ để từ chối khéo bà mẹ đó thôi, lão chắc không cô gái nào lại đồng ý lấy một người kì dị, xấu xí như Sọ Dừa. Cô út đã làm cho ông bố một phen chưng hửng:
- Cha đặt đâu, con xin ngồi đấy ạ!
Hai cô chị trề môi chê em gái sao mà ngốc nghếch. Phú ông tức bầm gan tím ruột nhưng đã trót hứa với bà mẹ rồi, đành hẹn ngày dẫn cưới. Lão thách thật nặng nhưng cô út thầm đoán và mong rằng, điều đó không khó gì đối với người chồng tương lai của cô. Quả nhiên, Sọ Dừa không những mang đồ dẫn cưới đến đủ mà còn mang thêm rất nhiều người hầu hạ nữa khiến cho ai nấy cũng phải ngạc nhiên: xưa nay có thấy ai ra vào nhà Sọ Dừa đâu?
Đám cưới đang ăn uống linh đình, cô bèn bế Sọ Dừa vào nhà trong rồi thì thầm:
- Nào người chồng yêu quý của em, chàng xuất hiện đi thôi chứ!
Sọ Dừa mỉm cười, bắt cô quay mặt đi và nhắm mắt lại. Khi chàng bảo cô mở mắt ra thì trước mặt đúng là chàng trai trẻ hôm nào. Hai người sánh vai nhau ra chào quan khách. Mọi người hết sức ngỡ ngàng, hai người phải giải thích mãi, thậm chí Sọ Dừa còn phải hoá phép lại như cũ, mọi người mới tin là thật. Đám cưới đã vui lại càng vui hơn nữa.
Sọ Dừa học giỏi, đỗ Trạng Nguyên, được vua cử đi sứ nước ngoài, để cô ở lại. Cô có ngờ đâu hai bà chị vốn rất ghen tức khi thấy em lấy được người chồng vừa trẻ đẹp lại có tài, rắp tâm làm hại em để cướp chồng. Hai chị rủ em đi bơi thuyền rồi đẩy em xuống biển. Một con cá rất to bơi qua, nuốt luôn cô vào bụng. Thật may là Sọ Dừa như đã biết trước mọi chuyện. Chàng dặn cô luôn mang theo bên mình một con dao, quả trứng gà và hòn đá lửa. Có con dao, cô tự rạch bụng cá khiến cá chết, dạt vào bờ. Cô chui ra, lại có thịt cá ăn luôn, có lửa để nướng cá và có con gà để bầu bạn.
Một hôm cô đang loay hoay nướng cá để ăn dần, bỗng con gà trống gáy vang:
- Ò. ó. o…, phải thuyền quan trạng, rước cô tôi về!
Cô vội bỏ cá đấy chạy ra. Đúng là chồng cô rồi. Chàng đã đi sứ về, ngang qua nghe tiếng gà gáy, lại thấy có bóng người như vợ mình bèn cho thuyền vào đón. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi.
Nghe lời chồng, lúc gần về đến nhà cô nấp vào trong khoang thuyền. Nghe thấy hai bà chị thi nhau kể với Sọ Dừa về cái chết thương tâm của cô, cô bèn bước ra. Hai cô chị thấy em xuất hiện, ngượng quá, không nói không rằng bỏ đi biệt tích.
( Lưu ý : mình lấy văn từ văn mẫu 6 nhé ! )
kể lại một truyện cổ tích "sọ dừa "bằng lời văn của em
thăm khảo
Truyện cổ tích Sọ Dừa là một câu chuyện cổ tích hay của dân tộc ta.
Truyện kể về cuộc đời của nhân vật Sọ Dừa - thuộc kiểu nhân vật có ngoại hình xấu xí thường thấy trong truyện cổ tích. Sau khi uống nước trong cái sọ dừa, mẹ chàng mang thai và sinh ra đứa con có vẻ ngoài kì lạ như cái gáo dừa. Đó là nguồn gốc cái tên của chàng.
Lớn lên, chàng hiếu thảo, xin đi chăn bò cho phú ông để đỡ đần cho mẹ. Ở đó, anh làm quen với cô Út hiền lành, tốt bụng. Thế là Sọ Dừa nhờ mẹ sang nhà phú ông hỏi cưới cho mình. Được cô Út gật đầu đồng ý, Sọ Dừa trở về hính dáng chàng trai trưởng thành khôi ngô để cưới cô.
Sau khi cưới vợ, Sọ Dừa tỏ ra thông minh, chăm chỉ hơn người. Kì thi năm đó, chàng đỗ Trạng Nguyên. Thông minh lại nhanh trí, chàng được vua tin tưởng cử đi sứ nước ngoài. Trước khi đi, dự tính trước sẽ có chuyện chẳng lành xảy ra với vợ. Chàng dặn vợ lúc nào cũng mang theo con dao găm, hai quả trứng gà và đá lửa.
Nhờ những món đồ đố, mà khi bị hai người chị gái ác độc đẩy xuống biển, cô Út đã thoát chết và sống sót được trên đảo hoang. Một ngày thuyền Sọ Dừa đi sứ trở về ngang qua đảo, giúp hai vợ chồng gặp lại nhau. Cuối cùng, hai vợ chồng được sống hạnh phúc còn hai cô chị độc ác thì bỏ đi biệt xứ.
Câu chuyện cổ tích Sọ Dừa không chỉ dạy chúng ta về bài học ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão. Mà còn thể hiện một quan niệm nhân văn của ông cha ta, rằng khi nhìn nhận mỗi người thì ta nên nhìn vào trí tuệ, nhân cách chứ không phải chỉ dựa vào vẻ ngoài để đánh giá.
Kể lại truyện Sọ Dừa từ Sọ dừa cưới đến sọ dừa làm trạng