Quan sát và miêu tả một loài chim quen thuộc ở quê em.
Em hãy quan sát và miêu tả một loài chim quen thuộc ở quê em.
Đoạn văn 13-19 dòng.
Sáng tinh mơ, những hôm trời nắng, ta vừa tỉnh giấc đã nghe tiếng chim sẻ ''chéo... chẹc” râm ran dưới mái nhà hoặc trên sân nhà, ngoài ngõ vườn. Loài chim sẻ bình dị thân thuộc nơi làng quê mà ai cũng nhìn thấy.Chim sẻ nhỏ bé, đầu tròn, mỏ ngắn và to. Lông thường có ba màu: cỏ úa, nâu đen, cổ và bụng trắng, tạo thành sọc. Cái đuôi chìa ra như cái thìa. Chân chim sẻ có 4 ngón: ba ngón phía trước và một ngón cái phía sau; móng ngón cái lớn hơn móng các ngón khác. Chim sẻ thường nhảy hai chân cùng một lúc. Chúng thường kiếm ăn theo đàn, mỗi đàn có từ ba đến chín con, có thể đông hơn và thường quanh quẩn nơi sân, nơi vườn. Chúng nhanh nhẹn, hiếu động. Thức ăn của chim sẻ là sâu bọ, các hạt như thóc, kê, hạt cỏ... Chúng thường làm tổ dưới mái nhà khe tường, ngọn cau, ngọn dừa. Vật liệu làm tổ là rơm, cỏ khô, lá khô, giấy vụn. Mỗi năm chim sẻ ** 3 lứa, mỗi lứa từ 3 - 5 trứng. Trứng chim sẻ bằng viên lạc, nhưng có vằn sọc nâu. Chim mẹ ấp trứng độ hai tuần là nở. Chim non chỉ khoảng một tuần là bay theo chim mẹ, kiếm ăn và cất tiếng hót ríu rít.
Trong các loài chim em thích nhất là chim bồ câu vì đó là loài chim tượng trưng cho hòa bình.
Chú thật duyên dáng với bộ lông trắng muốt, mịn màng. Thân nó nhỏ như cái ấm pha trà. Đầu to hơn hạt mít một chút, cứ lúc lắc thật khó hiểu. Đôi mắt đen láy, tròn xoe như hạt na nhỏ trông thật hiền lành. Bồ câu có cái mỏ nhỏ, xinh xinh. Nó thường rỉa lông, lâu lâu lại dụi mỏ vào đôi cánh xếp gọn hai bên mình. Hai chân của chim nhỏ nhưng rất nhanh nhẹn. Dáng bước đi trông thật kiêu sa với cái đuôi xoè rất đẹp rung rung trong nắng. Khi xem ti vi, em thấy người ta thả những chú chim bồ câu cho nó bay đi. Đôi cánh chim rập rờn như múa làm em vô cùng thích thú.
Được ngắm đàn bồ câu bay lượn em cảm thấy thật vui. Em rất yêu thích và quý mến loài chim này
Đồng phẳng lặng, mặt nước trong veo, quanh co uốn khúc sau một nấm gò.
Màu thanh thiên dịu bát ngát, buổi chiều lâng lâng. Chim khách nhảy nhót ở đầu bờ, người đánh sậm siêng năng không nể bóng xế chiều, vẫn còn bì bõm dưới bùn, nước quá đầu gối. Một con cò trắng trẻo đang bay êm như nhung trong không khí tế nhị như nước suối trong... Đầu duỗi thẳng ngang bằng với mình, hai chân duỗi xuôi về nẻo sau, nó bay chậm, nó bay nhanh, nó vỗ cánh mềm dẻo rồi nó bav vào chân trời mượn hình dáng của hoạ sĩ cổ vẽ tranh sơn thuỷ. Con cò bay rồi lại đậu, nó là là cách mặt đất độ mấy tấc, rồi sát gần, rồi nhẹ nhàng đặt chân lên đất dễ dãi, tự nhiên, mẩu nhiệm như mọi hoạt động của tạo hoá. Nó thong thả đi trên đồi đất bị nước bỏ. Rồi nó dừng lại, lặng yên, xung quanh vắng vẻ, tựa như anh hùng độc lập. Rồi nó lại cất cánh bay nhẹ như chẳng ngờ, không gây một tiếng động trong không khí
Chúc Minh Tuấn học tốt nhé !!!
Em hãy quan sát và miêu tả loài chim quen thuộc quê em
Bn hãy quan sát và miêu tả một loài chim quen thuộc ở quê hương. ( Từ bài Lao xao )
Sáng tinh mơ, những hôm trời nắng, ta vừa tỉnh giấc đã nghe tiếng chim sẻ ''chéo... chẹc” râm ran dưới mái nhà hoặc trên sân nhà, ngoài ngõ vườn. Loài chim sẻ bình dị thân thuộc nơi làng quê mà ai cũng nhìn thấy.
Chim sẻ nhỏ bé, đầu tròn, mỏ ngắn và to. Lông thường có ba màu: cỏ úa, nâu đen, cổ và bụng trắng, tạo thành sọc. Cái đuôi chìa ra như cái thìa. Chân chim sẻ có 4 ngón: ba ngón phía trước và một ngón cái phía sau; móng ngón cái lớn hơn móng các ngón khác. Chim sẻ thường nhảy hai chân cùng một lúc. Chúng thường kiếm ăn theo đàn, mỗi đàn có từ ba đến chín con, có thể đông hơn và thường quanh quẩn nơi sân, nơi vườn. Chúng nhanh nhẹn, hiếu động. Thức ăn của chim sẻ là sâu bọ, các hạt như thóc, kê, hạt cỏ... Chúng thường làm tổ dưới mái nhà khe tường, ngọn cau, ngọn dừa. Vật liệu làm tổ là rơm, cỏ khô, lá khô, giấy vụn. Mỗi năm chim sẻ đẻ 3 lứa, mỗi lứa từ 3 - 5 trứng. Trứng chim sẻ bằng viên lạc, nhưng có vằn sọc nâu. Chim mẹ ấp trứng độ hai tuần là nở. Chim non chỉ khoảng một tuần là bay theo chim mẹ, kiếm ăn và cất tiếng hót ríu rít.
Sẻ là loài chim đông đúc nhất. Con chim nhỏ bé nhưng rất có ích cho nhà nông.
Em hãy quan sát và miêu tả 1 loài chim quen thuộc ở quê em (bằng 1 đoạn văn ngắn) kết hợp miêu tả đặc điểm vê hình dáng,ính nét nổi bật trong hoạt động của loài chim
Sáng tinh mơ, những hôm trời nắng, ta vừa tỉnh giấc đã nghe tiếng chim sẻ ''chéo... chẹc” râm ran dưới mái nhà hoặc trên sân nhà, ngoài ngõ vườn. Loài chim sẻ bình dị thân thuộc nơi làng quê mà ai cũng nhìn thấy.
Chim sẻ nhỏ bé, đầu tròn, mỏ ngắn và to. Lông thường có ba màu: cỏ úa, nâu đen, cổ và bụng trắng, tạo thành sọc. Cái đuôi chìa ra như cái thìa. Chân chim sẻ có 4 ngón: ba ngón phía trước và một ngón cái phía sau; móng ngón cái lớn hơn móng các ngón khác. Chim sẻ thường nhảy hai chân cùng một lúc. Chúng thường kiếm ăn theo đàn, mỗi đàn có từ ba đến chín con, có thể đông hơn và thường quanh quẩn nơi sân, nơi vườn. Chúng nhanh nhẹn, hiếu động. Thức ăn của chim sẻ là sâu bọ, các hạt như thóc, kê, hạt cỏ... Chúng thường làm tổ dưới mái nhà khe tường, ngọn cau, ngọn dừa. Vật liệu làm tổ là rơm, cỏ khô, lá khô, giấy vụn. Mỗi năm chim sẻ ** 3 lứa, mỗi lứa từ 3 - 5 trứng. Trứng chim sẻ bằng viên lạc, nhưng có vằn sọc nâu. Chim mẹ ấp trứng độ hai tuần là nở. Chim non chỉ khoảng một tuần là bay theo chim mẹ, kiếm ăn và cất tiếng hót ríu rít.
Sẻ là loài chim đông đúc nhất. Con chim nhỏ bé nhưng rất có ích cho nhà nông.
Em hãy quan sát và miêu tả một loài chim quen thuộc ở quê em.
1. Chim hoạ mi
Chiều nào cũng vậy, con hoạ mi ấy không biết từ phương nào bay đến đậu trong bụi tầm xuân ở vườn nhà tôi mà hót.
Hình như suốt một ngày hôm đó, nó vui mừng vì đã được tha hồ rong ruổi bay chơi trong khắp trời mây gió, uống bao nhiêu nước suối mát trong khe núi, nếm bao nhiêu thứ quả ngon ngọt nhất ở rừng xanh. Cho nên những buổi chiều tiếng hót có khi êm đềm, có khi rộn rã, như một điệu đàn ai bấm trong bóng xế, mà âm thanh vang mãi trong tĩnh mịch, tưởng như làm rung động lớp sương lạnh mờ mờ rù xuống cỏ cây.
Hót một lúc lâu, nhạc sĩ giang hồ không tên không tuổi ấy từ từ nhắm hai mắt lại thu đầu vào lông cổ im lặng ngủ, ngủ say sưa, sau một cuộc viễn du trong bóng đêm dày.
Rồi hôm sau, khi phương Đông vừa vẩn bụi hồng, con hoạ mi ấy lại hót vang lừng, chào sáng sớm. Nó kéo dài cổ ra mà hót, tựa hồ nó muốn các bạn xa gần đâu đó lắng nghe. Hót xong, nó xù lông rũ hết những giọt sương rồi nhanh nhẹn chuyển bụi nọ bụi kia, tìm vài con sâu, ăn lót dạ, đoạn vỗ cánh bay vút về phương Đông.
2. Vệ sĩ của rừng xanh - đại bàng
Nếu như người dân miền biển biết được trước ngày biển động nhờ cánh chim báo bão, thì người dân Trường Sơn lại có thể biết được trời sắp có mưa to gió lớn ở những đôi cánh đại bàng đang sải vội vã trên bầu ười trong xanh không một gợn mây.
Thật hùng dũng làm sao những cánh chim đại bàng đạp cơn gió rừng đang ập đến trên trời xanh.
Ở Trường Sơn, mỗi khi trời nổi gió, thật là dữ dội. Những cây đại thụ sống hàng trăm năm cũng bị bật gốc cuốn tung ném xuống vực thẳm. Cây đổ, đá lăn ào ào. Cầy càng cao sức cản càng lớn, càng thi nhau đổ gãy. Có cả những tảng núi đất sụt lở.
Giữa lúc đó, giữa lúc gió đang gào thét ấy, cánh chim đại bàng vẫn bay liệng trên nền trời. Có lúc chim cụp cánh lao vút đi như một mũi tên. Có lúc lại vẫy cánh đạp gió tung mình lên cao. Chỉ những lúc ấy mới thấy được khúc ca hùng tráng của đôi cánh chim đại bàng. Mặc mưa sa, mặc gió dậy, đại bàng vẫn xoè cánh bay từ triển núi này sang mỏm núi khác, cho đến khi nào mưa ngừng gió tạnh mới thôi.
Đại bàng ở Trường Sơn có hai loại phổ biến: loại lông đen, mỏ vàng, chân đỏ và loại lông màu xanh cánh trả, chân vàng, mỏ đỏ.
Mỗi con đại bàng, khi vỗ cánh bay lên cao nom như một chiếc tàu lượn. Nó có sải cánh rất vĩ đại, dài tới ba mét. Và cũng phải nhờ sải cánh như vậy, nó mới có thể bốc được khối lượng nặng nề của nó tới gần ba chục cân lên bầu trời cao.
Cánh đại bàng rất khoẻ, nó có một bộ xương cánh tròn dài như ống sáo, và trong như lớp thuỷ tinh. Lông cánh đại bàng ngắn nhất cũng phải tới bốn mươi nhăm phân. Mỏ đại bàng dài tới bốn mươi phân, rất cứng. Và đôi chân thì giống như đôi móc hàng của cần cẩu, những móng của nó với những vuốt nhọn có thể cào sơ gỗ như ta tước lạt giang vậy.
Khi đại bàng kiếm mồi, nó có thể vồ và cặp lên trời cả một con cheo rừng nặng khoảng ba kí lô và bay một mạch vẻ tổ. Tổ đại bàng không làm trên cây như tổ chim mà làm ở các hang đá. Khi con mái ở nhà ấp, thì con đực đi dọc theo ven suối bắt cá. Nó ngồi rình, khi thấy những con cá trắm, hoặc trôi nổi lên là dùng mò
chộp, chạy về chia cho vợ. Mặc dù có đôi cánh rất khoẻ, nhưng đại bàng lại ít bay. Nó chạy trên mặt đất nom như một con ngỗng cụ, và luồn dưới các bụi cây rất giỏi.
Vùng núi tây Trường Sơn, theo dải núi dọc sông Ba có thể là xứ sở của loài chim này. Thấy rất ít trường hợp chúng bay đôi với nhau và ngay cả chú đại bàng con cũng vậy, ít khi nó bay cùng với cha hoặc mẹ. Có thể nói loài chim này, ngay khi mới tập bay, đã có tính độc lập cao. Bay ngược chiều gió, đó là cách rèn luyện cho đôi cánh non nớt của nó trở nên cứng cáp.
Đôi cánh lực sĩ của đại bàng, thật là hình ảnh kiêu hùng của bầu trời Trường Sơn. Nó có thể bay một mạch dài khoảng hai mươi cây số đường chim bay, không cần nghỉ.
Cánh đại bàng vỗ vào không khí tạo nên luồng gió phát ra những tiếng kêu vi vút, vi vút. Anh chiến sĩ đã gọi đó là dàn nhạc giao hưởng trên bầu trời. Mặc dù có sức khoẻ và được các loài chim nghiêng mình cúi chào, nhưng đại bàng cũng khộng cậy sức khoẻ của mình để đàn áp các giống chim khác.
Xứng đáng với danh hiệu kẻ làm chủ bầu trời trong các loài chim, đại bàng phô màu cánh xanh biếc của mình phản chiếu ráng trời đỏ rực, báo hiệu một cơn gió lớn sắp xảy tới, hoặc mưa nguồn đang đổ về.
Hình ảnh con chim đại bàng trở thành hình tượng của lòng khát khao tự do và tinh thần dũng cảm, đức tính hiền lành của người dân miền núi...
Đại bàng rất hiền lành, nhưng khi bị kẻ thù xâm phạm thì nó cũng chiến đấu rất quyết liệt. Người ta đã chứng kiến cảnh chim đại bàng đánh bại bầy khỉ định kéo nhau đến phá tổ. Vũ khí của nó là cặp mỏ nhọn, sải đầu cánh và móng nhọn. Đại bàng có thể cặp những chú khỉ con bay lên cao rồi thả xuống đất hoặc dùng vuốt nhọn xé chết. Dù sau đó có phải rời tổ bay đi nơi khác, chúng cũng không chịu để cho bầy khỉ vào cướp trứng của mình. Với sức khoẻ tung hoành trên ười cao, đại bàng đáng được gọi là “Vộ sĩ của rừng xanh”.
Sáng tinh mơ, những hôm trời nắng, ta vừa tỉnh giấc đã nghe tiếng chim sẻ ''chéo... chẹc” râm ran dưới mái nhà hoặc trên sân nhà, ngoài ngõ vườn. Loài chim sẻ bình dị thân thuộc nơi làng quê mà ai cũng nhìn thấy.
Chim sẻ nhỏ bé, đầu tròn, mỏ ngắn và to. Lông thường có ba màu: cỏ úa, nâu đen, cổ và bụng trắng, tạo thành sọc. Cái đuôi chìa ra như cái thìa. Chân chim sẻ có 4 ngón: ba ngón phía trước và một ngón cái phía sau; móng ngón cái lớn hơn móng các ngón khác. Chim sẻ thường nhảy hai chân cùng một lúc. Chúng thường kiếm ăn theo đàn, mỗi đàn có từ ba đến chín con, có thể đông hơn và thường quanh quẩn nơi sân, nơi vườn. Chúng nhanh nhẹn, hiếu động. Thức ăn của chim sẻ là sâu bọ, các hạt như thóc, kê, hạt cỏ... Chúng thường làm tổ dưới mái nhà khe tường, ngọn cau, ngọn dừa. Vật liệu làm tổ là rơm, cỏ khô, lá khô, giấy vụn. Mỗi năm chim sẻ đẻ 3 lứa, mỗi lứa từ 3 - 5 trứng. Trứng chim sẻ bằng viên lạc, nhưng có vằn sọc nâu. Chim mẹ ấp trứng độ hai tuần là nở. Chim non chỉ khoảng một tuần là bay theo chim mẹ, kiếm ăn và cất tiếng hót ríu rít.
Sẻ là loài chim đông đúc nhất. Con chim nhỏ bé nhưng rất có ích cho nhà nông.
Trong vương quốc của các loài chim, sơn ca được người ta yêu quý mà đặt cho danh hiệu "danh ca" của rừng xanh bởi tiếng hót của đặc biệt, không trộn lẫn của chúng. Và đó cũng là loài chim quen thuộc ở quê hương em.
Buổi sáng đẹp trời, khi ông mặt trời vừa mới thức dậy và nhô mình lên khỏi lũy tre làng, vạn vật như bừng tỉnh giấc sau một đêm dài ngủ ngon. Không khí trong lành và mát rượi. Làn sương mỏng quấn quít trong không gian lưu luyến như chẳng muốn rời. Bốn bề tĩnh lặng và bỗng từ đâu vang lên từng hồi từng hồi thứ âm thanh trong trẻo cao vút. A, thì ra là chú chim sơn ca đang cất cao tiếng hót của mình như một bản nhạc chào ngày mới của riêng chú.
Sơn ca là loài chim nhỏ, con trưởng thành cũng chỉ bằng hai bàn tay người lớn úp lại. Màu lông của chúng rất đơn giản, sắc lông chỉ từ vàng nhạt đến nâu đậm. Chú chim sơn ca đậu trước sân nhà khoác lên mình bộ lông màu nâu sẫm có những đốm đen điểm xuyết trên đầu cánh như trang sức mà thiên nhiên dành tặng cho chú. Cái đầu của chú ta nhỏ, tròn như quả trứng. Phía trên đầu có một chùm lông, dựng thẳng đên như một chiếc vương miện. Đôi mắt chú nhỏ, đen như hạt đỗ. Cái mỏ bé xíu màu vàng cứ chuyển động liên tục. Chân của chú nhỏ, ngón chân sau khá dài. Cái đuôi chú khá dài, cong và hơi chúi xuống đất để giữ thăng bằng khi di chuyển. Đặc biệt, điểm nổi bật của sơn ca là chỉ đi chứ không nhảy giống họa mi, vành khuyên hay chích chòe. Khi bay chúng thường bay vút lên cao rồi từ từ hạ cánh, vừa hạ cánh vừa hót từng hồi. Tiếng hót của sơn ca rất hay, trong và cao. Có lẽ đó cũng là lý do sơn ca được người yêu chim trân trọng và nâng niu.
Ông và bố em thường thức dậy từ sớm tin mơ rồi pha một ấm chè đặc rồi ngồi nhâm nhi trước sân nhà rồi lắng nghe tiếng hót của chim sơn ca. Đó là sở thích đặc biệt của ông và bố. Ông và bố nói với em rằng đây chính là quãng thời gian thảnh thơi, thoải mái nhất trong ngày của hai người. Hai người thường ngồi im lặng, nhấp một ngụm trà rồi nhắm mắt lại lim dim. Lúc ấy, em thấy khuôn mặt của ông và bố như giãn ra, hạnh phúc lắm. Thì ra, những thú vui bình dị, những con vật gần gũi, những thứ âm thanh quen thuộc của làng quê lại ấm áp và khiến cho người ta thương nhớ và hạnh phúc đến thế.
Tiếng chim sơn ca trong trẻo và nhưng buổi sáng ngồi cùng ông với bố trước sân nhà có lẽ sẽ là những kỉ niệm tuổi thơ mà em không bao giờ quên trong suốt cuộc đời này. Vì chỉ cần nghe tiếng chim sơn ca, em như được nhìn thấy hình ảnh của ông với mái tóc bạc trắng cầm cốc nước chè thong thả uống và khuôn mặt với nụ cười hiền hậu của bố....
Nhận xét nghệ thuật miêu tả các loài chim. Cụ thể:
c)Nhận xét về tài quan sát và tình cảm của tác giả với thiên nhiên, làng quê qua việc miêu tả các loài chim
c, Tác giả kết hợp kể, tả về các loài chim, tác giả vừa thể hiện khả năng quan sát tinh tế , vừa thay đổi được giọng văn mềm mại uyển chuyển.
- Thể hiện sự quan sát tỉ mỉ, nhấn mạnh vào đặc điểm riêng biệt của loài chim như một xã hội loài người có hiền, dữ, mâu thuẫn được giải quyết bằng bạo lực…
→ Tình cảm, sự gắn bó mật thiết giữa tác giả với thiên nhiên.
Nhận xét về tài quan sát và tình cảm của tác giả với thiên nhiên, làng quê qua việc miêu tả các loài chim trong bài “Lao xao” .
Qua bài văn, ta thấy được sự am hiểu của tác giả về các loài chim, tác giả hiểu về các nhóm loài khác nhau, biết về đặc điểm, đặc tính của từng loài, từng loại. Phải có vốn kiến thức sâu rộng mới có thể liên hệ những loài chim ấy với nhau. Từ đó, ta cũng thấy được sự yêu mến của tác giả đối với thiên nhiên xung quanh.
đề bài Em hãy miêu tả cảnh một phiên chợ quê mà em có dịp quan sát hoặc tham dự
Nếu ai sinh ra và lớn lên ở một vùng quê truyền thống, chắc hẳn không thể không biết đến những phiên chợ quê. Đối với em, hình ảnh phiên chợ quê luôn là hình ảnh thật đẹp in dấu trong tuổi thơ mình.
Chỉ những ngày lẻ thứ 3, thứ 5 hay thứ 7 mới có chợ phiên. Mỗi lần chợ phiên, cảnh họp chợ lại rộn ràng vui tươi hơn bao giờ hết. Ngay từ sáng sớm, từ khi mặt trời còn chưa ló rạng sau dãy núi cao, các bà, các chị, các mẹ đã vác thúng, vác hàng ra chợ. Ai cũng hối hả để có thể tìm được một vị trí thuận lợi cho việc buôn bán. Mặt trời lên cũng là lúc mọi mặt hàng đã được bày ra một cách đầy đủ nhất. Trong làn sương vẫn còn lảng vảng của vùng cao này, thấp thoáng bóng người ra chợ. Hai bên đường đến chợ, cây cối cũng dần cựa mình thức giấc. Những bông hoa cúc dại ven đường bắt đầu rũ những cánh hoa ướt sũng sau một đêm dài để đón làn nắng ấm áp của mặt trời. Núi đá còn ẩm hơi nước cũng óng ánh giữa sắc vàng của nắng.
Trong chợ, cảnh buôn bán ngày một tấp nập, kẻ bán người mua rộn ràng sôi nổi. Phía đầu chợ bên này là những sạp hàng bán bún, bán bánh phở khô cho những người qua đường tiện mua về làm bữa sáng gia đình. Đi vào sâu một chút là những quầy thịt. Các loại thịt sống từ thịt gà, thịt lợn, thịt trâu,... còn đỏ hồng được bày rất vệ sinh trên các khay hàng. Chốc chốc người bán hàng lại dùng vợt đuổi những con ruồi vo ve xung quanh. Gần đó là những hàng rau, ngô, khoai, sắn,... xanh mướt và tươi ngon. Các loại rau đặc trưng của mùa không ngừng được bày ra. Người hàng rau tay cầm bình xịt nước xịt liên tục để rau không bị héo dưới ánh nắng mặt trời. Đi quanh khu chợ, không thứ gì là không có. Từ những hàng chè, hàng phở ăn vặt, đến những sạp hàng quần áo, những hàng bán những đồ tạp hóa xinh xinh như cái kẹp tóc hay cái vòng tay. Mấy đứa bé gái đứng gần đó, mân mê ngắm nhìn mà không dám đòi mẹ mua.
Cảnh chợ phiên diễn ra sung túc và đầm ấm. Đó còn là dấu hiệu của cuộc sống no đầy, hạnh phúc. Nhìn những hàng quán đông đúc người mua, bày biện đủ thứ trên đời, lòng em thấy ấm âp lạ thường. Mong cho hôm nay và mãi mãi về sau, nơi đây vẫn giữ được vẻ ấm no, trù phú này.
Quan sát và miêu tả cảnh mưa rào ở thành phố hay vùng núi, vùng biển hoặc mưa xuân ở làng quê.
Mặt trời đang chói chang bỗng chốc mây đen từ đâu ùn ùn kéo tới, che kín cả bầu trời. Gió ngày càng mạnh hơn làm cây cối nghiêng ngả, đu đưa, bụi bay mù mịt. Mấy chú chim vội vã tìm nơi trú ngụ, mọi người cũng như khẩn trương hơn trước cơn mưa sắp tới gần... Lộp bộp... lộp bộp. Những hạt mưa bắt đầu nặng hạt hơn, bầu trời giờ bị chắn bởi những lớp nước trắng xóa, chớp sáng loáng rạch ngang trời, để lại tiếng sấm rền rĩ, ồn ào. Cây cối lúc này nhảy múa hào hứng với màn nước nước mưa mát lành trời ban tặng...