Những câu hỏi liên quan
Nhật Lê
Xem chi tiết
....
22 tháng 10 2021 lúc 8:26

Đã ba năm trời kể từ ngày Cám và dì mất, cũng là từng ấy thời gian Tấm trở lại sống trong cung cùng nhà vua. Mặc dù cuộc sống trôi đi yên bình, hạnh phúc, nhưng luôn có một nỗi niềm làm Tấm không khỏi bận lòng – về Cám!

Tháng bảy mới sang, lại gần đến ngày lễ Vu lan và ngày Xá tội vong nhân. Độ này Tấm hay nằm mơ thấy Cám. Những giấc mơ – kì lạ thay – giống hệt như nhau. Cám lơ lửng trong một khoảng không mịt mùng, vừa như gần mà lại xa vời vợi, mỏng manh như sương khói. Cám bận bộ quần áo giản đơn, trông gầy guộc xanh xao, hai hốc mắt trũng sâu, chỉ nhìn Tấm buồn rầu rầu, ánh mắt thiết tha như có điều muốn rãi tỏ. Giấc mơ lặp đi lặp lại khiến Tấm suy nghĩ rất nhiều – phải chăng ngày Xá tội gần kề, Cám muốn gặp Tấm để bày tỏ điều gì? Nghĩ vậy, nàng quyết định sẽ lên chùa vào ngày xá tội năm nay.

 

Ngày Xá tội vong nhân đến. Sáng sớm, Tấm đã dậy, tự tay làm chút đồ lễ rồi khởi hành đến ngôi chùa trên núi có tiếng rất thiêng. Tấm đến chùa thì đã gần trưa, nàng sắp lễ rồi thắp một nén nhang, thành tâm cầu khẩn! Nàng khấn cho Dì, cho Cám, cầu cho linh hồn của hai người được rửa tội và siêu thoát! Giữa lúc ấy, đột nhiên Tấm nghe ù ù bên tai, mở mắt ra thì không còn thấy điện thờ nữa, chỉ thấy mình đang lơ lửng giữa khoảng không xám đặc, cuộn xoáy! Chưa kịp định thần thì Tấm thấy mình bị hút về phía trước, mãi cho đến khi gặp một cánh cửa, cửa bật tung, Tấm bị hút vào đó. Sau cánh cửa là một căn phòng. Căn phòng trống không, tường và trần đều một màu xám, Tấm ngỡ ngàng. Nhưng đó chưa phải là điều lạ lùng nhất, cảnh cửa mở ra lần nữa, và Cám bước vào. Đúng là Cám, không mờ ảo như trong giấc mơ của Tấm, mà thực sự hiện hữu – Cám bằng xương bằng thịt! Tấm không nói được lời nào, trong nàng tràn ngập nỗi hoang mang và hàng trăm ngàn câu hỏi. Nàng đang ở đâu? Tại sao nàng bị đưa đến đây? Nơi này cách ngôi chùa kia bao xa? Giữa lúc bối rối, Cám chợt lên tiếng, tiếng nói nghe cũng rất thật, rất đỗi thân quen, nhưng thoáng chút gì như nghẹn ngào, và vang hơn bình thường:

 

- Chị Tấm!

Tấm hoảng hốt, hình ảnh Cám, giọng nói Cám, sống động quá. Nàng hoang mang: đây là mơ, hay là thực? Như đọc được suy nghĩ của Tấm, Cám tiếp:

Chị Tấm, chị và em đang ở dưới Âm Phủ! Đây là nơi mà người trần lẽ ra không được đến, chỉ có chị – người được thần thánh phù độ, trải qua bao kiếp nạn mới tới được!

Tấm không biết nói gì, nàng còn chưa hết sững sờ.

- Chị Tấm, sao chị không nói gì?

Tấm nhắm mắt, hít một hơi dài. Giờ thì nàng chắc chắn rằng đây không phải là mơ, nàng chọn lời:

- Em Cám à! Em đưa chị đến đây sao? Có phải em đã tìm gặp chị suốt mấy đêm rồi?

Cám gật đầu:

- Vậy phải chăng em có điều gì muốn nói? – Tấm tiếp.

- Vâng, hôm nay là ngày phán quyết của em. Hôm nay Diêm Vương sẽ định đoạt liệu linh hồn em có được siêu thoát, được đầu thai hay không.

“Cám khác quá!” – Tấm tự nhủ. Cám đang đứng trước mặt Tấm lễ phép, điềm đạm, hoàn toàn khác xưa.

- Em Cám, suốt ba năm qua em ở đâu?

Cám cười, nụ cười rầu rầu:

- Em được Diêm Vương sai đi chứng kiến cảnh khổ đau trong nhân gian, cảnh người ta bị lừa gạt, bị hãm hại, chứng kiến lòng đố kị, tham lam. Cứ đi một ngày, em phải về báo những gì mình nhìn được cho Diêm Vương, và cả những gì mình cảm thấy.

- Rồi sao nữa?

- Ban đầu em dửng dưng, em vô cảm, nhìn người khác đau đớn, bất hạnh, em không có lấy một chút mủi lòng. Vì thế mà Diêm Vương trừng phạt em bằng cách bắt em chịu tất cả những cảm xúc đau khổ ấy. Em quằn quại, em cầu xin dừng tay, nhưng vô ích! Cảm giác của người bị tra tấn, của người mất cha, mất mẹ, của người bị ruồng bỏ, của người bị hãm hại, như trận cuồng phong cào xé em. Em bị trừng phạt cho đến khi em biết đồng cảm, biết thương xót.

 

- Đến khi nào em mới biết thương xót những cảnh khốn cùng ấy?

- Hai năm trời chị Tấm ạ!

- Thế một năm còn lại em làm gì?

- Em xá tội cho những tội lỗi của mình. Diêm Vương gửi hồn em vào một con bống, con bống bị lừa gạt rồi bị làm thịt; rồi Diêm Vương gửi em vào con chim vàng anh, con chim cũng bị giết; Diêm Vương lại cho em vào cây xoan đào, cây xoan đào cũng bị đốt trụi! Như thế em cũng phải bỏ mạng bốn lần, bằng số lần em hãm hại chị.
Tấm im lặng. Ba năm trời ròng linh hồn Cám bị đày đọa, cái giá đắt cho những lỗi lầm khi còn sống.

- Vậy dì đâu, em đã phải chịu phạt cho cả phần dì nữa ư?
Cám rùng mình một cái, cô cất giọng buồn. Trông Cám như muốn khóc mà không thể khóc. Hẳn là người chết rồi không khóc được nữa.

- Mẹ em khi xuống đây đã làm náo loạn cả âm phủ, đắc tội với Diêm Vương. Mẹ quyết không nhận lỗi, vì thế mà phải chịu trừng phạt đau đớn, không những thế, đời đời kiếp kiếp phải đầu thai vào con ruồi, con cóc.

Dẫu dì đã làm nhiều điều độc ác với Tấm, Tấm nghe vậy cũng không khỏi xót xa! Đúng là không gì qua được mắt thần linh, tội lỗi dù sớm muộn đều bị trừng trị. Nghĩ đến đây, Tấm nhìn lại mình, bàn tay Tấm cũng từng rót nước sôi giết Cám, bàn tay Tấm cùng từng gửi hũ mắm đến cho Dì, khiến dì chết vì kinh sợ, bàn tay ấy đã từng làm điều xấu, từng giết người!

- Em Cám, em nói hôm nay là ngày phán quyết, phải chăng đích thân Diêm Vương sẽ…Tấm chưa dứt câu, đột nhiên cả căn phòng rung chuyển, rồi bất thình lình nới rộng ra, thành một nơi rộng mênh mông, u ám, tường vẽ đầy hình người bị tra tấn, trần thì cao hun hút. Tấm lờ mờ đoán ra: đây ắt hẳn là phòng xử của Âm Phủ.

Bàn xử án sừng sững trước mặt, Diêm Vương hiện ra. Vượt ra ngoài ngôn ngữ và trí tưởng tượng của con người, Diêm Vương, và cả bầu không khí toát ra từ Người không một từ nào có thể miêu tả. Ngài cất tiếng nói làm rúng động không gian:

- Cám, hẳn ngươi biết vì sao mình lại ở đây. Tấm, ngươi là người trần đầu tiên đặt chân xuống Âm Phủ, người biết vì sao không?

 

- Dạ bẩm, tì nữ người trần mắt thịt, không thấu được hết ý định của bậc thần linh.
Diêm Vương cười lớn:

- Hôm nay, ta sẽ ra phán quyết định đoạt số phận của hai ngươi. Cám, ngươi trước.
Cám bước về phía trước.

- Hẳn ngươi biết tội của mình chứ?

- Dạ, con biết.

- Cám trả lời, nghe giọng nói thoáng run nhưng cứng cỏi lạ thường.

- Ngươi đã cùng mẹ hãm hại Tấm nhiều lần, còn tranh giành hạnh phúc của Tấm. Ta hỏi nhà ngươi, nhà ngươi có thật sự yêu vị vua đó không?

- Dạ bẩm, con không ạ.

- Vậy suy cho cùng ngươi vì lòng đố kị và lòng ham mê phú quý mà làm vậy?

- Dạ, vâng ạ.

- Ngươi đã chuộc tội suốt ba năm vừa rồi, đã học được cách thương xót, đã biết đồng cảm, đã nếm mọi khổ đau trong nhân gian. Ngươi có thấy mình xứng đáng được đầu thai làm người không?
Cám chợt im lặng. Một khoảng dài trôi qua, rồi Cám lên tiếng:

- Dạ bẩm, không ạ.
Diêm Vương thoáng ngạc nhiên, rồi gật đầu:

- Ngươi nói vậy, và ngươi thực sự nghĩ vậy, điều ngươi thật sự nghĩ mới quan trọng! Ngươi biết không, đầu thai làm người là một ân huệ lớn lao, nhưng cũng là một sứ mệnh khó khăn, làm người không hề dễ dàng. Ngươi đã chịu phạt không có nghĩa là linh hồn ngươi đã được gột rửa. Vì tội lỗi của ngươi một phần là do mẹ nhà ngươi xúi giục mà ngươi lại chịu đựng cả hình phạt của mẹ mình, nên ta cho phép nhà ngươi được đầu thai thành bông hoa sen. Ngươi sẽ có ba kiếp làm hoa trước khi ta xem xét ngươi có thể được đầu thai làm người một lần nữa không.

- Dạ! Con xin tạ ơn ân đức của Diêm Vương. – Cám nói, rồi bước xuống.

- Tấm, đến lượt ngươi.

Tấm bước lên trước.

- Tấm, ngươi không thắc mắc vì sao ngươi là người trần mà lại phải xuống âm phủ để nhận phán quyết về số phận mình không?

- Dạ bẩm, không ạ.

- Một phần là vì ta đã hứa với Cám sẽ ban một ân huệ cho những tháng ngày chuộc tội, và Cám xin được gặp ngươi. Phần khác, phần khiến ngươi được phán quyết khi còn sống là bởi ngươi đã trải qua bao khổ nạn – điều không hề được ghi trong sách sinh tử. Sức sống và sự trong sạch của ngươi đã khiến thần linh động lòng mà thay đổi điều được sắp đặt, lẽ ra ngươi đã chết ngay từ lúc dì ngươi chặt đổ cây cau, khiến ngươi ngã.

- Nhưng con đã giết người, thưa Diêm Vương, con đã làm việc tàn độc, linh hồn con đã bị vấy bẩn.

Diêm Vương khẽ làm một hành động như cười mỉm.

- Ngươi giết người đâu phải vì dã tâm. Ngươi đã cảnh báo mẹ con Cám nhiều lần nhưng hai người đó không hề thay đổi. Ngươi giết người là hành động tự bảo vệ mình, khi sự can thiệp của thánh thần cũng chỉ có hạn, khi người bên cạnh ngươi – là vị vua kia – cũng không ra tay giúp. Tuy vậy, hành động giết người luôn luôn là sai trái. Như thế, ngươi sẽ vẫn được đầu thai làm người. Nhưng sau khi vị vua kia mất, ngươi sẽ phải quy y cửa phật và dành phần đời còn lại là một nữ tu, ăn chay niệm phật để xá tội.
- Dạ, tạ ơn ân đức của Diêm Vương.

 

Diêm Vương gật đầu:

- Vậy thì ta tuyên bố: PHIÊN XỬ KẾT THÚC!

Nói rồi, Diêm vương biến mất, căn phòng lại chuyển động dữ dội, rồi trở lại là căn phòng nhỏ khi nãy.

Chị Tấm! – Cám lên tiếng – Em phải chia tay chị thôi. Vậy là em được thỏa tâm nguyện gặp chị lần cuối. Em xin lỗi, chị Tấm ạ, em xin lỗi, cho những gì mẹ con em đã làm!

Tấm trào nước mắt, chỉ biết gật đầu.

Vậy em đi nhéchị Tấm! – Cám nói, đoạn đưa tay ra, rồi hình bóng mờ dần, mờ dần, đến khi biến mất hẳn.

Cửa phòng bật mở, Tấm bị hút ra ngoài, trở về với điện thờ.

Năm ấy, hồ sen trong cung chỉ nở đúng một bông, nhưng tươi tắn và thơm lạ thường. Tấm thường ra ngồi ở lầu trước hồ sen cùng nhà vua. Cứ mỗi lần ấy, Tấm lại thấy như nghe được giọng Cám nói khe khẽ: ”Chị Tấm ơi! Chị Tấm ơi!” – như tiếng thỏ thẻ của người em gái thân thương!

Bình luận (2)
Trần Minh
Xem chi tiết
Doomcizor Bóng Tối
Xem chi tiết
Fudo
12 tháng 7 2018 lúc 14:10

Từ nhỏ, tôi đã được nghe bà kể rất nhiều câu chuyện cổ tích hay. Trong những câu chuyện ấy, tôi thích nhất là truyện Tấm Cám với hình ảnh cô Tâìn đẹp người, đẹp nết.

Tuy phải làm việc sớm khuya vất vả, dầm mưa dãi nắng nhưng làn da Tâm vẫn mịn màng và trắng trẻo. Cô có dáng người thon thả và vóc người dong dỏng cao. Khuôn mặt trái xoan của cô luôn toát lên vẻ trong sáng, hiền dịu. Nhìn Tấm, chắc chắn ai cũng bị thu hút bởi vẻ đẹp chân chất của cô – vẻ đẹp của những cô thôn nữ hay lam hay làm. Một phần vẻ đẹp ấy được thể hiện qua đổi mắt. Tấm có đôi mắt bồ câu vừa thơ ngây, vừa trung thực, luôn thấp thoáng những nét buồn thăm thẳm. Hai hàng mi dài cong vút làm đôi mắt Tấm đã đẹp lại càng thêm duyên dáng. Đôi lông mày lá liễu không dày mà cũng không thưa ôm gọn lấy cặp mắt buồn. Cô Tấm có suối tóc đen, dày, mượt chảy trên bờ vai tròn lẳn, buông đài sau lưng. Bàn tay búp măng thon thả với năm ngón tay thon dài, mềm mại và mỏng mảnh chứa đầy vẻ kiêu sa.

Sống lam lũ, vất vả quanh năm nơi nhà mụ dì ghẻ cay độc, Tấm chỉ được mặc những bộ quần áo rách nát, cũ kĩ: những chiếc quần vải thô nhuộm bùn bạc phếch, những chiếc áo nâu sồng vá chằng vá đụp. Và nữa, cuộc sống ở đó thật đau đớn, tủi cực làm sao! Tưởng rằng những điều đó sẽ giết chết dần sắc đẹp của Tấm. Nhưng không, vẻ đẹp thuần khiết của cô không hề lu mờ, tàn phai mà còn ngày một thêm hoàn mĩ. Suối tóc của cô càng thêm đen mượt, nước da của cô càng thêm trắng trẻo. Cứ như thế, theo thời gian, Tấm ngày càng xinh đẹp.

Hãy nhìn cảnh cô Tấm mỉm cười sau khi thử giày thêu ở đêm hội năm nào.

Chao ôi! Lúc ấy vẻ đẹp của Tấm mới hiện lên rõ nét làm sao! Trông cô đẹp như một nàng tiên giáng trần vậy. Trong bộ xiêm y lộng lẫy, khuôn mặt trái xoan của cô sáng bừng lên, nổi bật giữa muôn vàn khuôn mặt của các cô gái khác. Đôi môi hình trái tim mọng đỏ của cô như một bông hoa nở vào buổi sáng chưa xoè hết cánh, kín đáo khoe sắc thắm. Hai hàm răng đều tăm tắp như những hạt ngô non và trắng loá như muối biển lấp ló giữa hai vành môi, ẩn giấu một vẻ đẹp trang nhã kiêu kì. Nụ cười duyên dáng đó có một sức hút kì lạ, làm ai nhìn cũng phải ngỡ ngàng, mê mẩn trước vẻ đẹp đầy đặn của trang tuyệt sắc giai nhân trẻ tuổi mà họ sắp tôn làm hoàng hậu.

Tấm là một cô gái bất hạnh. Mẹ cô chết từ hồi cô còn bé. Sau đó mấy năm thì cha cô cũng qua đời. Tấm phải ở với mụ dì ghẻ cay nghiệt là mẹ của Cám. Có lẽ những bất hạnh ấy đã để lại trong đôi mắt Tấm những nét buồn thăm thẳm, đã làm Tấm trưởng thành từ khi còn thơ bé.

Lúc còn nghèo khổ cũng như lúc đã trở thành vợ vua, Tấm vẫn luôn giữ bản chất cần cù, chịu thương chịu khó, hay lam hay làm của người lao động. Trong cung, sống trong cảnh giàu sang nhung lụa, Tấm vẫn tự tay giặt quần áo cho vua. 

Không chỉ thế, Tấm còn rất hiểu thảo với mẹ cha. Tuy sống sung sướng trong hoàng cung, nàng vẫn không quên ngày giỗ của cha. Nàng xin phép vua vể nhà để soạn cỗ cùng mẹ kế…

Những tưởng con người hiền lành, hiếu nghĩa ấy sau gần một phần tư cuộc đời chịu khổ sẽ được hưởng phần đời còn lại hạnh phúc, vui vẻ bên nhà vua. Nhưng sự đời đâu có dễ dàng như vậy. Để được hưởng cuộc sống bình yên, vui vẻ đó, Tấm đã phải trải qua bao gian truân, khổ cực. Nàng đâu có ngờ rằng, ngày giỗ cha ấy chính là ngày định mệnh của cuộc đời nàng. Khi trèo lên cây cau để xé lấy một buồng cúng cha, Tấm đã bị mẹ con Cám chặt cây cau hại chết. Kể từ đó, Cám chính thức trở thành hoàng hậu và phần đời đầy gian truân của Tấm bắt đầu.

…Bị mẹ con Cám hại chết, Tấm hoá thành chim vàng anh, bay đến vườn ngủ. Thấy Cám đang giặt áo cho vua ở giếng, vàng anh bảo nó:

– Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sào.

Chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao!

Rồi chim bay đến đậu bên cửa sổ, hót rất vui tai. Từ đó, nhà vua chỉ mê mải với chim. Cám tức lắm, giết thịt vàng anh rồi vứt lông chim ở góc vườn. Từ chỗ đó bỗng mọc lên hai cây xoan đào rợp bóng che mát cho nhà vua. Cám lại sai thợ chặt cây, đóng làm khung cửi. Nhưng khi Cám ngồi vào khung cửi, lúc nào cũng nghe thấy tiếng khung cửi rủa mình:

– Cót ca cót két

Lấy tranh chồng chị

Chị khoét mắt ra.

Cám lại đốt khung cửi, để tro ở lề đường xa hoàng cung. Đống tro lại mọc thành cây thị cao lớn, cành lá sum sê. Đến mùa có quả, cây chỉ đậu được có một quả nhưng mùi hương thơm ngát lan toả khắp nơi. Quả thị đó rụng vào bị một bà lão bán nước. Từ trong đó, cô Tấm chui ra, làm việc nhà giúp bà lão. Cuối cùng, cô bị bà lão rình và bắt gặp rồi trở thành con gái bà. Số trời run rủi thế nào mà nhà vua đến quán nước đó, nhận ra miếng trầu cánh phượng Tấm têm để rồi gặp mặt Tấm và đưa nàng trở lại hoàng cung.

Lại nói về Cám. Cám thấy Tấm trở về, được vua yêu quý thì không khỏi sợ hãi, Cám lân la hỏi Tấm:

– Chị Tấm ơi chị Tấm, chị làm thế nào mà đẹp thế?

– Có muốn làm đẹp không để chị giúp? 

Cám bằng lòng ngay. Tấm sai quân hầu đào một cái hố sâu, bảo Cám xuống hố rồi dội nước sôi vào hố. Cám chết, Tấm sai đem xác làm mắm gửi cho mụ dì ghẻ, nói là của con gái mụ biếu. Mụ tưởng thật, lấy mắm ra ăn rồi nức nở khen ngon. Một hôm có con quạ đậu trên nóc nhà kêu:

– Ngon ngỏn ngòn ngon!

Mẹ ăn thịt con

Có còn xin miếng?

Mụ dì ghẻ tức lắm, vác sào đuổi quạ. Đến ngày mắm gần hết, mụ dòm vào chĩnh, thấy đầu lâu của con thì lăn đùng ra mà chết. Thật đáng đời hai mẹ con hay ganh tị và tham lam. 

Cô Tấm xinh đẹp, dịu hiền. Cô Tấm chân chất, chịu thương chịu khó. Cô Tấm kiên quyết, bền bỉ đấu tranh chống lại cái ác để giành lấy hạnh phúc của mình. Cô Tấm đẹp người đẹp nết ấy là biểu tượng của nhân dân Việt Nam.

Bình luận (0)
Han Sara ft Tùng Maru
12 tháng 7 2018 lúc 14:05

Cô Tấm có hoàn cảnh gia đình rất đáng thương. Mẹ cô mất từ khi cô còn nhỏ, bố cô vì cô đơn nên lấy vợ hai nhưng cũng chẳng sống thêm với cô được bao lâu. Vậy là Tấm chung sống cùng một mái nhà với bà dì ghẻ độc ác và đứa em cùng cha khác mẹ vừa đanh đá vừa chua ngoa tên là Cám. Họ đều ghét Tấm và bắt nạt cô như con ở trong nhà. Tuy nhiên điều đó không làm cho cô Tấm bớt xinh đẹp và nết na.

Cô Tấm có vóc dáng vô cùng mảnh mai và tha thướt duyên dáng. Khuôn mặt cô thanh thoát trái xoan, nước da trắng trẻo càng làm nổi bật lên đôi mắt đen lay láy trong vắt của cô. Mũi cô nhỏ nhắn dọc dừa, đôi môi đỏ chúm chím xinh xinh khiến cô càng thêm xinh đẹp, nhất là khi cô đội lên đầu chiếc khăn mỏ quạ truyền thống. Mái tóc cô đen nhánh dài như suối, lúc nào cũng được cô chải bới gọn gàng sau gáy.

Cả ngày từ sáng sớm tinh mơ tới khi đêm xuống, cô Tấm đầu tắt mặt tối với đủ thứ việc nhà do mẹ ghẻ bắt làm, cô còn phải làm cả phần việc do cô Cám lười biếng đùn đẩy. Thế mà Tấm vẫn rất chi là siêng năng chăm chỉ, chẳng khi nào than phiền tới nửa lời. Vận chiếc áo tứ thân màu nâu cũ đã sờn bạc, cô lặng lẽ quét nhà, quét sân, chăm sóc vườn tược, tới cây bắt sâu, nấu cơm giặt giữ, lau chùi sắp xếp nhà cửa gọn gàng, ngăn nắp từ trong ra ngoài không có lấy một điểm gì chê được.

“Đẹp người đẹp nết” là câu nói xứng đáng dành cho cô Tấm. Tấm lòng nhân hậu bao dung, độ lượng của cô mới là điều khiến em vô cùng khâm phục. Bị hai mẹ con nhà Cám âm mưu hãm hại năm lần bảy lượt, cô Tấm thảo hiền phải ngậm đắng nuốt cay chịu biết bao nhiêu là ấm ức, thậm chí còn bị dì ghẻ xô ngã cây mà chết, lại còn bị hóa kiếp thành nào là chim, là cây xoan, là quả thị… Thế mà khi được trở lại thành người cô vẫn rộng lòng tha thứ, xin Vua thả cho mẹ con Cám đi. Thực sự, cô Tấm vô cùng xứng đáng được tận hưởng một cuộc đời sung sướng và hạnh phúc mãi mãi về sau bên người chồng yêu thương mình. Qua truyện cổ tích Tấm Cám em càng hiểu hơn câu nói của dân gian “Ở hiền thì lại gặp hiền- Người ngay thì được Phật, Tiền độ trì”.

Học tốt #

Bình luận (0)
Vũ Trọng Phú
12 tháng 7 2018 lúc 14:06

Cô Tấm có hoàn cảnh gia đình rất đáng thương. Mẹ cô mất từ khi cô còn nhỏ, bố cô vì cô đơn nên lấy vợ hai nhưng cũng chẳng sống thêm với cô được bao lâu. Vậy là Tấm chung sống cùng một mái nhà với bà dì ghẻ độc ác và đứa em cùng cha khác mẹ vừa đanh đá vừa chua ngoa tên là Cám. Họ đều ghét Tấm và bắt nạt cô như con ở trong nhà. Tuy nhiên điều đó không làm cho cô Tấm bớt xinh đẹp và nết na.

Cô Tấm có vóc dáng vô cùng mảnh mai và tha thướt duyên dáng. Khuôn mặt cô thanh thoát trái xoan, nước da trắng trẻo càng làm nổi bật lên đôi mắt đen lay láy trong vắt của cô. Mũi cô nhỏ nhắn dọc dừa, đôi môi đỏ chúm chím xinh xinh khiến cô càng thêm xinh đẹp, nhất là khi cô đội lên đầu chiếc khăn mỏ quạ truyền thống. Mái tóc cô đen nhánh dài như suối, lúc nào cũng được cô chải bới gọn gàng sau gáy.

Cả ngày từ sáng sớm tinh mơ tới khi đêm xuống, cô Tấm đầu tắt mặt tối với đủ thứ việc nhà do mẹ ghẻ bắt làm, cô còn phải làm cả phần việc do cô Cám lười biếng đùn đẩy. Thế mà Tấm vẫn rất chi là siêng năng chăm chỉ, chẳng khi nào than phiền tới nửa lời. Vận chiếc áo tứ thân màu nâu cũ đã sờn bạc, cô lặng lẽ quét nhà, quét sân, chăm sóc vườn tược, tới cây bắt sâu, nấu cơm giặt giữ, lau chùi sắp xếp nhà cửa gọn gàng, ngăn nắp từ trong ra ngoài không có lấy một điểm gì chê được.

“Đẹp người đẹp nết” là câu nói xứng đáng dành cho cô Tấm. Tấm lòng nhân hậu bao dung, độ lượng của cô mới là điều khiến em vô cùng khâm phục. Bị hai mẹ con nhà Cám âm mưu hãm hại năm lần bảy lượt, cô Tấm thảo hiền phải ngậm đắng nuốt cay chịu biết bao nhiêu là ấm ức, thậm chí còn bị dì ghẻ xô ngã cây mà chết, lại còn bị hóa kiếp thành nào là chim, là cây xoan, là quả thị… Thế mà khi được trở lại thành người cô vẫn rộng lòng tha thứ, xin Vua thả cho mẹ con Cám đi. Thực sự, cô Tấm vô cùng xứng đáng được tận hưởng một cuộc đời sung sướng và hạnh phúc mãi mãi về sau bên người chồng yêu thương mình. Qua truyen co h tam cam em càng hiểu hơn câu nói của dân gian “Ở hiền thì lại gặp hiền- Người ngay thì được Phật, Tiền độ trì”.

Bình luận (0)
Võ thị tú uyên
Xem chi tiết
Yukina Trần
7 tháng 6 2018 lúc 14:55

Bài làm

Hôm nay, bầu trời trong xanh, không khí mát mẻ tôi và hoàng thượng cùng nhau đi dạo bên hồ ngắm nhìn khung cảnh nhuộm vàng của tiết trời mùa thu. Bỗng từ đâu truyền đến tiếng kéo kẹt của khung cửi, bước chân tôi cứ thế bị tiếng kéo cửi dẫn lối đến một ngôi nhà nhỏ nơi ấy có một bà lão đang nhặt chỉ và bên cạnh là cô gái trẻ đang kéo cửi. Hình ảnh ấy làm tôi chững lại, tim nhói đau, từ đâu những hình ảnh năm ấy lại ùa về.

Tôi tên là Tấm, cha bảo khi tôi sinh ra đã trắng ngần như hạt tấm nêm đã đặt tên tôi là Tấm, mong sau này tôi cũng sẽ xinh đẹp và có tâm hồn trắng ngần như hạt tấm. Mẹ tôi mất khi tôi còn nhỏ, cha tôi ở vậy được hơn một năm thì cha tôi lấy vợ kế. Dì ghẻ sinh được một cô con gái đặt tên là Cám. Cám được dì và cha tôi chăm sóc và nuông chiều hết mực. Đến năm tôi mười lăm tuổi, cha tôi vì bệnh nặng mà qua đời, từ đó tôi sống cùng dì ghẻ và Cám.

Khi cha còn sông dì ghẻ luôn yêu thương chăm sóc tôi như con gai, nhưng sau khi Cám ra đời và cha tôi mất đi, dì không còn đối xử tốt với tôi như trước đây. Mẹ luôn giao cho tôi những phần việc nặng nhọc, vất vả nhất còn Cám thì ngày ngày được rong chơi. Từ sáng đến tối, tôi luôn phải tất bật với công việc lớn nhỏ trong nhà và việc đồng áng như cấy cày, chăn trâu, dã gạo, xay thóc … tôi thậm chí còn không có thời gian để rong chơi như bao đứa trẻ cùng tuổi trong làng. Cám thì luôn được dì bênh vực, bảo vệ, vì cậy thế mẹ, Cám thường mắng mỏ, sai bảo buộc tôi phải hầu hạ nó. Suốt ngày hết ra đồng, lại quanh quẩn với những công việc trong nhà, tôi không có lấy một người bạn để tâm sự, để trải nỗi lòng mình, nhiều lúc tôi chỉ biết khóc thầm một mình.

Hôm đó, khi tôi đang chuẩn bị dắt châu ra đồng, dì ghẻ liền gọi tôi và bảo: “ Sáng nay con và em Cám ra đồng mò tép, đứa nào bắt được đầy giỏ, ta sẽ thưởng cho cái yếm đào”. Nghe dì nói, tôi vô cùng háo hức và thẩm nhủ sẽ cố hết sức để đạt được phần thưởng mà cô gái nào cũng mơ ước. Tôi cột châu cẩn thận vào chồng, lấy giỏ và cùng Cám ra đồng mò tép như lời dì sai bảo.

Khi ra đến đồng, tôi không nề hà bùn đất, bẩn thỉu vội lội xuống ruộng chăm chỉ mò từng con tôm con tép một, lúc nào mệt quá ngước lên, tôi đều thấy Cám đang thoải mải hái hoa bắt bước, nhởn nhơ rong chơi, cứ ngỡ Cám đã làm xong phần việc của mình tôi càng gắng sức làm cho nhanh và khẩn trương hơn. Lúc mặt trời đã lên cao, giỏ của tôi cùng đã đầy, tôi vội rửa chân tay qua loa rồi lên bờ chuẩn bị ra về. Bỗng Cám từ đâu chạy đến bảo tôi: “ Chị Tấm ơi, chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng”. Nghĩ Cám thật lòng quan tâm đến mình, tôi vội lội xuống ao gội đầu thật kỹ, rửa lại tay chân thật sạch. Xong xuôi, tôi vui vẻ hỏi: “ Cám ơi, em xem giúp chị đã sạch chưa?”. Không một tiếng trả lời vang lên. Tôi vội chạy lên bờ, tìm kiếm xung quanh vẫn không thấy Cám đâu, tôi chạy đến bên cái giỏ tép của mình, thì chỉ thấy chiếc giỏ trống không nằm lăn lóc trên bờ ruộng. Tôi mở ra xem thật sự trong giỏ không còn một con tôm, con tép nào. Tôi bỗng nhận ra hóa ra mình đã bị Cám lừa để trút hết giỏ tép của tôi mang về nhà trước, bao nhiêu công sức của tôi bị cướp trắng một cách oan uổng.

Bao nhiêu oan uổng, tủi nhục, bất công bấy lâu nay tôi phải chịu đựng cứ thế tuôn trào hòa vào những giọt nước mắt, tôi thật sự muốn vứt bỏ hết tất cả để thoát khỏi sự chèn ép, sự áp bức, sự bất công của mẹ con Cám dành cho mình mà đến với cha mẹ của mình. Khi ý nghĩ tiêu cực ấy lướt qua đầu tôi, bỗng có một gọng nói ôn nhu, hiền từ quanh quẩn bên tai tôi “ Vì sao con khóc?”. Tôi quệt vội những giọt nước mắt, trước mặt tôi lúc này, một ông lão với gương mặt hiền từ nhân hậu bao quanh là vầng hòa quang lấp lánh. Tôi bị choáng ngợp trước quang cảnh trước mặt, bất giác hỏi “ Ông là ai ạ”. Ông lão điềm đạm trả lời “ Ta là bụt, đến giúp để giúp con, giờ con hãy kể cho ông nghe vì sao con khóc?”. Tôi kể lại cho ông đầu đuôi câu chuyện trong tiếng khóc nghẹn ngào, nghe xong bụt ân cần bảo: “ Con đã xem kỹ trong giỏ xem còn sót lại con cá nào không chăng?” tôi với lấy cái giỏ ghé mắt nhìn vào thì thấy một con cá bông bé xíu nằm ở đáy giỏ, tôi vô cùng ngạc nhiên và cảm động, sau đó Bụt dặn tôi, đem con cá bống về nhà thả xuống giếng, mỗi ngày bớt một ý cơm để nuôi nó, khi nào cho ăn thì gọi bống bằng câu thần chú:

“ Bống bống bang bang,

Lên ăn cơm vàng, cơm bạc nhà ta,

Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”

Tôi đem con cá bống về nhà,, làm đúng như những gì Bụt dặn, mang cá bống thả xuống cái giếng sau nhà, ngày ngày tôi bớt chút cơm cho cá bống. Mỗi lần tôi mang cơn cho bống ăn đều gọi bằng câu thần chú mà bụt dặn, cá bỗng bơi lên rất nhanh và đớp những hạt cơm mà tôi rắc xuống, tôi cảm thấy rất hạnh phúc vì từ giờ tôi đã có cá bống làm bạn chia sẻ những vui buồn, cá bống ngày càng lớn nhanh.

Thấy tôi ngày ngày sau bữa cơm đều ra giếng gang nước, mẹ con Cám sinh nghi, nhiều lần gạn hỏi tôi, nhưng tôi đều trả lời qua loa cho xong chuyện, từ đó đợi mẹ con Cám không để ý tôi mới ra sau giếng mang cơm cho bống. Được một thời gian tưởng rằng mẹ con Cám đã hết nghi ngờ, nào ngờ rằng, một buổi tối trước hôm tôi mang châu ra đồng, dì ghẻ gọi tôi vào và bảo: “ Con ơi con! Làng ta dạo này hay mất châu, con chăn châu nhớ chăn đồng xa chớ chăn đồng gần làng bắt mất châu.”

Sáng sớm hôm sau, vâng lời dì tôi dẫn châu sang cánh đồng xa gần lãng bên để chăn châu. Ở nhà, Cám và mẹ lập mưu bắt cá bống của tôi, Cám bắt gọi bống theo đúng câu thần chú Bụt dặn tôi. Nghe đúng câu hát, bống ngoi lên và bị dì ghẻ chực sẵn bắt làm thịt.

Thấy mặt trời sắp lặn, tôi dắt châu về nhà. Theo thường lệ, ăn xong tôi lại mang cơm cho cá bống, tôi gọi mãi, gọi mãi chẳng thấy cá bống đâu chỉ thấy có cục máu đông nổi lên mặt nước, tôi vội tìm kiếm xung quanh, tìm mãi vẫn không thấy bống đâu. Tôi liền bật khóc, rồi từ đâu một làn khói trắng xuất hiện, Bụt từ lúc nào đã đứng ngay trước mặt tôi và ân cần hỏi: “ Vì sao con khóc?”. Tôi kể lại mọi chuyện cho Bụt nghe, Bụt bảo: “ Con bống của con bị người ta ăn thịt mất rồi. Thôi con hãy nín đi rồi tìm nhặt xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào rồi đem chốn dưới bốn chân giường con nằm”. Tôi rối rít cảm ơn Bụt, sau đó theo lời Bụt bảo tôi đi tìm quanh vườn, khắp xó nhà, góc sân cũng không thấy xương bống đâu cả, đang trong lúc tuyệt vọng, tự nhiên, một con gà cất tiếng: “ Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc, ta bới xương cho!”. Nghe gà nói được tôi vô cùng ngạc nhiên đứng thẫn ra hồi lâu, rồi chạy vội vào trong bếp lấy thóc ở bục cho gà ăn. Gà chạy vào đống tro trong bếp một lúc thì bới ra được một đống xương. Tôi tìm bốn cái lọ và cho xương bống vào đó chôn tại bốn đầu giường tôi năm theo đúng lời Bụt dặn.

Thời gian thấm thoát trôi, đến khi tết đến, xuân về, các cô gái ai cũng có quần áo mới để diện tết, mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo đi chơi tết, còn tôi phải ở nhà làm những công việc như mọi ngày, tuy có nhàn rỗi hơn những ngày thường nhưng tôi không có chỗ nào để đi chơi tết cả. Kể từ khi cha mất, họ hàng cũng dần chuyển sang làng khác sống, nên ở vùng quê này tôi không còn ai thân thích cả.

Một hôm khi đang cắt cỏ ngoài đồng, tôi có nghe được mấy cô gái đồn nhau nhà vua sắp về đây vi hành và có mở hội mấy đêm cho dân làng vui xuân, tôi cũng không hy vọng sẽ được đi chơi hội nên vội quăng luôn nó ra khỏi đầu. Vài hôm sau làng tôi mở hội đón vua về vi hành, làng trên xóm dưới từ già trẻ, gái trai, ai ai cũng ăn mặc đẹp, đâu đâu cũng nghe thấy tiếng hò gọi nhau đi chảy hội, mẹ con Cám cũng không phải ngoại lệ, họ tất bật chuẩn bị quần áo từ tối hôm trước.

Trong lòng tôi bỗng thấy háo hức, suy nghĩ muốn đi chơi hội của tôi đột nhiên mãnh liệt hơn bao giờ hết, nghĩ như vậy tôi vội vào trong phòng lấy bộ quần áo đẹp nhất của mình chuẩn bị để đi chơi hội. Ra đến cửa mẹ con Cám đã chờ sẵn tôi, Cám đứng chắn trước cửa lườm tôi một cái rồi quay lại nói với mẹ: “ Mẹ ơi mẹ! Chị Tấm cũng muốn đi chơi hội kìa”. Nghe thấy thế, dì ghẻ tiến lại phía tôi và nói: “Con muốn đi chơi hội hả, việc nhà đã làm xong hết chưa?” Tôi vội trả lời: “Dạ, rồi ạ”. Dì gật đầu hài lòng và nói tiếp: “ Được, quần áo thế này mà con muốn đi chơi hội sao để dì và em Cám sửa lại giúp con”. Vừa nói dứt lời hai mẹ con Cám tiến lại phía tôi và xé tan nát bộ quần áo của tôi mặc đi chơi hội, sau đó, dì vào trong bếp lấy ra một đấu gạo và thóc đổ vào nhau trộn đều lên và bảo: “ Bao giờ nhặt xong chỗ gạo này đâu vào đấy rồi mới được đi nghe con, không được xót một hạt nghe con” Nói xong hai mẹ con Cám dắt nhau ra đi hội bỏ tôi lại một mình với nhà cửa ngồn ngang cùng một mẹt thóc và gạo trộn lẫn vào nhau.

Tôi ngồi bệt xuống nền nhà, nghĩ đến đời mình, những tủi nhục vừa trải qua, không kìm được cảm xúc tôi bỗng bật khóc, lần này bụt lại hiện lên và bảo: “ Làm sao con khóc?”. Tôi kể lại tường tận sự tình cho bụt nghe. Bụt bảo tôi mang mẹt ra giữa sân rồi gọi một đàn chim sẻ xuống nhặt giúp cho, tôi sợ chim ăn hết thóc thì bụt dạy:

Con hãy bảo chúng: “ Rặt rặt xuống nhặt giúp tao. Đừng ăn của tao, rồi tao trả công”. Chúng sẽ không ăn của con đâu.

Tôi định đi hội, thì bỗng nhận ra quần áo của mình đã bị mẹ con Cám xé tan nát, Bụt liền bảo tôi hãy đào bốn chiếc lọ đựng xương bống ở dưới chân giường lên, con sẽ có những gì mình muốn. Nghe lời bụt tôi vào đào bốn chiếc lọ lên quả nhiên điều kỳ diệu đã xảy ra: Lọ đầu tiên có một bộ váy áo tứ thân, một cái yếm đào và chiếc khan nhiễu vô cùng đẹp và khác hẳn so với những cái tôi từng thấy. Lọ thứ hai có một đôi hài thuê hoa vô cùng xinh xắn đi vừa in với chân tôi. Lọ thứ ba có một con ngựa phi ra. Lọ cuối cùng có một bộ yên cương vô cùng xinh xắn.

Tôi mừng rỡ vô cùng, vội cảm tạ Bụt rồi đi tắm sạch sẽ, mặc bộ quần áo mới, khi sửa soạn xong cũng là lúc chim sẻ giúp tôi nhặt thóc gạo xong tôi lấy một nắm thóc thưởng cho chim sẻ, sau đó cưỡi lên lưng ngựa và phi thẳng đến hội. Lúc đi qua cầu, do không cẩn thận tôi bị đánh rơi chiếc hài xuống nước, định lội xuống tìm những thoáng chốc đã không thấy nó đâu nữa, không kịp nữa tôi đành bỏ lại chiếc hài và phi ngựa tiếp đến hội. Đến đám hội, tôi dừng ngựa, lấy khan gói kĩ chiếc hài còn lại rồi chen vào biển người.

Sau này khi về làm vợ vua rồi, tôi có hỏi chàng, khi xưa vì sao chàng lại nhặt được chiếc hài của tôi, thì nhà vua nói: “ Hôm đó, kiệu vàng cảu ta không hiểu sao vừa đến chỗ cầu thì hai con voi dẫn đầu không chịu đi tiếp nữa, cứ cắm ngà xuống đất và kêu rống lên. Biết rõ sự lạ, ta liền sai quân lính thử tìm xem có gì lạ ở dưới suối. Quân lính của ta nhặt được một chiếc hài thuê hoa vô cùng tinh xảo, họ trình lên ta. Khi cầm chiếc hài lên ta như bị cuốn hút vào, trong lòng trộm nghĩ “ Chiếc hài xinh thế này, người đi hài chắc hẳn phải là một tuyệt sắc giai nhân” nghĩ đến vậy ta càng tò mò và muốn tìm ra chủ nhân của chiếc hài”. Nghe chàng kể lại sự tình như vậy tôi nghĩ đây chắc hẳn là ý trời.

Lần đầu tiên được đi chơi hội làm tôi rất háo hức, ai ai cũng nhìn tôi, khi tôi thấy một đám đông đam xúm lại, vì tò mò nên tôi lại gần thì được biết: vua ra lệnh cho tất cả đàn bà, con gái ai đi vừa chiếc hài thĩ sẽ cưới làm hoàng hậu. Đám hội, ai cũng háo hức, các bà, các cô chen nhau đến chỗ thử hài nhưng không ai mang vừa. Mẹ con Cám cũng vào cầu may nhưng không được. Lúc tôi bước ra thử, nhìn thấy tôi, Cám liền mách mẹ nhưng dì ghẻ không tin, bĩu môi nói: Con nỡm! Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh mảnh trai ngoài bờ!”

Chân tôi đặt vào hài vừa in. Tôi mở khăn lấy chiếc hài còn lại ra đi vào. Tôi được nhà vua đem kiệu rước vào cung, ai ai cũng nhìn tôi với ánh mắt ngưỡng mộ, chỉ có mẹ con Cám nhìn tôi thù hằn và vô cùng tức giận.

Sauk khi vào cung tôi được vua yêu chiều, tôi sống vô cùng thoải mái, sung sướng và hạnh phúc bên nhà vua. Đến ngày giỗ cha, tôi xin phép về giúp dì và em sửa soạn cỗ cúng. Thấy tôi được làm hoàng hậu, hai người ghen ghét nhưng cố giấu. Dì bảo tôi trèo cau, lấy một buồng để cúng cha. Tôi vừa leo lên đến ngọn thì dì chặt gốc. Cau đổ, tôi ngã xuống ao chết đuối. Dì ghẻ lấy quần áo của tôi cho Cám mặc rồi đưa vào cung nói dối vua rằng tôi chẳng may đã chết, nay cho em gái thay thế.

Hổn tôi biến thành chim vàng anh, suốt ngày quanh quẩn ở vườn ngự uyển. Cám giặt áo cho vua, đem ra phơi ở bờ rào, tôi hót: “Phơi áo chổng chị, thì phơỉ bằng sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng chị!”. Rồi tôi bay thẳng vào cung, đậu ở cửa sổ. Nhà vua đang ủ ê, buồn bã, chắc là nhớ thương người vợ bạc mệnh. Thấy tôi cứ quanh quẩn bên cạnh, nhà vua bảo: “Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo!”. Tôi âu yếm đậu lên vai rồi rúc vào tay áo nhà vua. Vua làm cho tôi một chiếc lồng bằng vàng để ở. Nhà vua suốt ngày quấn quýt bên tôi, chẳng hỏi han gì đến Cám. Cám về kể với mẹ và bày mưu hãm hại tôi lần nữa.

Nhân lúc nhà vua đi vắng, mẹ con Cám bắt tôi làm thịt rổi vứt lông ra vườn. Thấy mất vàng anh, vua hỏi thì Cám đặt điều nói dối: “Thiếp có mang, thèm ăn thịt chim nên trộm phép bệ hạ đã giết ăn thịt mất rồi”. Nhà vua giận lắm nhưng không nói gì. Ngày hôm sau, từ đám lông chim mọc lên hai cây xoan đào thật đẹp. Khi nhà vua đi dạo trong vườn, cây xòe cành lá che đầu vua, giống như hai cái lọng. Vua thấy vậy sai lính hầu mắc võng vào giữa hai thân cây rồi chiều chiều ra nằm đong đưa hóng mát.

Cám lại đem chuyện ấy mách mẹ. Nhân một hôm gió bão, dì ghẻ xúi Cám sai thợ chặt hai cây xoan đào rồi nói là đóng khung cửi để dệt áo cho vua. Hổn tôi nhập vào khung cửi nên mỗi lần Cám ngồi vào dệt, khung cửi lại phát ra tiếng kêu đầy đe dọa:

“Cót ca cót két,

Lấy tranh chồng chị,

Chị khoét mắt ra!”

Cám hoảng hổn mách với mẹ, dì ghẻ bảo hãy đốt khung cửi thành tro rồi đem đổ thật xa. Cám làm theo, nhưng từ đống tro bỗng mọc lên một cây thị cao lớn, cành lá xanh tươi. Đến mùa, cây thị ra nhiều hoa mà chỉ đậu có mỗi một quả. Hổn tôi náu trong quả thị vàng thơm ấy.

Một hôm, bà lão hàng nước ở gần đấy đi ngang qua, ngửi thấy mùi thơm bèn ngẩng lên nhìn rồi giơ miệng bị ra, lẩm bẩm:

-“Thị ơi thị rụng bị bà.Bà để bà ngửi chứ bà không ăn.”

Trái thị liền rụng xuống. Bà lão vui mừng mang về cất vào buồng, thỉnh thoảng lại đem ra ngắm nghía. Những lúc bà lão đi chợ hoặc vắng nhà, tôi từ quả thi bước ra, dọn dẹp nhà cửa, nấu sẵn cơm dẻo canh ngon cho bà lão.

Bà lão lấy làm lạ, cố ý tìm ra sự thật. Một lần, vờ đi chợ được một lúc thì bà lão quay lại, tôi đang lúi húi làm việc nhà như mọi khỉ thì bà lão bước vào, ôm chầm lấy tôi rồi xé nát vỏ quả thị. Từ đó, bà lão coi tôi như con gái. Tôi giúp bà gói bánh, nấu nước, têm trầu để bà ngồi bán hàng.

Ít lâu sau, một hôm có người đàn ông trè tuổi ghé vào quán nước. Nhìn thấy mấy miếng trầu cánh phượng, người ấy hỏi ai têm, bà lão đáp là con gái mình têm. Tôi đứng nép sau bức mành, nghe rõ câu chuyện và nhận ra nhà vua. Nhà vua năn nỉ bà lão đưa con gái ra cho mình xem mặt. Tôi vừa xuất hiện, nhà vua đã nhận ra ngay, bèn bảo bà lão thuật lại sự tình, rồi ra lệnh cho lính hầu mang kiệu rước tôi về cung.

Mẹ con Cám thấy vậy thì hết sức sợ hãi van xin tôi tha lỗi, nể tình ngừng ấy năm chúng sống, tôi tha cho hai mẹ con Cám về quê. Vài năm sau tôi nghe tin Cám không biết nghe ai bảo mà đun nước sôi để tắm nên chết, còn dì ghẻ tôi vì quá đau buồn nên cũng hóa điên.Tôi được sống yên ổn hạnh phúc bên nhà vua. Tình cảm vợ chồng lại càng thắm thiết, mặn nồng hơn trước.

Nhớ lại những chuyện đã qua, tôi ngẫm lại mới thấy lời cha dặn trước lúc ra đi quả không sai, cha bảo “ ở hiền mới gặp lành con ạ, qua cơn tai ương hạnh phúc sẽ đến”. Mọi thứ đến với tôi thật sự không dễ dàng gì vì vậy tôi sẽ luôn bảo vệ và trân trọng nó.

Bình luận (1)
Thời Sênh
7 tháng 6 2018 lúc 15:00

Kể lại truyện "Tấm Cám" theo lời nhân vật Tấm

Bài làm

Tôi tên là Tấm. Mẹ mất sớm, cha tôi ở vậy được hơn một năm thì lấy vợ kế. Dì ghẻ sinh đứa con gái đặt tên là Cám. Khi tôi tròn mười lăm tuổi thì cha tôi qua đời. Vốn rất ghét tôi nên mọi việc lớn nhỏ trong nhà, dì ghẻ đổ cả lên đầu tôi. Chăn trâu, cấy lúa, xay thóc, giã gạo,...... vừa xong việc này dì bắt làm ngay việc khác; trong khi đó, Cám được rong chơi. Cậy thế mẹ, Cám thường mắng mỏ, buộc tôi phải hầu hạ nó. Thui thủi một mình, tôi buồn khổ lắm và chỉ biết khóc thầm. Một hôm dì ghẻ bảo : " Sáng nay hai đứa ra đồng mò tép. Đứa nào bắt được đầy giỏ, ta sẽ thưởng cho cái yếm đào !". Nghe lời dì nói, tôi mừng thầm và tự nhủ sẽ cố gắng hết sức để đoạt được phần thưởng quý giá mà cô gái nào cũng mơ ước. Tôi và Cám mang giỏ cùng đi. Chẳng ngại vất vả, bẩn thỉu, tôi lội xuống ruộng, xuống mương hì hục mò, còn Cám thì cứ nhởn nhơ rong chơi. Lúc mặt trời đã lên cao, giỏ của tôi gần đầy. Tôi rửa chân tay qua loa rồi lên bờ ngồi nghỉ. Bỗng Cám đến gần bảo : " Chị Tấm ơi chị Tấm ! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng." Tưởng thật, tôi lội xuống ao gội đầu thật kĩ. Xong xuôi, tôi vui vẻ hỏi : " Cám ơn ! em xem giùm chị đã sạch chưa ?". Không một tiếng trả lời. Tôi ngẩng nhìn bốn phía, chẳng thấy Cám đâu, chỉ có chiếc giỏ của tôi nằm lăn lóc bên vệ cỏ. Tôi mở ra xem, trong giỏ rỗng không. Thì ra Cám đã lừa để trút hết giỏ tép của tôi, mang về trước.  Vừa tức giận, vừa tủi thân, tôi ôm mặt khóc. Bỗng nhiên có một giọng nói trầm ấm vang bên tai tôi : " Vì sao cháu khóc?" Tôi ngẩng lên nhìn, trước mắt tôi, Bụt hiện ra giữa một vầng hào quang lấp lánh. Tôi thuật lại câu chuyện, Bụt ân cần bảo : " Cháu xem kĩ lại trong giỏ có còn sót con cá nào chăng !". Tôi ghé mắt nhìn vào thì thấy một con cá bống bé xíu nằm dưới đáy giỏ. Theo lời Bụt dặn, tôi đem cá bông ấy về thả xuống giếng, mỗi ngày bớt một ít cơm để nuôi nó. Mỗi lần cho ăn, tôi lại gọi bống bằng câu Bụt dạy : "Bống bống bang bang Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người" Bống ngoi lên mặt nước, đớp những hạt cơm mà tôi rắc xuống. Từ đó, tôi và cá bống trở thành bạn thân. Cá bống ngày một lớn lên trông thấy. Để ý thấy tôi sau bữa cơm chiều thường ra giếng gánh nước, dì ghẻ sinh nghi, sai Cám đi rình. Cám nấp sau bụi cây, nghe tôi gọi bống bèn nhẩm theo cho thuộc rồi về kể cho mẹ nghe. Đến tối, dì ghẻ bảo tôi : - Con ơi, Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu. Tôi vâng lời, sáng hôm sau dẫn trâu đi ăn cỏ thật xa. Ở nhà, Cám bắt chước tôi gọi bống. Nghe đúng câu hát, bống ngoi lên thì bị dì ghẻ trực sẵn, bắt làm thịt. Đến chiều, tôi dắt trâu về, theo thường lệ, ăn xong tôi lại giấu cơm trong thùng gánh nước đem ra cho bống. Tôi gọi mãi, gọi mãi mà chẳng thấy bống đâu. Chỉ có một cục máu đỏ tươi nổi lên mặt nước. Tôi oà khóc. Bụt hiện lên hỏi :" Làm sao con khác ?" Tôi kể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo : " Con bống của con đã bị người ta ăn thịt mất rồi. thôi, con hãy nín đi rồi tìm nhặt xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn dưới bốn chân giường con nằm." Tôi tìm khắp xó vườn, góc sân mà không thấy gì cả. Tự nhiên, một con gà cất tiếng : "Cục ta cục tác ! Cho ta nắm thóc, ta bới xương cho !". Tôi lấy nắm thóc ném cho gà. Gà chạy vào bới đống tro bếp một lúc thì tìm thấy xương bống. Tôi nhặt bỏ vào bốn chiếc lọ nhỏ, chôn dưới bốn chân giường đúng như Bụt dặn. Tết đến, xuân về, nhà vua mở hội trong mấy ngày đêm. Già trẻ, gái trai nô nức đi xem hội. Mọi người ăn mặc đẹp, dập dìu tuôn về kinh thành như nước chảy. Mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo mớ ba mớ bảy háo hức đi trẩy hội. Thấy tôi cũng muốn đi, dì ghẻ hấm hứ nguýt dài. Chẳng biết nghĩ sao, dì lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc rồi bảo : " Mày nhặt cho xong chỗ gạo này rồi đi đâu hẵng đi, đừng có bỏ dở. Tao về mà không có gạo thổi cơm là tao đánh cho!" Nói xong, hai mẹ con Cám đi xem hội. Tôi ngồi nhặt một hồi lâu mà chỉ được chút ít, sốt ruột, nghĩ nhặt thế này thì biết bao giờ mới xong ? Biết dì ghẻ độc ác không muốn cho đi xem hội, tôi tủi thân, bật khóc nức nở. Bụt lại hiện ra hỏi :"Vì sao con khóc?". Tôi chỉ vào cái thúng đựng thóc trộn lẫn gạo rồi kể sự tình. Bụt bảo tôi mang thúng ra đặt giữa sân rồi sai một đàn chim sẻ xuống nhặt giúp. Tôi sợ chim ăn mất thì Bụt dạy : - Con cứ bảo chúng nó thế này : "Rặt rặt xuống nhặt cho tao. Ăn mất hạt nào thì tao đánh chết". Chúng sẽ không ăn của con đâu ! Thoáng chốc, đàn chim sẻ đã nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, không mất một hạt. Nhưng khi chúng đã bay đi rồi, tôi chợt nghĩ mình làm gì có quần áo đẹp mà đi xem hội. Tủi thân tủi phận tôi lại rơi nước mắt. Bụt bảo tôi hãy đào 4 chiếc lọ đựng xương bống ở dưới chân giường lên, sẽ có đủ. Tôi làm đúng theo lời Bụt, quả nhiên điều kì lạ xảy ra : Lọ thứ nhất có một bộ quần áo mớ ba mớ bẩy và một cái váy lụa, một yếm lụa đào và chiếc khăn nhiễu. Lọ thứ hai có một đôi hài thêu đi vừa như in. Lọ thứ 3 có 1 con ngựa bé tí nhưng vừa đặt xuống đất thì nó hí vang, to bằng ngựa thật. Lọ cuối cùng có một bộ yên cương xinh xắn. Tôi mừng rỡ vô cùng, vội cảm tạ Bụt rồi tắm rửa sạch sẽ, mặc bộ quần áo đẹp vào và cưỡi kên lưng ngựa. Ngựa phi rất nhanh, chẳng mấy chốc đã đến kinh đô. Lúc ngựa phóng qua chỗ lội, tôi đánh rơi chiếc hài xuống nước không kịp nhặt lên. Đến đám hội, tôi dừng ngựa, lấy khăn gói chiếc hài còn lại rồi chen vào biển người. Kiệu vàng của nhà vua vừa đến chỗ lội thì hai con voi dẫn đầu không chịu đi cứ cắm ngà xuống đất và kêu rống lên. Biết có sự lạ, nhà vua sai quân lính thử tìm xem. Họ nhặt được chiếc hài thêu của tôi, vội trình nhà vua. Nhà vua cầm chiếc hài lên, ngắm nghía mãi rồi buột miệng khen : "Chiếc hài xinh quá ! Người đi vừa chiếc hài này hẳn là một tuyệt sắc!" Vua ra lệnh cho tất cả đàn bà, con gái thử hài và tuyên bố ai đi vừa thì sẽ cưới làm hoàng hậu. Đám hội lại càng náo nhiệt. Các bà, các cô chen nhau đến chỗ thử hài nhưng không ai đi vừa. Mẹ con Cám cũng vào cầu may. Lúc tôi bước ra thử, nhìn thấy tôi, Cám liền mách mẹ nhưng dì ghẻ không tin, bĩu môi nói :" Con nỡm ! Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre!" Tôi là người thử cuối cùng. Chân tôi đặt vừa như in. Tôi mở khăn lấy chiếc hài còn lại đi vào. Hai chiếc giống nhau như đúc. Lính hầu hò reo vui mừng báo với vua. Lập tức vua sai đoàn thị nữ rước tôi về cung. Tôi bước lên kiệu trước vẻ mặt ngơ ngác và hằn học của mẹ con Cám. Tôi được sống sung sướng, hạnh phúc bên nhà vua trẻ. Đến ngày giỗ cha, tôi xin phép về giúp dì và em sửa soạn giỗ cúng. Thấy tôi được làm hoàng hậu, hai người ghen ghét nhưng cố giấu. Dì bảo tôi trèo cau, lấy một buồng để cúng cha. Tôi vừa leo lên đến ngọn thì dì chặt gốc. Cau đổ, tôi ngã xuống ao chết đuối. Dì ghẻ lấy quần áo của tôi cho Cám mặc rồi đưa vào cung, nói dối vua rằng tôi chẳng may chết, nay cho em gái thay thế. Hồn tôi biến thành chim vàng anh, suốt ngày quanh quẩn ở vườn ngự uyển. Cám giặt áo cho vua, đem ra phơi ở bờ rào, tôi hót :" Phơi áo chồng tao, thì phơi bằng sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao". Rồi bay thẳng vào cung, đậu ở cửa sổ. Nhà vua đang ủ ê, buồn bã, chắc nhớ thương người vợ bạc mệnh. Thấy tôi cứ quanh quẩn bên cạnh, vua bảo : " Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo". Tôi âu yếm đậu lên vai rồi rúc vào tay áo vua. Một chiếc lồng bằng vàng được làm cho tôi ở. Nhà vua suốt ngày quấn quýt bên tôi, chẳng hỏi han gì đến Cám. Nhân lúc nhà vua đi vắng, mẹ con Cám bắt tôi làm thịt rồi vứt lông ra vườn. Thấy mất vàng anh, vua hỏi thì Cám đặt điều nói dối : " Thiếp có mang, thèm ăn thịt chim nên trộm phép bệ hạ đã giết ăn thịt mất rồi". Nhà vua giận lắm nhưng không nói gì. Ngày hôm sau, từ đám lông chim mọc lên hai cây xoan đào thật đẹp. Khi nhà vua đi dạo trong vườn, cây xoè cành lá che đầu vua, giống như hai cái lọng. Vua thấy vậy sai quân lính mắc võng vào giữa hai thân cây rồi chiều chiều ra nằm đong đưa hóng mát. Cám lại đem chuyện ấy mách mẹ. Nhân một hôm gió bão, dì ghẻ xúi nó sai thợ chặt hai cây xoan đào rồi đóng khung để dệt áo cho vua. Hồn tôi nhập vào khung cửi nên mỗi lần Cám ngồi vào dệt, khung cửi lại phát ra tiếng kêu đầy đe doạ : Cót ca cót két Lấy tranh chồng chị Chị khoét mắt ra !

Cám hoảng hồn mách với mẹ. Dì ghẻ bảo hãy đốt khung cửi thành tro rồi đem đổ thật xa. Cám làm theo, nhưng từ đống tro bỗng mọc lên một cây thị cao lớn, cành lá xanh tươi. Đến mùa, cây thị ra nhiều hoa mà chỉ đậu có mỗi một quả. Hồn tôi náu trong quả thì vàng thơm ấy. Một hôm, bà lão hàng nước ở gần đấy đi ngang qua, ngửi thấy mùi thơm bèn ngẩng lên nhìn rồi giơ miệng bị ra lầm bẩm : - Thị ơi thị rụng bị bà, bà để bà ngửi chứ bà không ăn. Trái thị liền rụng xuống. Bà lão vui mừng mang về cất vào buồng, thỉnh thoảng lại đem ra ngắm nghĩa. Những lúc bà lão đi chợ hoặc vắng nhà, tôi từ quả thị bước ra, dọn dẹp nhà của, nấu sẵn cơm dẻo canh ngọt cho bà lão. Bà lão thấy lạ, có ý tìm ra sự thật. Một lần vờ đi chợ, được một lúc thì bà lão quay lại. Tôi đang lúi húi làm việc nhà như mọi khi thì bà lão bước vào, ôm chầm lấy tôi rồi xé nát vỏ quả thị. Từ đó, bà coi tôi như con gái. Tôi giúp bà gói bánh, nấu nước, têm trầu để bà ngồi bán hàng. Ít lâu sau, một hôm có người đàn ông trẻ tuổi ghé vào quán nước. Nhìn thấy miếng trầu cánh phượng, người ấy hỏi ai têm, bà lão đáp là con gái mình têm. Tôi đứng đằng sau bức mành, nghe rõ câu chuyện và nhận ra nhà vua. Nhà vua năn nỉ bà lão đưa con gái ra cho mình xem mặt. Tôi vừa xuất hiện, nhà vua nhận ra ngay bèn bảo bà lão thuật lại sự tình, rồi ra lệnh cho lính hầu mang kiệu rước tôi về cung. Mẹ con Cám thấy vậy thì hết sức sợ hãi. Cám hỏi tôi làm thế nào để trẻ đẹp được như thế, tôi bảo muốn đẹp thì tôi sẽ giúp. Tôi sai quân hầu nấu một nồi nước sối, rồi bảo Cám đứng xuống hố. Cám bằng lòng. Lính đổ nước sôi vào hố, Cám chết nhăn răng. Dì ghẻ thấy vậy kinh hoàng cũng lăn đùng ra chết. Tôi được sống yên ổn hạnh phúc bên nhà vua. Tình cảm vợ chồng lại càng thắm thiết, mặn nồng hơn trước.

Bình luận (0)
trần khởi my
7 tháng 6 2018 lúc 15:01

Tôi tên là Tấm. Mẹ mất sớm, cha tôi ở vậy được hơn một năm thì lấy vợ kế. Dì ghẻ sinh đứa con gái đặt tên là Cám. Khi tôi tròn mười lăm tuổi thì cha tôi qua đời. Vốn rất ghét tôi nên mọi việc lớn nhỏ trong nhà, dì ghẻ đổ cả lên đầu tôi. Chăn trâu, cấy lúa, xay thóc, giã gạo,...... vừa xong việc này dì bắt làm ngay việc khác; trong khi đó, Cám được rong chơi. Cậy thế mẹ, Cám thường mắng mỏ, buộc tôi phải hầu hạ nó. Thui thủi một mình, tôi buồn khổ lắm và chỉ biết khóc thầm. Một hôm dì ghẻ bảo : " Sáng nay hai đứa ra đồng mò tép. Đứa nào bắt được đầy giỏ, ta sẽ thưởng cho cái yếm đào !". Nghe lời dì nói, tôi mừng thầm và tự nhủ sẽ cố gắng hết sức để đoạt được phần thưởng quý giá mà cô gái nào cũng mơ ước. Tôi và Cám mang giỏ cùng đi. Chẳng ngại vất vả, bẩn thỉu, tôi lội xuống ruộng, xuống mương hì hục mò, còn Cám thì cứ nhởn nhơ rong chơi. Lúc mặt trời đã lên cao, giỏ của tôi gần đầy. Tôi rửa chân tay qua loa rồi lên bờ ngồi nghỉ. Bỗng Cám đến gần bảo : " Chị Tấm ơi chị Tấm ! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng." Tưởng thật, tôi lội xuống ao gội đầu thật kĩ. Xong xuôi, tôi vui vẻ hỏi : " Cám ơn ! em xem giùm chị đã sạch chưa ?". Không một tiếng trả lời. Tôi ngẩng nhìn bốn phía, chẳng thấy Cám đâu, chỉ có chiếc giỏ của tôi nằm lăn lóc bên vệ cỏ. Tôi mở ra xem, trong giỏ rỗng không. Thì ra Cám đã lừa để trút hết giỏ tép của tôi, mang về trước.  Vừa tức giận, vừa tủi thân, tôi ôm mặt khóc. Bỗng nhiên có một giọng nói trầm ấm vang bên tai tôi : " Vì sao cháu khóc?" Tôi ngẩng lên nhìn, trước mắt tôi, Bụt hiện ra giữa một vầng hào quang lấp lánh. Tôi thuật lại câu chuyện, Bụt ân cần bảo : " Cháu xem kĩ lại trong giỏ có còn sót con cá nào chăng !". Tôi ghé mắt nhìn vào thì thấy một con cá bống bé xíu nằm dưới đáy giỏ. Theo lời Bụt dặn, tôi đem cá bông ấy về thả xuống giếng, mỗi ngày bớt một ít cơm để nuôi nó. Mỗi lần cho ăn, tôi lại gọi bống bằng câu Bụt dạy : "Bống bống bang bang Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người" Bống ngoi lên mặt nước, đớp những hạt cơm mà tôi rắc xuống. Từ đó, tôi và cá bống trở thành bạn thân. Cá bống ngày một lớn lên trông thấy. Để ý thấy tôi sau bữa cơm chiều thường ra giếng gánh nước, dì ghẻ sinh nghi, sai Cám đi rình. Cám nấp sau bụi cây, nghe tôi gọi bống bèn nhẩm theo cho thuộc rồi về kể cho mẹ nghe. Đến tối, dì ghẻ bảo tôi : - Con ơi, Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu. Tôi vâng lời, sáng hôm sau dẫn trâu đi ăn cỏ thật xa. Ở nhà, Cám bắt chước tôi gọi bống. Nghe đúng câu hát, bống ngoi lên thì bị dì ghẻ trực sẵn, bắt làm thịt. Đến chiều, tôi dắt trâu về, theo thường lệ, ăn xong tôi lại giấu cơm trong thùng gánh nước đem ra cho bống. Tôi gọi mãi, gọi mãi mà chẳng thấy bống đâu. Chỉ có một cục máu đỏ tươi nổi lên mặt nước. Tôi oà khóc. Bụt hiện lên hỏi :" Làm sao con khác ?" Tôi kể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo : " Con bống của con đã bị người ta ăn thịt mất rồi. thôi, con hãy nín đi rồi tìm nhặt xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn dưới bốn chân giường con nằm." Tôi tìm khắp xó vườn, góc sân mà không thấy gì cả. Tự nhiên, một con gà cất tiếng : "Cục ta cục tác ! Cho ta nắm thóc, ta bới xương cho !". Tôi lấy nắm thóc ném cho gà. Gà chạy vào bới đống tro bếp một lúc thì tìm thấy xương bống. Tôi nhặt bỏ vào bốn chiếc lọ nhỏ, chôn dưới bốn chân giường đúng như Bụt dặn. Tết đến, xuân về, nhà vua mở hội trong mấy ngày đêm. Già trẻ, gái trai nô nức đi xem hội. Mọi người ăn mặc đẹp, dập dìu tuôn về kinh thành như nước chảy. Mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo mớ ba mớ bảy háo hức đi trẩy hội. Thấy tôi cũng muốn đi, dì ghẻ hấm hứ nguýt dài. Chẳng biết nghĩ sao, dì lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc rồi bảo : " Mày nhặt cho xong chỗ gạo này rồi đi đâu hẵng đi, đừng có bỏ dở. Tao về mà không có gạo thổi cơm là tao đánh cho!" Nói xong, hai mẹ con Cám đi xem hội. Tôi ngồi nhặt một hồi lâu mà chỉ được chút ít, sốt ruột, nghĩ nhặt thế này thì biết bao giờ mới xong ? Biết dì ghẻ độc ác không muốn cho đi xem hội, tôi tủi thân, bật khóc nức nở. Bụt lại hiện ra hỏi :"Vì sao con khóc?". Tôi chỉ vào cái thúng đựng thóc trộn lẫn gạo rồi kể sự tình. Bụt bảo tôi mang thúng ra đặt giữa sân rồi sai một đàn chim sẻ xuống nhặt giúp. Tôi sợ chim ăn mất thì Bụt dạy : - Con cứ bảo chúng nó thế này : "Rặt rặt xuống nhặt cho tao. Ăn mất hạt nào thì tao đánh chết". Chúng sẽ không ăn của con đâu ! Thoáng chốc, đàn chim sẻ đã nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, không mất một hạt. Nhưng khi chúng đã bay đi rồi, tôi chợt nghĩ mình làm gì có quần áo đẹp mà đi xem hội. Tủi thân tủi phận tôi lại rơi nước mắt. Bụt bảo tôi hãy đào 4 chiếc lọ đựng xương bống ở dưới chân giường lên, sẽ có đủ. Tôi làm đúng theo lời Bụt, quả nhiên điều kì lạ xảy ra : Lọ thứ nhất có một bộ quần áo mớ ba mớ bẩy và một cái váy lụa, một yếm lụa đào và chiếc khăn nhiễu. Lọ thứ hai có một đôi hài thêu đi vừa như in. Lọ thứ 3 có 1 con ngựa bé tí nhưng vừa đặt xuống đất thì nó hí vang, to bằng ngựa thật. Lọ cuối cùng có một bộ yên cương xinh xắn. Tôi mừng rỡ vô cùng, vội cảm tạ Bụt rồi tắm rửa sạch sẽ, mặc bộ quần áo đẹp vào và cưỡi kên lưng ngựa. Ngựa phi rất nhanh, chẳng mấy chốc đã đến kinh đô. Lúc ngựa phóng qua chỗ lội, tôi đánh rơi chiếc hài xuống nước không kịp nhặt lên. Đến đám hội, tôi dừng ngựa, lấy khăn gói chiếc hài còn lại rồi chen vào biển người. Kiệu vàng của nhà vua vừa đến chỗ lội thì hai con voi dẫn đầu không chịu đi cứ cắm ngà xuống đất và kêu rống lên. Biết có sự lạ, nhà vua sai quân lính thử tìm xem. Họ nhặt được chiếc hài thêu của tôi, vội trình nhà vua. Nhà vua cầm chiếc hài lên, ngắm nghía mãi rồi buột miệng khen : "Chiếc hài xinh quá ! Người đi vừa chiếc hài này hẳn là một tuyệt sắc!" Vua ra lệnh cho tất cả đàn bà, con gái thử hài và tuyên bố ai đi vừa thì sẽ cưới làm hoàng hậu. Đám hội lại càng náo nhiệt. Các bà, các cô chen nhau đến chỗ thử hài nhưng không ai đi vừa. Mẹ con Cám cũng vào cầu may. Lúc tôi bước ra thử, nhìn thấy tôi, Cám liền mách mẹ nhưng dì ghẻ không tin, bĩu môi nói :" Con nỡm ! Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre!" Tôi là người thử cuối cùng. Chân tôi đặt vừa như in. Tôi mở khăn lấy chiếc hài còn lại đi vào. Hai chiếc giống nhau như đúc. Lính hầu hò reo vui mừng báo với vua. Lập tức vua sai đoàn thị nữ rước tôi về cung. Tôi bước lên kiệu trước vẻ mặt ngơ ngác và hằn học của mẹ con Cám. Tôi được sống sung sướng, hạnh phúc bên nhà vua trẻ. Đến ngày giỗ cha, tôi xin phép về giúp dì và em sửa soạn giỗ cúng. Thấy tôi được làm hoàng hậu, hai người ghen ghét nhưng cố giấu. Dì bảo tôi trèo cau, lấy một buồng để cúng cha. Tôi vừa leo lên đến ngọn thì dì chặt gốc. Cau đổ, tôi ngã xuống ao chết đuối. Dì ghẻ lấy quần áo của tôi cho Cám mặc rồi đưa vào cung, nói dối vua rằng tôi chẳng may chết, nay cho em gái thay thế. Hồn tôi biến thành chim vàng anh, suốt ngày quanh quẩn ở vườn ngự uyển. Cám giặt áo cho vua, đem ra phơi ở bờ rào, tôi hót :" Phơi áo chồng tao, thì phơi bằng sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao". Rồi bay thẳng vào cung, đậu ở cửa sổ. Nhà vua đang ủ ê, buồn bã, chắc nhớ thương người vợ bạc mệnh. Thấy tôi cứ quanh quẩn bên cạnh, vua bảo : " Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo". Tôi âu yếm đậu lên vai rồi rúc vào tay áo vua. Một chiếc lồng bằng vàng được làm cho tôi ở. Nhà vua suốt ngày quấn quýt bên tôi, chẳng hỏi han gì đến Cám. Nhân lúc nhà vua đi vắng, mẹ con Cám bắt tôi làm thịt rồi vứt lông ra vườn. Thấy mất vàng anh, vua hỏi thì Cám đặt điều nói dối : " Thiếp có mang, thèm ăn thịt chim nên trộm phép bệ hạ đã giết ăn thịt mất rồi". Nhà vua giận lắm nhưng không nói gì. Ngày hôm sau, từ đám lông chim mọc lên hai cây xoan đào thật đẹp. Khi nhà vua đi dạo trong vườn, cây xoè cành lá che đầu vua, giống như hai cái lọng. Vua thấy vậy sai quân lính mắc võng vào giữa hai thân cây rồi chiều chiều ra nằm đong đưa hóng mát. Cám lại đem chuyện ấy mách mẹ. Nhân một hôm gió bão, dì ghẻ xúi nó sai thợ chặt hai cây xoan đào rồi đóng khung để dệt áo cho vua. Hồn tôi nhập vào khung cửi nên mỗi lần Cám ngồi vào dệt, khung cửi lại phát ra tiếng kêu đầy đe doạ : Cót ca cót két Lấy tranh chồng chị Chị khoét mắt ra !

Cám hoảng hồn mách với mẹ. Dì ghẻ bảo hãy đốt khung cửi thành tro rồi đem đổ thật xa. Cám làm theo, nhưng từ đống tro bỗng mọc lên một cây thị cao lớn, cành lá xanh tươi. Đến mùa, cây thị ra nhiều hoa mà chỉ đậu có mỗi một quả. Hồn tôi náu trong quả thì vàng thơm ấy. Một hôm, bà lão hàng nước ở gần đấy đi ngang qua, ngửi thấy mùi thơm bèn ngẩng lên nhìn rồi giơ miệng bị ra lầm bẩm : - Thị ơi thị rụng bị bà, bà để bà ngửi chứ bà không ăn. Trái thị liền rụng xuống. Bà lão vui mừng mang về cất vào buồng, thỉnh thoảng lại đem ra ngắm nghĩa. Những lúc bà lão đi chợ hoặc vắng nhà, tôi từ quả thị bước ra, dọn dẹp nhà của, nấu sẵn cơm dẻo canh ngọt cho bà lão. Bà lão thấy lạ, có ý tìm ra sự thật. Một lần vờ đi chợ, được một lúc thì bà lão quay lại. Tôi đang lúi húi làm việc nhà như mọi khi thì bà lão bước vào, ôm chầm lấy tôi rồi xé nát vỏ quả thị. Từ đó, bà coi tôi như con gái. Tôi giúp bà gói bánh, nấu nước, têm trầu để bà ngồi bán hàng. Ít lâu sau, một hôm có người đàn ông trẻ tuổi ghé vào quán nước. Nhìn thấy miếng trầu cánh phượng, người ấy hỏi ai têm, bà lão đáp là con gái mình têm. Tôi đứng đằng sau bức mành, nghe rõ câu chuyện và nhận ra nhà vua. Nhà vua năn nỉ bà lão đưa con gái ra cho mình xem mặt. Tôi vừa xuất hiện, nhà vua nhận ra ngay bèn bảo bà lão thuật lại sự tình, rồi ra lệnh cho lính hầu mang kiệu rước tôi về cung. Mẹ con Cám thấy vậy thì hết sức sợ hãi. Cám hỏi tôi làm thế nào để trẻ đẹp được như thế, tôi bảo muốn đẹp thì tôi sẽ giúp. Tôi sai quân hầu nấu một nồi nước sối, rồi bảo Cám đứng xuống hố. Cám bằng lòng. Lính đổ nước sôi vào hố, Cám chết nhăn răng. Dì ghẻ thấy vậy kinh hoàng cũng lăn đùng ra chết. Tôi được sống yên ổn hạnh phúc bên nhà vua. Tình cảm vợ chồng lại càng thắm thiết, mặn nồng hơn trước.

Bình luận (0)
Mavis x zeref
Xem chi tiết
Phong Y
28 tháng 2 2021 lúc 8:15

I am a very close friend and indispensable to the students, thanks to me that students can study and do better. But I am just a thing, over time, I get old and worn out, no longer new, perhaps because of that you forgot me. I am a book.

I'm a Vietnamese textbook. in the learning process. And then I found my master, a very pretty little girl. I was very happy and excited because it was time for me to do my noble duties. I told myself to promote my abilities well, bring knowledge and useful things to my little mistress. When I was first bought, I was very fond of and carefully taken care of by my owner. Every day I go to school with my boss, my pages are a rich source of knowledge for her to study and learn. As time went by, during using, I gradually curved the edge, folded the edge and got old, sometimes even dirty because she dropped it. Then one day, a neighbor friend asked me to borrow me to do my homework, but the owner, because she was also doing her homework, did not want to lend me, the other friend deliberately grabbed me from the mistress's hand, so I torn in half.

 Since that day, I was glued but crumpled and no longer new so the girl's mother bought her a new book. I was placed in the corner of the cupboard, I felt very sad and knew that I was really forgotten.

Bình luận (0)
Trần Mạnh
28 tháng 2 2021 lúc 8:20

Hello everyone, I am the storybook "Snow White and the Seven Dwarfs". Today I will tell you about this story of mine

Once upon a time in a great castle, a Prince's daughter grew up happy and contented, in spite of a jealous stepmother. She was very pretty, with blue eyes and long black hair. Her skin was delicate and fair, and so she was called Snow White. Everyone was quite sure she would become very beautiful. Though her stepmother was a wicked woman, she too was very beautiful, and the magic mirror told her this every day, whenever she asked it.

"Mirror, mirror on the wall, who is the loveliest lady in the land?" The reply was always; "You are, your Majesty," until the dreadful day when she heard it say, "Snow White is the loveliest in the land."

The stepmother was furious and, wild with jealousy, began plotting to get rid of her rival. Calling one of her trusty servants, she bribed him with a rich reward to take Snow White into the forest, far away from the Castle. Then, unseen, he was to put her to death. The greedy servant, attracted to the reward, agreed to do this deed, and he led the innocent little girl away. However, when they came to the fatal spot, the man's courage failed him and, leaving Snow White sitting beside a tree, he mumbled an excuse and ran off. Snow White was all alone in the forest.  Night came, but the servant did not return. Snow White, alone in the dark forest, began to cry bitterly. She thought she could feel terrible eyes spying on her, and she heard strange sounds and rustlings that made her heart thump. At last, overcome by tiredness, she fell asleep curled under a tree.  Snow White slept fitfully, wakening from time to time with a start and staring into the darkness round her. Several times, she thought she felt something, or somebody touch her as she slept.  At last, dawn woke the forest to the song of the birds, and Snow White too, awoke. A whole world was stirring to life and the little girl was glad to see how silly her fears had been. However, the thick trees were like a wall round her, and as she tried to find out where she was, she came upon a path. She walked along it, hopefully. On she walked till she came to a clearing. There stood a strange cottage, with a tiny door, tiny windows and a tiny chimney pot. Everything about the cottage was much tinier than it ought to be. Snow White pushed the door open.  "l wonder who lives here?" she said to herself, peeping round the kitchen. "What tiny plates! And spoons! There must be seven of them, the table's laid for seven people." Upstairs was a bedroom with seven neat little beds. Going back to the kitchen, Snow White had an idea.  "I'll make them something to eat. When they come home, they'll be glad to find a meal ready." Towards dusk, seven tiny men marched homewards singing. But when they opened the door, to their surprise they found a bowl of hot steaming soup on the table, and the whole house spick and span. Upstairs was Snow White, fast asleep on one of the beds. The chief dwarf prodded her gently.  "Who are you?" he asked. Snow White told them her sad story, and tears sprang to the dwarfs' eyes. Then one of them said, as he noisily blew his nose:  "Stay here with us!" 

"Hooray! Hooray!" they cheered, dancing joyfully round the little girl. The dwarfs said to Snow White:  "You can live here and tend to the house while we're down the mine. Don't worry about your stepmother leaving you in the forest. We love you and we'll take care of you!" Snow White gratefully accepted their hospitality, and next morning the dwarfs set off for work. But they warned Snow White not to open the door to strangers. 

Meanwhile, the servant had returned to the castle, with the heart of a roe deer. He gave it to the cruel stepmother, telling her it belonged to Snow White, so that he could claim the reward. Highly pleased, the stepmother turned again to the magic mirror. But her hopes were dashed, for the mirror replied: "The loveliest in the land is still Snow White, who lives in the seven dwarfs' cottage, down in the forest." The stepmother was beside herself with rage. 

"She must die! She must die!" she screamed. Disguising herself as an old peasant woman, she put a poisoned apple with the others in her basket. Then, taking the quickest way into the forest, she crossed the swamp at the edge of the trees. She reached the bank unseen, just as Snow White stood waving goodbye to the seven dwarfs on their way to the mine. 

Snow White was in the kitchen when she heard the sound at the door: KNOCK! KNOCK!  "Who's there?" she called suspiciously, remembering the dwarfs advice.  "I'm an old peasant woman selling apples," came the reply.  "I don't need any apples, thank you," she replied.  "But they are beautiful apples and ever so juicy!" said the velvety voice from outside the door.  "I'm not supposed to open the door to anyone," said the little girl, who was reluctant to disobey her friends.  "And quite right too! Good girl! If you promised not to open up to strangers, then of course you can't buy. You are a good girl indeed!" Then the old woman went on.  "And as a reward for being good, I'm going to make you a gift of one of my apples!" Without a further thought, Snow White opened the door just a tiny crack, to take the apple.  "There! Now isn't that a nice apple?" Snow White bit into the fruit, and as she did, fell to the ground in a faint: the effect of the terrible poison left her lifeless instantaneously.  Now chuckling evilly, the wicked stepmother hurried off. But as she ran back across the swamp, she tripped and fell into the quicksand. No one heard her cries for help, and she disappeared without a trace.      Meanwhile, the dwarfs came out of the mine to find the sky had grown dark and stormy. Loud thunder echoed through the valleys and streaks of lightning ripped the sky. Worried about Snow White they ran as quickly as they could down the mountain to the cottage.      There they found Snow White, lying still and lifeless, the poisoned apple by her side. They did their best to bring her around, but it was no use.      They wept and wept for a long time. Then they laid her on a bed of rose petals, carried her into the forest and put her in a crystal coffin.      Each day they laid a flower there.      Then one evening, they discovered a strange young man admiring Snow White's lovely face through the glass. After listening to the story, the Prince (for he was a prince!) made a suggestion.      "If you allow me to take her to the Castle, I'll call in famous doctors to waken her from this peculiar sleep. She's so lovely I'd love to kiss her!" He did, and as though by magic, the Prince's kiss broke the spell. To everyone's astonishment, Snow White opened her eyes. She had amazingly come back to life! Now in love, the Prince asked Snow White to marry him, and the dwarfs reluctantly had to say good bye to Snow White.      From that day on, Snow White lived happily in a great castle. But from time to time, she was drawn back to visit the little cottage down in the forest.

Bình luận (0)
Lý Minh tiến Lý
Xem chi tiết
Người hàng xóm Totoro
Xem chi tiết
trần thanh hiếu
25 tháng 7 2018 lúc 7:51

Ngày xưa, có Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Hai chị em suýt soát tuổi nhau. Tấm là con vợ cả, Cám là con vợ lẽ. Mẹ Tấm đã chết từ hồi Tấm còn bé. Sau đó mấy năm thì cha Tấm cũng chết. Tấm ở với dì ghẻ là mẹ của Cám. Nhưng dì ghẻ của Tấm là người rất cay nghiệt. Hàng ngày, Tấm phải làm lụng luôn canh, hết chăn trâu, gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo; đêm lại còn xay lúa giã gạo mà không hết việc. Trong khi đó thì Cám được mẹ nuông chiều, được ăn trắng mặc trơn, suốt ngày quanh quẩn ở nhà không phải làm việc nặng.

Một hôm người dì ghẻ đưa cho hai chị em mỗi người một cái giỏ bảo ra đồng bắt con tôm cái tép. Mụ ta hứa hẹn: - "Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ!".

Ra đồng, Tấm nhờ mò cua bắt ốc đã quen nên chỉ một buổi là được đầy giỏ vừa cá vừa tép. Còn Cám thì đủnh đỉnh dạo hết ruộng nọ sang ruộng kia, mãi đến chiều vẫn không được gì.

Thấy Tấm bắt được một giỏ đầy, Cám bảo chị:

Chị Tấm ơi chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về dì mắng.

Tin là thật, Tấm bèn xuống ao lội ra chỗ sâu tắm rửa. Cám thừa dịp trút hết tép của Tấm vào giỏ của mình rồi ba chân bốn cẳng về trước. Lúc Tấm bước lên chỉ còn giỏ không, bèn ngồi xuống bưng mặt khóc hu hu.

Bấy giờ Tôi đang ngồi trên tòa sen. Bỗng nghe tiếng khóc của Tấm liền hiện xuống hỏi:

- Con làm sao lại khóc?

Tấm kể sự tình cho Tôi nghe. Tôi bảo:

- Thôi con hãy nín đi! Con thử nhìn vào giỏ xem còn có gì nữa không?

Tấm nhìn vào giỏ rồi nói:

- Chỉ còn một con cá bống.

- Con đem con cá bống ấy về nhà thả xuống giếng mà nuôi. Mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai, còn một đem thả xuống cho bống. Mỗi lần cho ăn, con nhớ gọi như thế này:

Bống bống, bang bang

Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta,

Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người

không gọi đúng như thế nó không lên, con nhớ lấy!

Nói xong là Tôi biến mất. Tấm theo lời Tôi thả bống xuống giếng. Rồi từ hôm ấy trở đi, cứ sau bữa ăn, Tấm đều để dành cơm giấu đưa ra cho bống. Mỗi lần nghe lời Tấm gọi, bống lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm của Tấm ném xuống. Người và cá ngày một quen nhau, và bống ngày một lớn lên trông thấy.

Thấy Tấm sau mỗi bữa ăn thường mang cơm ra giếng, mụ dì ghẻ sinh nghi, bèn bảo Cám đi rình. Cám nấp ở bụi cây bên bờ giếng nghe Tấm gọi bống, bèn nhẩm cho thuộc rồi về kể lại cho mẹ nghe.

Tối hôm ấy mụ dì ghẻ bảo Tấm sáng mai dậy sớm chăn trâu, và dặn:

- Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu.

Tấm vâng lời, sáng hôm sau đưa trâu đi ăn thật xa. Ở nhà mẹ con con Cám mang bát cơm ra giếng, cũng gọi bống lên ăn y như Tấm gọi. Nghe lời gọi, bống ngoi lên mặt nước. Mẹ con Cám đã chực sẵn, bắt lấy bống đem về làm thịt.

Đến chiều Tấm dắt trâu về, sau khi ăn uống xong Tấm lại mang bát cơm để dành ra giếng. Tấm gọi mãi nhưng chẳng thấy bống ngoi lên như mọi khi. Tấm gọi mãi, gọi mãi, cuối cùng chỉ thấy một cục máu nổi lên mặt nước. Biết có sự chẳng lành cho bống, Tấm òa lên khóc. Tôi lại hiện lên, hỏi:

- Con làm sao lại khóc?

Tấm kể sự tình cho Tôi nghe, Tôi bảo:

- Con bống của con người ta đã ăn thịt mất rồi. Thôi con hãy nín đi. Rồi về nhặt lấy xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn xuống dưới bốn chân giường con nằm.

Tấm trở về theo lời dặn của Tôi đi tìm xương bống, nhưng tìm mãi các xó vườn góc sân mà không thấy đâu cả. Một con gà thấy thế, bảo Tấm:

- Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc, ta bới xương cho!

Tấm bốc nắm thóc ném cho gà. Gà chạy vào bếp bới một lúc thì được xương ngay. Tấm bèn nhặt lấy bỏ vào lọ và đem chôn dưới chân giường như lời Bụt dặn.

°

° °

Ít lâu sau, nhà vua mở hội luôn mấy đêm ngày. Già trẻ trai gái các làng đều nô nức đi xem. Trên các nẻo đường, quần áo mớ ba mớ bảy dập dìu tuôn về kinh như nước chảy. Hai mẹ con con Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Thấy Tấm cũng muốn đi, mụ dì ghẻ nguýt dài. Sau đó mụ lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc, bảo Tấm:

- Con hãy nhặt cho xong chỗ gạo này rồi có đi đâu hãy đi, đừng có bỏ dở, về không có gì để thổi cơm dì đánh đó.

Nói đoạn, hai mẹ con quần áo xúng xính lên đường, Tấm ngồi nhặt một lúc mà chỉ mới được một nhúm, nghĩ rằng không biết bao giờ mới nhặt xong, buồn bã, bèn khóc một mình. Giữa lúc ấy Tôi hiện lên, hỏi:

- Con làm sao lại khóc?

Tấm chỉ vào cái thúng, thưa:

- Dì con bắt phải nhặt thóc cho ra thóc, gạo ra gạo, rồi mới được đi xem hội. Lúc nhặt xong thì hội đã tan rồi, còn gì nữa mà xem.

Tôi bảo:

- Con đừng khóc nữa. Con mang cái thúng đặt ra giữa sân, để ta sai một đàn chim sẻ xuống nhặt giúp.

- Nhưng ngộ chim sẻ ăn mất thì khi về con vẫn cứ bị đòn.

- Con cứ bảo chúng thế này:

Rặt rặt (tức chim sẻ) xuống nhặt cho tao

Ăn mất hạt nào thì tao đánh chết[1]

thì chúng sẽ không ăn của con đâu.

Tự nhiên ở trên không có một đàn chim sẻ đáp xuống sân nhặt thóc ra một đằng, gạo ra một nẻo. Chúng nó lăng xăng ríu rít chỉ trong một lát đã làm xong, không suy suyển một hạt. Nhưng khi chim sẻ đã bay đi rồi, Tấm lại nức nở khóc. Tôi lại hỏi:

- Con làm sao còn khóc nữa?

- Con rách rưới quá, người ta không cho con vào xem hội.

- Con hãy đào những cái lọ xương bống đã chôn ngày trước lên thì sẽ có đủ mọi thứ cho con trẩy hội.

Tấm vâng lời, đi đào các lọ lên. Đào lọ thứ nhất lấy ra được một bộ áo mớ ba, một cái xống lụa, một cái yếm lụa điều và một cái khăn nhiễu. Đào lọ thứ hai lấy được một đôi giày thêu, đi vừa như in. Lọ thứ ba đào lên thì thấy một con ngựa bé tí, nhưng vừa đặt con ngựa xuống đất bỗng chốc nó hí vang lên và biến thành ngựa thật. Đào đến lọ cuối cùng thì lấy ra được một bộ yên cương xinh xắn.

Tấm mừng qua vội tắm rửa rồi thắng bộ vào, đoạn cưỡi lên ngựa mà đi. Ngựa phóng một chốc đã đến kinh đô. Nhưng khi phóng qua một chỗ lội, Tấm đánh rơi một chiếc giày xuống nước không kịp nhặt. Khi ngựa dừng lại ở đám hội, Tấm lấy khăn gói chiếc giày còn lại rồi chen vào biển người.

Giữa lúc ấn thì đoàn xa giá cũng vừa tiến đến chỗ lội. Hai con voi ngự dẫn đầu đoàn đến đây tự nhiên cắm ngà xuống đất kêu rống lên không chịu đi. Vua sai quân lính xuống nước thử tìm xem; họ nhặt ngay được chiếc giày thêu của Tấm đánh rơi lúc nãy. Vua ngắm nghía chiếc giày không chán mắt, bụng bảo dạ: - "Chà, một chiếc giày thật xinh! Người đi giày này hẳn phải là trang tuyệt sắc".

Lập tức vua hạ lệnh cho rao mời tất cả đám đàn bà con gái đi xe hội đến ướm thử, hễ ai đi vừa chiếc giày thì vua sẽ lấy làm vợ. Đám hội lại càng náo nhiệt vì các bà, các vô chen nhau đến chỗ thử giày. Cô nào cô ấy lần lượt kéo vào ngôi lầu giữa bãi cỏ rộng để ướm thử một tý cầu may. Nhưng chả có một chân nào đi vừa cả. Mẹ con con Cám cũng trong số đó. Khi Cám và dì ghẻ bước ra khỏi lầu thì gặp Tấm. Cám mách mẹ:

- Mẹ ơi, ai như chị Tấm cũng đi thử giày đấy!

Mụ dì ghẻ của Tấm bĩu môi:

- Con nỡm!

Chuông khánh còn chả ăn ai,

Nữa là mảnh chỉnh vứt ngoài bờ tre.

Nhưng khi Tấm đặt chân vào giày thì vừa như in. Nàng mở khăn lấy chiếc thứ hai đi vào. Hai chiếc giày giống nhau như đúc. Bọn lính hầu hò reo vui mừng. Lập tức vua sai đoàn thị nữ rước nàng vào cung. Tấm bước lên kiệu trước con mắt ngạc nhiên và hằn học của mẹ con con Cám.

nguồn : sachhayonline

Bình luận (0)


Tôi vốn là một nhà sư tu luyện nhiều năm trên đỉnh Thiên Sơn. Nhờ chuyên tâm tu luyện mà tôi có thể đi mây về gió để cứu khổ cứu nạn cho những ai gặp khó khăn. Ấy vậy nên mọi người xem tôi như vị thần cai quản hạ giới và kính cẩn gọi tôi là Bụt. Trong một lần đang cưỡi mây du ngoạn, tôi nghe thấy tiếng khóc nức nở của một cô thôn nữ...
- Nàng Tấm kể lại là đã bắt được một giỏ tôm tép đầy. Nhưng vì trót dại nghe theo lời cô em tên Cám nên đã lội xuống ao sâu tắm rửa nên đã mất hết cả giỏ
- Trong lúc nàng đang tập trung khóc, tôi lén bỏ vào trong giỏ nàng 1 con cá bống. Sau đó tôi dặn nàng đem con cá bống ấy về thả xuống giếng mà nuôi và tặng nàng câu gọi cửa miệng tôi vẫn hay dùng khi cho bống ăn. 
- Về núi, tôi dùng giếng nước xem lai lịch của nàng, biết được nàng sớm mồ côi mẹ, cha tái giá và ko bao lâu cũng qua đời. Nàng sống với mẹ con dì ghẻ và hàng ngày đều phải làm việc cật lực hầu hạ mẹ con hai người ấy.
- Một thời gian sau, tôi lại nghe thấy nàng bật khóc.
- Sau một hồi nàng tường tận kể sự tình, tôi hiểu ra mẹ con nhà Cám đã làm thịt nó
- Vẫn có một chút nghi ngờ về nàng, tôi bảo nàng đi tìm xương bống để ktra xem tấm chân tình của nàng. 
- Và khi thấy nàng thực tâm, tôi đã nhờ bạn gà đến giúp sức
- Vào một ngày đẹp trời, tôi dạo ngang qua cung cấm nghe vua đang ra lệnh viết chiếu chỉ mở hội. Lúc ấy, tôi nảy ra ý định tặng nàng Tấm một bộ trang phục. Tôi đã nhờ mẹ thiên nhiên làm nó. Và âm thầm đặt bộ y phục và một bạn ngựa thần vào những cái lọ mà tôi đã dặn với nàng trc đây.
- Tôi đã có mặt ở nhà nàng vào thời điểm hai mẹ con Cám vừa đi dự hội. Nhờ đó, tôi đã nhờ các bạn sẻ đến giúp nàng nhặt thóc và gạo để nàng có thể tham gia hội đúng giờ. Tôi đã tặng nàng câu thơ về sẻ để giúp nàng yên tâm. Và ko quên nhắc nàng đi đào lọ để nhận quà
- Vì được tôi dặn trc, khi đi ngang qua cầu đá, ngựa thần đã cố tình làm rơi đôi hài xuống nước. Và cả voi ngự của nhà vua giả vờ ko chịu bước tiếp cũng do tôi sắp xếp
- Đúng như dự định, nhà vua đã nhặt được chiếc hài ấy. Và đấng minh quân đã mê mẩn nó đến mức mở hội thử giày kén vợ. Và chủ nhân của nó đã đi vừa
- Tôi thầm chúc phúc cho nàng và nhân đêm tân hôn, tôi tặng nàng món quà cuối cùng. Đó là bốn lần hồi sinh theo ý thích nhưng ko đánh mất kí ức. 
- ....
:D Bụt nhìn qua giếng thần để theo dõi hoạt động của Tấm nhưng toàn quyền cho nàng quyết định cuộc sống của chính mình.

P/s: Cái kết của câu chuyện này đúng của nó là nàng Tấm tha thứ cho Cám, mẹ con Cám hối lỗi và hai chị em cùng chung sống với vua. Hằng năm, hai người thường về thăm mẹ của Cám. Đến lúc bà đau yếu sắp qua đời, hai người thay phiên nhau về chăm sóc.... ^^

Bình luận (0)
Nguyễn Minh Đức✎﹏(phó τ...
29 tháng 10 2021 lúc 8:55

LÊN TRÊN MẠNG TRA

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Võ Tấn Doanh
Xem chi tiết
Nguyễn Văn Duy
1 tháng 1 lúc 9:48

Thật đúng như nhà văn I-li-a Ê-ran-bua nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Quả thật, ông Hai trong truyện ngắn “ Làng” là hình ảnh đẹp của những người nông dân bình thường nhưng giàu lòng yêu nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trước đây (1946-1954). Ông Hai là hình tượng người nông dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp với những tình cảm chân thực và thắm đượm tình yêu quê hương, đất nước. Và từ khi được học tác phẩm “Làng” tôi thường mơ ước được gặp ông để tìm hiểu rõ hơn điều gì đã xảy ra với ông. Điều đó đã thành sự thật cách nay chưa lâu. Tôi không thể quên được giây phút phút đó.

 

Không gian mờ ảo đưa tôi đi. Khi tôi mở mắt ra thì thấy mình ở trong một ngôi làng trung du nhỏ. Cái làng này chỉ có chừng vài mươi nóc nhà. Tôi mơ màng đi trên con đường đất thẳng giữa làng. Tôi thấy, những tốp người đứng ngồi lố nhố cả ở dưới mấy gốc đa xù xì, cành lá rườm rà ken vào nhau, rải xuống mặt đường và bãi cỏ một vùng bóng mát rộng. Tiếng quạt, tiếng thở, tiếng trẻ con khóc, cùng với tiếng cười nói râm ran một góc đường. Dưới chân đồi, những thửa ruộng lúa xanh mượt, uốn quanh co dưới trời nắng, lấp loáng như một khúc sông. Có mấy bóng cò trắng bay dật dờ…. Tôi giật mình. Tôi thấy cảnh này vừa lạ vừa quen. Hình như tôi đã gặp đâu đó rồi thì phải nhưng tôi không nhớ được. Bỗng tôi nhìn thấy ông lão ngồi trong một cái quán gần đấy. Hút thuốc lào, uống chè tươi nóng, ông chóp chép cái miệng như có bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc. Tôi mạnh dạn đi lại gần. Bây giờ tôi mới nhìn rõ đó là ông lão người mảnh khảnh, đầu chít khăn, dáng điệu gọn gàng. Tôi đoán ông độ trên dưới sáu mươi.

– Chào ông? Ông có biết đây là đâu không? Tôi hỏi.

– Cháu không biết mình ở nơi tản cư à! Bố mẹ cháu đâu?

– Cháu không biết tại sao cháu ở đây? Ông giúp cháu về nhà nhé?

Ông Hai đặt bát nước xuống chõng nói: Thôi cháu theo ông về nhà, để ông báo chính quyền tìm người nhà cho cháu. Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chem chẹp miệng một tiếng, vươn vai nói to: về nào…

Tôi theo ông về nhà. Trên đường đi ông giới thiệu mình là người làng chợ Dầu và mọi người thường gọi tôi là ông Hai Thu. Lúc đó tôi mới nhận ra mình đang nói chuyện với người mình mơ gặp bấy lâu. Tôi đang bâng khuâng không biết điều này thực hay mơ đây thì đã về tới nhà. Vào nhà ông rót nước và hỏi chuyện tôi. Ông hỏi tôi từ đâu tới, vì sao lạc cha mẹ… Tôi chỉ trả lời ậm ờ cho qua chuyện. Tôi đánh trống lảng hỏi sang chuyện khác:

 

– Cháu nghe nói làng chợ Dầu anh hùng lắm! Ông có thể kể cho cháu nghe về nó không?

Như bắt được mạch, ông Hai kể trong say sưa. Ông nói chuyện về làng một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động. Ông khoe làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy. Ông khoe làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh. Đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, buồn không dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm, phơi thóc thì tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất.

Dù đã đọc những điều này trong truyện nhưng tôi vẫn cảm thấy xúc động. Tôi nhìn ông Hai say sưa kể tiếp: Kháng chiến bùng nổ ông muốn ở lại làng cùng anh em bộ đội và dân quân kháng chiến. Nhưng vì hoàn cảnh gia đình nên ông phải cùng gia đình đi tản cư. Ở nơi tản cư ông rất nhớ làng và thường có hay khoe về làng mình. Hôm nào ông cũng ra phòng thông tin để nghe tin tức kháng chiến. Ruột gan ông cứ múa hết cả lên khi nghe được bao nhiêu tin hay – toàn tin quân ta giết được địch.

Nói đến đây ông dừng lại, trầm ngâm suy nghĩ. Tôi vội hỏi:

– Chuyện gì xảy ra vậy ông? Sao ông dừng lại không kể tiếp?

Ông Hai nhìn tôi với cặp mắt đầy suy tư

– Từ từ chứ! Chờ ông uống miếng nước đã. Nói xong ông lấy ly nước uống một ngụm. Uống xong ông kể tiếp: Hôm ấy đang trong tâm trạng náo nức thì ông nghe được tin làng chợ Dầu của ông theo Tây làm Việt gian. Lúc đó cổ họng ông nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lặng đi, tưởng như không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông hỏi lại về cái tin ấy thì người ta đã khẳng định một cách chắc chắn. Ông vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác rồi đi thẳng về nhà.

Nghe ông kể tôi có thể cảm nhận được tâm trạng ông lúc đó. Có gì đau đớn, tủi nhục cho ông Hai bằng khi nghe một người đàn bà tản cư từ dưới xuôi lên nói: “Cả làng chúng nó (làng Dầu) việt gian theo Tây”, “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông à!”, Niềm tự hào bao lâu bỗng chốc tan tành, sụp đổ. Giá không yêu nơi sinh trưởng của mình, ông đâu cảm thấy đau đớn và nhục nhã đến thế. Ông Hai vẫn đang kể:

 

– Về đến nhà, ông nằm vật ra giường nhìn lũ con mà thấy tủi thân, nước mắt ông cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Ông ngờ ngợ chả nhẽ bọn ở làng lại đốn đến thế ư rồi ông tự kiểm điểm trong óc thấy họ đều là những người có tinh thần yêu nước, yêu kháng chiến chẳng nhẽ lại đi làm cái điều nhục nhã ấy? Nhưng không có lửa làm sao có khói. Ông cảm thấy tủi nhục. Chiều hôm ấy vợ ông về cũng có vẻ khác. Trong nhà có cái sự im lặng thật là khó chịu. Mãi đến khuya vợ ông mới hỏi ông về cái tin ấy. Ông im lặng rồi gắt lên vậy là bà ấy im bặt. Ba bốn ngày hôm sau ông không dám bước chân ra ngoài chỉ ở trong gian nhà chật chội để nghe ngóng tin tức. Lúc nào ông cũng nơm nớp lo sợ, hễ nghe đến chuyện ấy là ông lại giật mình. Ông căm ghét bọn phản bội làng, phản bội Tổ quốc. Nỗi đau đớn và nhục nhã và lo sợ của ông lên tới cao độ khi nghe tin nhân dân địa phương có người làng Dầu tản cư đến là họ tẩy chay dân làng ông, “đến đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi”, ngay mụ chủ nhà cũng đã đuổi khéo vợ chồng, con cái ông ra khỏi nhà. Trước tình cảnh ấy, ông bế tắc nhưng ông nhất định không chịu trở về làng: “Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Cũng không thể đi đâu, ở đâu, người ta cũng đuổi người làng chợ Dầu của ông. Trong tâm trạng đau đớn tủi hờn, ông tâm sự với thằng con út. Sau khi tâm sự xong, nỗi khổ của ông với đi phần nào.

Tôi lặng đi trong xúc động. Thật thương cho ông Hai. Không hiểu sao nước mắt đã nhòe trên mặt tôi. Ông Hai lấy tay quệt nước mắt cho tôi cười nói: Coi cháu kìa! Mau nước mắt quá! Nghe ông nói tôi chỉ biết cười ngượng. Vội hỏi cho đỡ ngượng:

– Vậy tin làng chợ dầu theo tây được cải chính khi nào?

Nghe tôi hỏi ông Hai ngẩn người ra. Tôi biết mình đã lỡ lời. Nhưng một thoáng im lặng trôi qua, ông nói với giọng xúc động:

– Một hôm khoảng ba giờ chiều, có người đàn ông đến nhà ông chơi. Ông ấy rủ ông đi theo ông ấy, đến sẩm tối ông mới về. Lúc ấy ông rất vui. Đến bực cửa ông đã bô bô khoe rằng Tây nó đốt nhà mình rồi, ông chủ tịch làng ông vừa mới lên cải chính, ông ấy cho biết cái tin làng ông theo Tây làm Việt gian là sai. Nỗi vui mừng của ông thật vô bờ bến. Ông hào phóng mua quà cho các con, ông muốn san sẻ niềm vui sướng ấy cho mọi người trong đó có cả mụ chủ nhà từng gieo cho ông nhiều nỗi bực dọc, căm tức. Cứ thế ông lật đật đi khoe khắp nơi, tối hôm ấy ông còn sang gian bác Thứ nói chuyện về làng của mình.

Nói xong ông đưa tay quệt nước mắt đã rơi khi nhắc đến kỉ niệm đó. Tôi cảm thấy mình thật nhỏ bé khi nghĩ đến ông. Ông Hai đã gắn tình yêu đắm say làng mạc của mình với tình yêu đất nước. Điều này làm nên con người vĩ đại trong ông. Cũng chính vì thế mà làng Dầu của ông có như thế nào đi nữa, ông vẫn một lòng, một dạ ủng hộ kháng chiến, ủng hộ Cụ Hồ. Đang trầm ngâm với suy nghĩ của mình tôi nghe tiếng gọi

 

– Ông Hai ơi ngoài ủy ban có tin về làng chợ Dầu kìa?

Nghe tiếng gọi ông Hai nhanh chóng bảo tôi nghỉ ngơi còn ông sẽ chay ra ủy ban báo cáo về trường hợp của tôi. Nhìn dáng tất bật của ông mà tôi trào dâng niềm yêu thương.

Reng! Reng! Tiếng chuông báo thức vang lên. Giờ tôi mới nhận ra mình đã có một giấc mơ thật đẹp. Ông Hai đã giúp hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến. Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.

CHÚC BẠN NĂM MỚI VUI VẺ VÀ CÀNG NGÀY CÀNG HỌC GIỎI NHA!

Bình luận (0)
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
30 tháng 1 2018 lúc 2:51

a) Cậu bé trở về nhà.

Một hôm, vừa đói rét lại bị đám trẻ lớn hơn đánh, nhớ mẹ, cậu bé trở về nhà.

b) Không thấy mẹ, cậu bé ôm lấy một cây xanh mà khóc.

Về nhà, cảnh vật vẫn như xưa. Cậu bé gọi khản cổ nhưng không thấy mẹ đâu, cậu bé ôm lấy một cây xanh mà khóc.

c) Từ trên cây, quả lạ xuất hiện và rơi vào lòng cậu.

Cây xanh bỗng run rẩy. Từ các cành lá, những đài hoa bé tí trổ ra, nở trắng như mây. Hoa tàn, quả xuất hiện, lớn nhanh, da căng mịn, xanh óng ánh, rồi chín. Một quả rơi xuống lòng cậu bé. Cậu vừa đưa lên miệng đã chảy một dòng sữa, thơm ngọt như sữa mẹ.

d) Cậu bé nhìn cây, ngỡ như được thấy mẹ.

Tán cây xanh mát. Lá cây một mặt đỏ hoe như màu mắt mẹ khóc chờ con. Bỗng cậu bé òa khóc, cây xòe cành ôm cậu như tay mẹ vỗ về âu yếm.

Bình luận (0)