soạn bài truyền thuyết về yết kiêu tài liệu học tập ngữ văn hải dương
Bài1: Truyền thuyết Yết Kiêu trong sách tài liệu học tập Ngữ Văn Hải Dương giúp mình soạn với
giúp mình soạn tài liệu hc tập ngữ văn hải dương bài
Ca dao về quê hương Hải Dương
Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm
Nào ai đi chợ Thanh Lâm
Mua anh một áo vải thâm hạt dền.
(Đồng Tỉnh, Huê Cầu nay thuộc Hưng Yên. Thanh Lâm nay là Nam Sách, Hải Dương)
Bao giờ lấp ngã ba Chanh
Để ta gánh đá xây thành Cổ Loa.
(Ngã ba Chanh: nơi sông Hóa tách ra từ sông Luộc, tạo thành ngã ba tiếp giáp giữa Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình. Ở đó có đền Tranh (huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương) thờ Quan Lớn Tuần Tranh rất thiêng)
Bút nghiên, đèn sách, văn phòng
Hồng Châu, Nam Sách nhiều dòng thi thơ.
Cam Phù Tải, vải Thúy Lâm
(Phương ngôn huyện Thanh Hà)
Chim gà, cá nhệch, cảnh cau
Mùa nào thức ấy đượm màu thú quê.
(Ca dao Thanh Hà)
Chơi với quan Thanh Lâm
Như giáo đâm vào ruột.
Chuông Châu, trống Ủng, mõ Đầu.
Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm
Nào ai đi chợ Thanh Lâm
Mua anh một áo vải thâm hạt dền.
(Đồng Tỉnh, Huê Cầu nay thuộc Hưng Yên. Thanh Lâm nay là Nam Sách, Hải Dương)
Bao giờ lấp ngã ba Chanh
Để ta gánh đá xây thành Cổ Loa.
(Ngã ba Chanh: nơi sông Hóa tách ra từ sông Luộc, tạo thành ngã ba tiếp giáp giữa Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình. Ở đó có đền Tranh (huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương) thờ Quan Lớn Tuần Tranh rất thiêng)
Bút nghiên, đèn sách, văn phòng
Hồng Châu, Nam Sách nhiều dòng thi thơ.
Cam Phù Tải, vải Thúy Lâm
(Phương ngôn huyện Thanh Hà)
Chim gà, cá nhệch, cảnh cau
Mùa nào thức ấy đượm màu thú quê.
(Ca dao Thanh Hà)
Chơi với quan Thanh Lâm
Như giáo đâm vào ruột.
Chuông Châu, trống Ủng, mõ Đầu.
Các bạn soạn hộ mình bài 2: từ ngữ địa phương(tiếng việt) trong quyển tài liệu học tập ngữ văn hải dương
soạn hộ mình bài2 Từ ngữ địa phương trong Tài liệu học tập Ngữ văn Hải Dương với ạ
😀TÀI LIỆU HỌC TẬP NGỮ VĂN HẢI DƯƠNG🤣
Mọi người soạn giúp mình bài Chiều xuân với
Nhớ đúng trong sách nha ko phải lớp 11
Soạn bài trong sách TÀI LIỆU HỌC TẬP NGỮ VĂN HẢI DƯƠNG
Các bạn soạn giúp tôi bài : Từ ngữ địa phương
Mọi người đừng nhầm lẫn bài này trong sgk ngữ văn
Soạn bài trong sách TÀI LIỆU HỌC TẬP NGỮ VĂN HẢI DƯƠNG
Các bạn soạn giúp tôi bài : Từ ngữ địa phương
Mọi người đừng nhầm lẫn bài này trong sgk ngữ văn
Tài Liệu Học Tập Ngữ Văn Hải Dương
Mn soạn giúp em bài " Phá Vây " với ạa!!
TÀI LIỆU HỌC TẬP NGỮ VĂN HẢI DƯƠNG
Các bạn soạn giúp tôi bài : Ca dao về quê hương Hải Dương
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm
Nào ai đi chợ Thanh Lâm
Mua anh một áo vải thâm hạt dền.
(Đồng Tỉnh, Huê Cầu nay thuộc Hưng Yên. Thanh Lâm nay là Nam Sách, Hải Dương)
Bao giờ lấp ngã ba ChanhĐể ta gánh đá xây thành Cổ Loa.
(Ngã ba Chanh: nơi sông Hóa tách ra từ sông Luộc, tạo thành ngã ba tiếp giáp giữa Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình. Ở đó có đền Tranh (huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương) thờ Quan Lớn Tuần Tranh rất thiêng)
Bút nghiên, đèn sách, văn phòngHồng Châu, Nam Sách nhiều dòng thi thơ.
Cam Phù Tải, vải Thúy Lâm(Phương ngôn huyện Thanh Hà)
Chim gà, cá nhệch, cảnh cauMùa nào thức ấy đượm màu thú quê.
(Ca dao Thanh Hà)
Chơi với quan Thanh LâmNhư giáo đâm vào ruột.
Chuông Châu, trống Ủng, mõ Đầu.(Chuông làng Châu, trống làng Ủng, mõ làng Đầu, ba làng ở gần nhau)
Có tiền buôn Đông, không tiền buôn Thái. Cô kia đội nón quai xanhCó về tổng Giám với anh thì về
Tổng Giám có ruộng tứ bề
Có ao tắm mát, có nghề quay tơ.
(Tổng Giám nay thuộc huyện Cẩm Giàng)
Côi Đông thâm vai, Côi Đoài thâm đít, Tự Đông hít bờ, Phượng Cáo rờ ao.(Bốn địa phương thuộc thành phố Hải Dương. Côi Đông gồng gánh hàng xáo nên thâm vai, Côi Đoài cả ngày ngồi đan thúng nên thâm đít, Tự Đông, Phượng Cáo chuyên mò cua bắt ếch nên hít bờ, rờ ao)
Cơm làng Hoá, cá làng TừÁo quần Thủ Pháp, cửa nhà Châu Quan. (Phương ngôn xã Đoàn Kết, Thanh Miện)
Cơm Ma Há, cá Văn Thai, bánh gai Đồng Nền.(Những món ngon ở các làng thuộc Cẩm Giàng, Nam Sách)
Đầu Trắm, đuôi Mè, giữa khe Tam Lạng.(Đầu là làng Trắm, đuôi là khu vực Mè, Tam Lạng là ba làng Lạng (Bình Lãng): làng Đông, làng Thượng, làng Khổng Lý. Đều thuộc huyện Tứ Kỳ)
Đền thờ Nhân Huệ anh hùngVân Đồn vang dội, giặc Nguyên rụng rời.
(Ca dao về đền Gốm ở Chí Linh, thờ tướng Trần Khánh Dư)
Đường làng Dầu trơn như mỡ.(Làng Dầu nay thuộc Cẩm Giàng)
Đường về Kiếp Bạc bao xaĐường về Kiếp Bạc có cây đa bồ đề
Có yêu anh cắp nón ra về
Giàu ăn khó chịu, chớ hề thở than.
Gốm trông phong cảnh hữu tìnhCàng nhìn càng thấy vẻ sinh tuyệt vời
Dưới sông thuyền chạy ngược xuôi
Trên bờ phố Gốm hết lời ngợi ca
Đêm đèn đốt tựa sao sa
Đền thờ Nhân Huệ nguy nga lẫy lừng
Nhân dân nô nức tưng bừng
Đón rằm tháng Tám hội mừng đua chen.
Làng Châu Khê tay vàng tay bạcCân Bái Dương giữ mực trung bình
Làng Cao thợ thiếc lọc tinh
Kim hoàn La Tỉnh nghề lành càng ghê.
(Các làng nghề kim hoàn, kim khí ở Bình Giang, Cẩm Giàng, Chí Linh, Tứ Kỳ)
Làng Hóp có bán lợn conLàng Quao có đất sơn son nặn nồi.
(Làng Hóp, làng Quao thuộc huyện Nam Sách)
Lẳng lơ chẳng một mình tôiThanh Lâm, Đồng Sớm cũng đôi ba người
Nói ra sợ chị em cười
Lấy chồng tháng chín, tháng mười có con.
Loa đồng hỏi nước sông TranhLong đao cứu nước, anh hùng là ai?
Sông Tranh đáp tiếng trả lời
Có Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang.
Một đồng một giỏ, không bỏ nghề câu.(Phương ngôn làng Giám, Cẩm Giàng)
Mộ Trạch họp việc làng giữa kinh đô.(Đời chúa Trịnh Tráng, làng Mộ Trạch có tới 17 người đỗ đạt làm quan trong triều)
Muốn ăn cơm trắng, cá ngầnLấy chồng làng Bói cho gần chợ Hôm.
(Bói, Hôm thuộc huyện Ninh Giang)
Muốn làm ***** con chaThì sinh ở đất Thanh Hà xứ Đông.
Mưa từ làng Lý, làng RàoLòng em khao khát mà nào thấy mưa.
(Lý, Rào thuộc thị trấn Nam Sách)
N[sửa] Nam Chân, Bắc Dũng, Đông Kỳ, Tây Lạc.(Thời Nguyễn, có bốn huyện được coi là trù phú nhất: xứ Sơn Nam có huyện Chân Định, xứ Kinh Bắc có huyện Yên Dũng, xứ Hải Dương có huyện Tứ Kỳ, xứ Sơn Tây có huyện Yên Lạc)
Năm giáp Châu Khê, hai đình Hàng Bạc.(Người làng thuộc năm giáp ở làng Châu Khê (Bình Giang) di cư ra Thăng Long làm nghề đúc bạc, lập ra phố Hàng Bạc. Hai ngôi đình là Trương đình và Kim Ngân đình là nơi nộp thành phẩm cho nhà nước)
Nước Thanh Mai đi hai về một.(Xưa kia Thanh Mai ở Chí Linh là vùng rừng thiêng nước độc)
Q[sửa] Quan làng Cốc, ốc làng Cờ.(Làng Thượng Cốc ở Gia Lộc có nhiều người làm quan, làng Cờ ở Tứ Kỳ ruộng trũng có nhiều ốc)
R[sửa] Rượu làng Mơ, cờ Mộ Trạch. T[sửa] Tại hương tại phố một quêChâu Khê, Hàng Bạc đi về ngược xuôi
Như hương tỏa khắp mọi nơi
Kim hoàn trang sức cho đời đẹp xinh.
Tháng tám hội Cha, tháng ba hội Mẹ.(Hội đền Kiếp Bạc mở vào tháng tám để tưởng nhớ Đức Thánh Trần; hội Phủ Dầy ở Nam Định mở vào tháng ba để tưởng nhớ Mẫu Liễu Hạnh)
Thành Phao, Phả Lại, Lục ĐầuEm về em để mối sầu cho ai.
Thứ nhất cô Nghị Thanh HoaThứ nhì Bủi Lạng, thứ ba Thạch Sùng.
(Những người giàu có nhất ở Việt Nam thời xưa. Bà Bủi ở thôn Đông, xã Bình Lãng, huyện Tứ Kỳ)
Tiền làng Đọc, thóc làng Nhữ, chữ làng Chằm.(Làng Đọc giàu có, làng Nhữ ruộng tốt, nhiều thóc lúa, làng Chằm (Mộ Trạch) nổi tiếng học giỏi. Ba làng thuộc huyện Bình Giang)
Trạng cờ Mộ Trạch càng ghêSứ Yên thua cuộc rút xe về thành.
(Tiến sĩ Vũ Huyên người làng Mộ Trạch dùng mẹo mách nước cờ cho vua Lê Dụ Tông khi vua đánh cờ với sứ Trung Hoa)
Trên trời có đám mây xanhỞ giữa mây trắng xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Hà Nội, Nam Định dọn đàng đưa dâu
Tỉnh Thanh cung đốn trầu cau
Nghệ An thời phải thui trâu mổ bò
Hưng Yên quạt nước hỏa lò
Thái Bình thời phải giã giò, gói nem
Ninh Bình trải chiếu bưng mâm
Hải Dương vót đũa, Hà Đông đúc nồi
Sơn Tây gánh đá nung vôi
Bắc Cạn thời phải thổi xôi nấu chè
Gia Định hầu điếu hầu xe
Phủ Đình thời phải chém tre bắc cầu
Nước Tây nước Tàu anh gửi thư sang
Anh mời hai họ nhà trời
Ông Sấm ông Sét, đứng đầu Thiên Lôi.
Một đồng một giỏ, không bỏ nghề câu.(Phương ngôn làng Giám, Cẩm Giàng)
Mộ Trạch họp việc làng giữa kinh đô.(Đời chúa Trịnh Tráng, làng Mộ Trạch có tới 17 người đỗ đạt làm quan trong triều)
Muốn ăn cơm trắng, cá ngầnLấy chồng làng Bói cho gần chợ Hôm.
(Bói, Hôm thuộc huyện Ninh Giang)
Muốn làm ***** con chaThì sinh ở đất Thanh Hà xứ Đông.
Mưa từ làng Lý, làng RàoLòng em khao khát mà nào thấy mưa.
(Lý, Rào thuộc thị trấn Nam Sách)
N[sửa] Nam Chân, Bắc Dũng, Đông Kỳ, Tây Lạc.(Thời Nguyễn, có bốn huyện được coi là trù phú nhất: xứ Sơn Nam có huyện Chân Định, xứ Kinh Bắc có huyện Yên Dũng, xứ Hải Dương có huyện Tứ Kỳ, xứ Sơn Tây có huyện Yên Lạc)
Năm giáp Châu Khê, hai đình Hàng Bạc.(Người làng thuộc năm giáp ở làng Châu Khê (Bình Giang) di cư ra Thăng Long làm nghề đúc bạc, lập ra phố Hàng Bạc. Hai ngôi đình là Trương đình và Kim Ngân đình là nơi nộp thành phẩm cho nhà nước)
Nước Thanh Mai đi hai về một.(Xưa kia Thanh Mai ở Chí Linh là vùng rừng thiêng nước độc)
Q[sửa] Quan làng Cốc, ốc làng Cờ.(Làng Thượng Cốc ở Gia Lộc có nhiều người làm quan, làng Cờ ở Tứ Kỳ ruộng trũng có nhiều ốc)
R[sửa] Rượu làng Mơ, cờ Mộ Trạch. T[sửa] Tại hương tại phố một quêChâu Khê, Hàng Bạc đi về ngược xuôi
Như hương tỏa khắp mọi nơi
Kim hoàn trang sức cho đời đẹp xinh.
Tháng tám hội Cha, tháng ba hội Mẹ.(Hội đền Kiếp Bạc mở vào tháng tám để tưởng nhớ Đức Thánh Trần; hội Phủ Dầy ở Nam Định mở vào tháng ba để tưởng nhớ Mẫu Liễu Hạnh)
Thành Phao, Phả Lại, Lục ĐầuEm về em để mối sầu cho ai.
Thứ nhất cô Nghị Thanh HoaThứ nhì Bủi Lạng, thứ ba Thạch Sùng.
(Những người giàu có nhất ở Việt Nam thời xưa. Bà Bủi ở thôn Đông, xã Bình Lãng, huyện Tứ Kỳ)
Tiền làng Đọc, thóc làng Nhữ, chữ làng Chằm.(Làng Đọc giàu có, làng Nhữ ruộng tốt, nhiều thóc lúa, làng Chằm (Mộ Trạch) nổi tiếng học giỏi. Ba làng thuộc huyện Bình Giang)
Trạng cờ Mộ Trạch càng ghêSứ Yên thua cuộc rút xe về thành.
(Tiến sĩ Vũ Huyên người làng Mộ Trạch dùng mẹo mách nước cờ cho vua Lê Dụ Tông khi vua đánh cờ với sứ Trung Hoa)
Trên trời có đám mây xanhỞ giữa mây trắng xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Hà Nội, Nam Định dọn đàng đưa dâu
Tỉnh Thanh cung đốn trầu cau
Nghệ An thời phải thui trâu mổ bò
Hưng Yên quạt nước hỏa lò
Thái Bình thời phải giã giò, gói nem
Ninh Bình trải chiếu bưng mâm
Hải Dương vót đũa, Hà Đông đúc nồi
Sơn Tây gánh đá nung vôi
Bắc Cạn thời phải thổi xôi nấu chè
Gia Định hầu điếu hầu xe
Phủ Đình thời phải chém tre bắc cầu
Nước Tây nước Tàu anh gửi thư sang
Anh mời hai họ nhà trời
Ông Sấm ông Sét, đứng đầu Thiên Lôi.
X Một đồng một giỏ, không bỏ nghề câu.(Phương ngôn làng Giám, Cẩm Giàng)
Mộ Trạch họp việc làng giữa kinh đô.(Đời chúa Trịnh Tráng, làng Mộ Trạch có tới 17 người đỗ đạt làm quan trong triều)
Muốn ăn cơm trắng, cá ngầnLấy chồng làng Bói cho gần chợ Hôm.
(Bói, Hôm thuộc huyện Ninh Giang)
Muốn làm ***** con chaThì sinh ở đất Thanh Hà xứ Đông.
Mưa từ làng Lý, làng RàoLòng em khao khát mà nào thấy mưa.
(Lý, Rào thuộc thị trấn Nam Sách)
N[sửa] Nam Chân, Bắc Dũng, Đông Kỳ, Tây Lạc.(Thời Nguyễn, có bốn huyện được coi là trù phú nhất: xứ Sơn Nam có huyện Chân Định, xứ Kinh Bắc có huyện Yên Dũng, xứ Hải Dương có huyện Tứ Kỳ, xứ Sơn Tây có huyện Yên Lạc)
Năm giáp Châu Khê, hai đình Hàng Bạc.(Người làng thuộc năm giáp ở làng Châu Khê (Bình Giang) di cư ra Thăng Long làm nghề đúc bạc, lập ra phố Hàng Bạc. Hai ngôi đình là Trương đình và Kim Ngân đình là nơi nộp thành phẩm cho nhà nước)
Nước Thanh Mai đi hai về một.(Xưa kia Thanh Mai ở Chí Linh là vùng rừng thiêng nước độc)
Q[sửa] Quan làng Cốc, ốc làng Cờ.(Làng Thượng Cốc ở Gia Lộc có nhiều người làm quan, làng Cờ ở Tứ Kỳ ruộng trũng có nhiều ốc)
R[sửa] Rượu làng Mơ, cờ Mộ Trạch. T[sửa] Tại hương tại phố một quêChâu Khê, Hàng Bạc đi về ngược xuôi
Như hương tỏa khắp mọi nơi
Kim hoàn trang sức cho đời đẹp xinh.
Tháng tám hội Cha, tháng ba hội Mẹ.(Hội đền Kiếp Bạc mở vào tháng tám để tưởng nhớ Đức Thánh Trần; hội Phủ Dầy ở Nam Định mở vào tháng ba để tưởng nhớ Mẫu Liễu Hạnh)
Thành Phao, Phả Lại, Lục ĐầuEm về em để mối sầu cho ai.
Thứ nhất cô Nghị Thanh HoaThứ nhì Bủi Lạng, thứ ba Thạch Sùng.
(Những người giàu có nhất ở Việt Nam thời xưa. Bà Bủi ở thôn Đông, xã Bình Lãng, huyện Tứ Kỳ)
Tiền làng Đọc, thóc làng Nhữ, chữ làng Chằm.(Làng Đọc giàu có, làng Nhữ ruộng tốt, nhiều thóc lúa, làng Chằm (Mộ Trạch) nổi tiếng học giỏi. Ba làng thuộc huyện Bình Giang)
Trạng cờ Mộ Trạch càng ghêSứ Yên thua cuộc rút xe về thành.
(Tiến sĩ Vũ Huyên người làng Mộ Trạch dùng mẹo mách nước cờ cho vua Lê Dụ Tông khi vua đánh cờ với sứ Trung Hoa)
Trên trời có đám mây xanhỞ giữa mây trắng xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Hà Nội, Nam Định dọn đàng đưa dâu
Tỉnh Thanh cung đốn trầu cau
Nghệ An thời phải thui trâu mổ bò
Hưng Yên quạt nước hỏa lò
Thái Bình thời phải giã giò, gói nem
Ninh Bình trải chiếu bưng mâm
Hải Dương vót đũa, Hà Đông đúc nồi
Sơn Tây gánh đá nung vôi
Bắc Cạn thời phải thổi xôi nấu chè
Gia Định hầu điếu hầu xe
Phủ Đình thời phải chém tre bắc cầu
Nước Tây nước Tàu anh gửi thư sang
Anh mời hai họ nhà trời
Ông Sấm ông Sét, đứng đầu Thiên Lôi.
X Một đồng một giỏ, không bỏ nghề câu.(Phương ngôn làng Giám, Cẩm Giàng)
Mộ Trạch họp việc làng giữa kinh đô.(Đời chúa Trịnh Tráng, làng Mộ Trạch có tới 17 người đỗ đạt làm quan trong triều)
Muốn ăn cơm trắng, cá ngầnLấy chồng làng Bói cho gần chợ Hôm.
(Bói, Hôm thuộc huyện Ninh Giang)
Muốn làm ***** con chaThì sinh ở đất Thanh Hà xứ Đông.
Mưa từ làng Lý, làng RàoLòng em khao khát mà nào thấy mưa.
(Lý, Rào thuộc thị trấn Nam Sách)
N[sửa] Nam Chân, Bắc Dũng, Đông Kỳ, Tây Lạc.(Thời Nguyễn, có bốn huyện được coi là trù phú nhất: xứ Sơn Nam có huyện Chân Định, xứ Kinh Bắc có huyện Yên Dũng, xứ Hải Dương có huyện Tứ Kỳ, xứ Sơn Tây có huyện Yên Lạc)
Năm giáp Châu Khê, hai đình Hàng Bạc.(Người làng thuộc năm giáp ở làng Châu Khê (Bình Giang) di cư ra Thăng Long làm nghề đúc bạc, lập ra phố Hàng Bạc. Hai ngôi đình là Trương đình và Kim Ngân đình là nơi nộp thành phẩm cho nhà nước)
Nước Thanh Mai đi hai về một.(Xưa kia Thanh Mai ở Chí Linh là vùng rừng thiêng nước độc)
Q[sửa] Quan làng Cốc, ốc làng Cờ.(Làng Thượng Cốc ở Gia Lộc có nhiều người làm quan, làng Cờ ở Tứ Kỳ ruộng trũng có nhiều ốc)
R[sửa] Rượu làng Mơ, cờ Mộ Trạch. T[sửa] Tại hương tại phố một quêChâu Khê, Hàng Bạc đi về ngược xuôi
Như hương tỏa khắp mọi nơi
Kim hoàn trang sức cho đời đẹp xinh.
Tháng tám hội Cha, tháng ba hội Mẹ.(Hội đền Kiếp Bạc mở vào tháng tám để tưởng nhớ Đức Thánh Trần; hội Phủ Dầy ở Nam Định mở vào tháng ba để tưởng nhớ Mẫu Liễu Hạnh)
Thành Phao, Phả Lại, Lục ĐầuEm về em để mối sầu cho ai.
Thứ nhất cô Nghị Thanh HoaThứ nhì Bủi Lạng, thứ ba Thạch Sùng.
(Những người giàu có nhất ở Việt Nam thời xưa. Bà Bủi ở thôn Đông, xã Bình Lãng, huyện Tứ Kỳ)
Tiền làng Đọc, thóc làng Nhữ, chữ làng Chằm.(Làng Đọc giàu có, làng Nhữ ruộng tốt, nhiều thóc lúa, làng Chằm (Mộ Trạch) nổi tiếng học giỏi. Ba làng thuộc huyện Bình Giang)
Trạng cờ Mộ Trạch càng ghêSứ Yên thua cuộc rút xe về thành.
(Tiến sĩ Vũ Huyên người làng Mộ Trạch dùng mẹo mách nước cờ cho vua Lê Dụ Tông khi vua đánh cờ với sứ Trung Hoa)
Trên trời có đám mây xanhỞ giữa mây trắng xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Hà Nội, Nam Định dọn đàng đưa dâu
Tỉnh Thanh cung đốn trầu cau
Nghệ An thời phải thui trâu mổ bò
Hưng Yên quạt nước hỏa lò
Thái Bình thời phải giã giò, gói nem
Ninh Bình trải chiếu bưng mâm
Hải Dương vót đũa, Hà Đông đúc nồi
Sơn Tây gánh đá nung vôi
Bắc Cạn thời phải thổi xôi nấu chè
Gia Định hầu điếu hầu xe
Phủ Đình thời phải chém tre bắc cầu
Nước Tây nước Tàu anh gửi thư sang
Anh mời hai họ nhà trời
Ông Sấm ông Sét, đứng đầu Thiên Lôi.
X Một đồng một giỏ, không bỏ nghề câu.(Phương ngôn làng Giám, Cẩm Giàng)
Mộ Trạch họp việc làng giữa kinh đô.(Đời chúa Trịnh Tráng, làng Mộ Trạch có tới 17 người đỗ đạt làm quan trong triều)
Muốn ăn cơm trắng, cá ngầnLấy chồng làng Bói cho gần chợ Hôm.
(Bói, Hôm thuộc huyện Ninh Giang)
Muốn làm ***** con chaThì sinh ở đất Thanh Hà xứ Đông.
Mưa từ làng Lý, làng RàoLòng em khao khát mà nào thấy mưa.
(Lý, Rào thuộc thị trấn Nam Sách)
N[sửa] Nam Chân, Bắc Dũng, Đông Kỳ, Tây Lạc.(Thời Nguyễn, có bốn huyện được coi là trù phú nhất: xứ Sơn Nam có huyện Chân Định, xứ Kinh Bắc có huyện Yên Dũng, xứ Hải Dương có huyện Tứ Kỳ, xứ Sơn Tây có huyện Yên Lạc)
Năm giáp Châu Khê, hai đình Hàng Bạc.(Người làng thuộc năm giáp ở làng Châu Khê (Bình Giang) di cư ra Thăng Long làm nghề đúc bạc, lập ra phố Hàng Bạc. Hai ngôi đình là Trương đình và Kim Ngân đình là nơi nộp thành phẩm cho nhà nước)
Nước Thanh Mai đi hai về một.(Xưa kia Thanh Mai ở Chí Linh là vùng rừng thiêng nước độc)
Q[sửa] Quan làng Cốc, ốc làng Cờ.(Làng Thượng Cốc ở Gia Lộc có nhiều người làm quan, làng Cờ ở Tứ Kỳ ruộng trũng có nhiều ốc)
R[sửa] Rượu làng Mơ, cờ Mộ Trạch. T[sửa] Tại hương tại phố một quêChâu Khê, Hàng Bạc đi về ngược xuôi
Như hương tỏa khắp mọi nơi
Kim hoàn trang sức cho đời đẹp xinh.
Tháng tám hội Cha, tháng ba hội Mẹ.(Hội đền Kiếp Bạc mở vào tháng tám để tưởng nhớ Đức Thánh Trần; hội Phủ Dầy ở Nam Định mở vào tháng ba để tưởng nhớ Mẫu Liễu Hạnh)
Thành Phao, Phả Lại, Lục ĐầuEm về em để mối sầu cho ai.
Thứ nhất cô Nghị Thanh HoaThứ nhì Bủi Lạng, thứ ba Thạch Sùng.
(Những người giàu có nhất ở Việt Nam thời xưa. Bà Bủi ở thôn Đông, xã Bình Lãng, huyện Tứ Kỳ)
Tiền làng Đọc, thóc làng Nhữ, chữ làng Chằm.(Làng Đọc giàu có, làng Nhữ ruộng tốt, nhiều thóc lúa, làng Chằm (Mộ Trạch) nổi tiếng học giỏi. Ba làng thuộc huyện Bình Giang)
Trạng cờ Mộ Trạch càng ghêSứ Yên thua cuộc rút xe về thành.
(Tiến sĩ Vũ Huyên người làng Mộ Trạch dùng mẹo mách nước cờ cho vua Lê Dụ Tông khi vua đánh cờ với sứ Trung Hoa)
Trên trời có đám mây xanhỞ giữa mây trắng xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Hà Nội, Nam Định dọn đàng đưa dâu
Tỉnh Thanh cung đốn trầu cau
Nghệ An thời phải thui trâu mổ bò
Hưng Yên quạt nước hỏa lò
Thái Bình thời phải giã giò, gói nem
Ninh Bình trải chiếu bưng mâm
Hải Dương vót đũa, Hà Đông đúc nồi
Sơn Tây gánh đá nung vôi
Bắc Cạn thời phải thổi xôi nấu chè
Gia Định hầu điếu hầu xe
Phủ Đình thời phải chém tre bắc cầu
Nước Tây nước Tàu anh gửi thư sang
Anh mời hai họ nhà trời
Ông Sấm ông Sét, đứng đầu Thiên Lôi.
X Một đồng một giỏ, không bỏ nghề câu.(Phương ngôn làng Giám, Cẩm Giàng)
Mộ Trạch họp việc làng giữa kinh đô.(Đời chúa Trịnh Tráng, làng Mộ Trạch có tới 17 người đỗ đạt làm quan trong triều)
Muốn ăn cơm trắng, cá ngầnLấy chồng làng Bói cho gần chợ Hôm.
(Bói, Hôm thuộc huyện Ninh Giang)
Muốn làm ***** con chaThì sinh ở đất Thanh Hà xứ Đông.
Mưa từ làng Lý, làng RàoLòng em khao khát mà nào thấy mưa.
(Lý, Rào thuộc thị trấn Nam Sách)
Nam Chân, Bắc Dũng, Đông Kỳ, Tây Lạc.(Thời Nguyễn, có bốn huyện được coi là trù phú nhất: xứ Sơn Nam có huyện Chân Định, xứ Kinh Bắc có huyện Yên Dũng, xứ Hải Dương có huyện Tứ Kỳ, xứ Sơn Tây có huyện Yên Lạc)
Năm giáp Châu Khê, hai đình Hàng Bạc.(Người làng thuộc năm giáp ở làng Châu Khê (Bình Giang) di cư ra Thăng Long làm nghề đúc bạc, lập ra phố Hàng Bạc. Hai ngôi đình là Trương đình và Kim Ngân đình là nơi nộp thành phẩm cho nhà nước)
Nước Thanh Mai đi hai về một.(Xưa kia Thanh Mai ở Chí Linh là vùng rừng thiêng nước độc)
Q[sửa] Quan làng Cốc, ốc làng Cờ.(Làng Thượng Cốc ở Gia Lộc có nhiều người làm quan, làng Cờ ở Tứ Kỳ ruộng trũng có nhiều ốc)
Rượu làng Mơ, cờ Mộ Trạch. Tại hương tại phố một quêChâu Khê, Hàng Bạc đi về ngược xuôi
Như hương tỏa khắp mọi nơi
Kim hoàn trang sức cho đời đẹp xinh.
Tháng tám hội Cha, tháng ba hội Mẹ.(Hội đền Kiếp Bạc mở vào tháng tám để tưởng nhớ Đức Thánh Trần; hội Phủ Dầy ở Nam Định mở vào tháng ba để tưởng nhớ Mẫu Liễu Hạnh)
Thành Phao, Phả Lại, Lục ĐầuEm về em để mối sầu cho ai.
Thứ nhất cô Nghị Thanh HoaThứ nhì Bủi Lạng, thứ ba Thạch Sùng.
(Những người giàu có nhất ở Việt Nam thời xưa. Bà Bủi ở thôn Đông, xã Bình Lãng, huyện Tứ Kỳ)
Tiền làng Đọc, thóc làng Nhữ, chữ làng Chằm.(Làng Đọc giàu có, làng Nhữ ruộng tốt, nhiều thóc lúa, làng Chằm (Mộ Trạch) nổi tiếng học giỏi. Ba làng thuộc huyện Bình Giang)
Trạng cờ Mộ Trạch càng ghêSứ Yên thua cuộc rút xe về thành.
(Tiến sĩ Vũ Huyên người làng Mộ Trạch dùng mẹo mách nước cờ cho vua Lê Dụ Tông khi vua đánh cờ với sứ Trung Hoa)
Trên trời có đám mây xanhỞ giữa mây trắng xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Hà Nội, Nam Định dọn đàng đưa dâu
Tỉnh Thanh cung đốn trầu cau
Nghệ An thời phải thui trâu mổ bò
Hưng Yên quạt nước hỏa lò
Thái Bình thời phải giã giò, gói nem
Ninh Bình trải chiếu bưng mâm
Hải Dương vót đũa, Hà Đông đúc nồi
Sơn Tây gánh đá nung vôi
Bắc Cạn thời phải thổi xôi nấu chè
Gia Định hầu điếu hầu xe
Phủ Đình thời phải chém tre bắc cầu
Nước Tây nước Tàu anh gửi thư sang
Anh mời hai họ nhà trời
Ông Sấm ông Sét, đứng đầu Thiên Lôi.
Xa đưa văng vẳng tiếng chuôngKìa chùa Phả Lại chập chùng bên sông.
Xin lỗi bạn mình nhấn nhầm nút Coppy