Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Ivy
Xem chi tiết
lien nguyen
Xem chi tiết
Nguyen Chau Phuong
Xem chi tiết
Thời Sênh
19 tháng 12 2018 lúc 17:28

Em bé bán diêm thật tội nghiệp. Người đời đối xử tàn nhẫn với em biết mấy. Họ chẳng thèm để ý đến những lời chào hàng tha thiết của em thậm chí đến lúc chết, cái thi thể lạnh cóng của em cũng chỉ nhận được những ánh nhìn lạnh nhạt. Trong cái xã hội thiếu tình thương ấy, nhà văn An-đéc-xen đã tỏ lòng thương cảm sâu sắc đối với em bé bất hạnh. Chính tình yêu ấy đã khiến nhà văn miêu tả thi thể em với đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười, đồng thời tưởng tượng ra cảnh huy hoàng của hai bà cháu lúc về trời. Song nhìn chung cả câu chuyện nói chung và đoạn kết của truyện nói riêng là một cảnh tượng thương tâm thực sự. Nó gợi lên ở chúng ta bao nỗi xót xa cho những kiếp người nghèo khổ.



Thiên Trang
19 tháng 12 2018 lúc 17:36

Em bé bán diêm thật tội nghiệp. Người đời đối xử tàn nhẫn với em biết mấy. Họ chẳng thèm để ý đến những lời chào hàng tha thiết của em thậm chí đến lúc chết, cái thi thể lạnh cóng của em cũng chỉ nhận được những ánh nhìn lạnh nhạt. Trong cái xã hội thiếu tình thương ấy, nhà văn An-đéc-xen đã tỏ lòng thương cảm sâu sắc đối với em bé bất hạnh. Chính tình yêu ấy đã khiến nhà văn miêu tả thi thể em với đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười, đồng thời tưởng tượng ra cảnh huy hoàng của hai bà cháu lúc về trời. Song nhìn chung cả câu chuyện nói chung và đoạn kết của truyện nói riêng là một cảnh tượng thương tâm thực sự. Nó gợi lên ở chúng ta bao nỗi xót xa cho những kiếp người nghèo khổ.

Huỳnh lê thảo vy
19 tháng 12 2018 lúc 17:46

Em bé bán diêm thật tội nghiệp. Người đời đối xử tàn nhẫn với em biết mấy. Họ chẳng thèm để ý đến những lời chào hàng tha thiết của em thậm chí đến lúc chết, cái thi thể lạnh cóng của em cũng chỉ nhận được những ánh nhìn lạnh nhạt. Trong cái xã hội thiếu tình thương ấy, nhà văn An-đéc-xen đã tỏ lòng thương cảm sâu sắc đối với em bé bất hạnh. Chính tình yêu ấy đã khiến nhà văn miêu tả thi thể em với đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười, đồng thời tưởng tượng ra cảnh huy hoàng của hai bà cháu lúc về trời. Song nhìn chung cả câu chuyện nói chung và đoạn kết của truyện nói riêng là một cảnh tượng thương tâm thực sự. Nó gợi lên ở chúng ta bao nỗi xót xa cho những kiếp người nghèo khổ.

HOANG HA
Xem chi tiết
Huỳnh lê thảo vy
9 tháng 9 2018 lúc 10:54
Đạo đức, hiểu theo nghĩa chung nhất là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng được xã hội thừa nhận, có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và toàn xã hội. Đạo đức có vai trò quan trọng trong xã hội, là nền tảng tinh thần của xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, qua đó thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Anh hùng Giải phóng Dân tộc, Danh nhân Văn hóa thế giới, tuy Bác đã đi xa, nhưng đã để lại cho chúng ta di sản tinh thần to lớn, những tư tưởng vô giá, những giá trị nhân văn cao cả, trong đó đặc biệt là tư tưởng đạo đức cách mạng. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản và toàn diện về đạo đức. Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”“Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là: trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người, sống có nghĩa có tình; cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư và tinh thần quốc tế trong sáng. Trong quá trình xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, đại đa số cán bộ đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân đang hết sức mình để thực hiện các mục tiêu cách mạng. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, đã làm giảm sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, tác động đến sự ổn định, phát triển bền vững của xã hội và gây bức xúc trong dư luận xã hội. Nó làm cho nhân dân lo lắng, bất bình, ảnh hưởng xấu đến uy tín lãnh đạo của Đảng, đến việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Do đó, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh hiện nay có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi vì tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh luôn là một bộ phận không thể thiếu của nền tảng tinh thần xã hội, là động lực, nguồn sức mạnh to lớn để nhân dân ta phát huy nội lực, vượt qua thử thách, khó khăn để tiến lên. Đặc biệt, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một biện pháp quan trọng để mỗi cán bộ đảng viên và tổ chức đảng sửa chữa, khắc phục tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, củng cố và giữ vững niềm tin của nhân dân về sự lãnh đạo của Đảng. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác, ngày 14/5/2011 Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 03-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Và từ đây việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở thành một nội dung mà các tổ chức Đảng, các cán bộ, đảng viên, hội viên các đoàn thể phải thực hiện thường xuyên; là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hàng năm. Trên tinh thần đó, cấp ủy cơ sở phải xây dựng kế hoạch và quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc học tập, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; từng cá nhân cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt phải đăng ký nội dung học tập, rèn luyện và có phương pháp thực hiện hiệu quả việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác. Đồng thời tích cực tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân
Doan Vu Thao Vy
Xem chi tiết
Nguyễn Như Quỳnh
26 tháng 9 2016 lúc 20:29

Ở ô cuối cùng số hạt thóc sẽ được viết dưới dạng lũy thừa là:2^63

Nguyen Quoc Nam
26 tháng 9 2016 lúc 20:45

O cuoi cung so hat thoc se duoc viet duoi dang luy thua:263

Điều thứ 100 mà tôi biết...
Xem chi tiết
Nguyen Viêt Hung
21 tháng 8 2018 lúc 21:45

Mình có thấy đoạn văn nào đâu?

do thi thanh yen
Xem chi tiết
Thu Huyền Chu Văn An
27 tháng 2 2017 lúc 19:38

Trong văn bản "Vượt thác" của Võ Quảng, hình ảnh dượng Hương Thư "giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ" là một hình ảnh so sánh đầy sức gợi. Hình ảnh ấy khiến ta liên tưởng tới những hình ảnh huyền thoại anh hùng xưa với tầm vóc và sức mạnh phi thường của những Đăm Săn, Xinh Nhã bằng xương, bằng thịt đang hiển hiện trước mắt. So sánh như vây, tác giả nhằm khắc hoạ nổi bật và tôn vinh sức mạnh của con người trong công cuộc chế ngự thiên nhiên. Lớp lớp những thế hệ trên mảnh đất này đã lao công khổ tứ với sự nghiệp chinh phục thiên nhiên hoang dã đổ giành phần sống cho mình, và hôm nay, không phải chỉ một mình dượng Hương Thư, không phải một mình người dân chài nào trên mảnh đất này đang đơn độc chống chọi với thác dữ mà là oai linh của hàng trăm người anh hùng đang tụ hội cùng hậu thế vượt qua thử thách. Không chỉ vậy, cách so sánh này còn đối lập mạnh mẽ với một hình ảnh "dượng Hương Thư ở nhà, nói nãng nhỏ nhẻ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng vâng vâng dạ dạ". Qua đó, tác giả khẳng định một phẩm chất đáng quí của người lao động: khiêm tốn, nhu mì đến nhút nhát trong cuộc đời thường, nhưng lại dũng mãnh, nhanh nhẹn, quyết liệt trọng công việc, trong khó khăn, thử thách.

Nguyễn Thị Mỹ Lài
17 tháng 3 2017 lúc 10:03

Nhân vật dượng Hương Thư trong văn bản Vượt thác hiện lên với tầm vóc, sức mạnh lớn lao, kì vĩ của con người lao động trước thiên nhiên, tư thế làm chủ đất . Nước to, nước từ trên cao phóng xuống giữa 2 vách đá dựng đứng nguy hiểm là thế, dượng Hương Thư vẫn nhìn vào đó mà không một chút lo sợ, nao núng. Trong cuộc vượt thác này, có lẽ, dượng Hương Thư đã được tác giả tập trung miêu tả, khắc họa nổi bật. Ông vừa là người đứng mũi chịu sào dung cảm cho cuộc chiến đấu giữa con người với thiên nhiên, vừa là người chỉ huy đầy kinh nghiệm. Bằng những hình ảnh so sánh vừa khái quát, vừa gợi cảm, nhân vật này hiện lên với động tác dứt khoát, tư thế, ngoại hình khỏe khoắn.Dượng “như một pho tượng đồng đúc” – một vẻ đẹp ngoại hình vô cùng gân guốc, vững chắc, là “một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùg vĩ”, ấy là cái tư thế hào hung, không hề nao núng của con người trước thiên nhiên. Hơn nữa, sự khác biệt của dượng Hương Thư lúc vượt thác và lúc ở nhà càng khắc họa rõ nét hơn vẻ đepk khỏe khoắng, kiên cường. Hành động rút sào, thả sào nhanh như cắt càng cho thấy sự dung cảm, dày dặn kinh nghiệm của người đứng mũi đưa con thuyền ngược dòng, vượt thác.

Thảo Phương
5 tháng 5 2017 lúc 17:32

Có lẽ khi đọc “Vượt thác của nhà văn Võ Quảng người đọc không chỉ cảm nhận được cảnh sắc thiên nhiên Việt Nam hùng vĩ mà ở đó còn có vẻ đẹp anh dũng của con người lao động trên sông Thu Bồn – không ai khác đó chính là nhân vật dượng Hương Thư.dượng Hương Thư là 1người mạnh khỏe, oai vệ và dũng mãnh. Những động tác thả sào, rút sào của dượng trong hành trình vượt sông Thu Bồn nhanh như cắt giấy. Hình ảnh đó trái ngược với dượng Hương Thư ở nhà ai gọi cũng dạ dạ vâng vâng. Trong khi vượt thác, hình ảnh ngoại hình của dượng Hương Thư được bộc lộ rõ nhất: dượng có cơ bắp cuổn cuộn, thân hình rắn chắc, tay cầm chặt khúc sào ghì chặt xuống nước và được tác giả SS như người anh hùng của Trường Sơn oai linh, hùng vĩ. Sau khj vượt thác xong, dượng Hương Thư cùng mọi người nắm nghỉ, mặt đỏ tía, miệng thở hổn hển nhưng nét mặt vui mừng như thể vừa trút đi mọi gánh nặng. Vài phút sau, họ đã tới được nơi cần đến. Cây cối, bờ cát hiện ra. Cảnh quang bây giờ sao hùng vĩ thế. Vậy là hành trình vượt thác của họ đã thành công.

bé bủm
Xem chi tiết
lương thanh tâm
12 tháng 12 2018 lúc 20:52

Năm 1976, Việt Nam tuyên bố thống nhất hai miền Nam – Bắc, năm 1986 bắt đầu công cuộc đổi mới mở cửa. Trong khoảng thời gian 10 năm này, ưu và nhược điểm về mô hình kinh tế Nam – Bắc của Việt Nam là tương đối rõ nét. Khi Nam – Bắc bị chia cắt miền Nam Việt Nam cơ bản do người Mỹ đầu tư kinh doanh, thực hiện thể chế hiện đại, kinh tế tương đối phát triển, có cơ sở kinh tế thị trường tương đối mạnh. Mức độ thịnh vượng đã vượt Thái Lan khi đó, thậm chí Sài Gòn còn được mệnh danh là “Paris của phương Đông”. Sau khi Việt Nam thống nhất, tại miền Nam đã áp dụng chính sách thống nhất với miền Bắc, thực hiện quốc hữu hóa tất cả các doanh nghiệp, thực hiện tập thể hóa đối với nông thôn, đẩy chủ nghĩa tư bản ra khỏi đất nước.

Sau khi miền Nam bị “Bắc hóa”, người Việt Nam phát hiện không chỉ miền Bắc kém phát triển, miền Nam vốn thịnh vượng cũng bắt đầu suy thoái. Việt Nam bắt đầu suy xét lại và so sánh, dưới tiền đề duy trì “chính trị đúng đắn”, miền Nam thực hiện kinh tế đồng bộ, đã nhận được sự đồng thuận của nhiều tầng lớp Việt Nam. Ngoài ra, trong Chiến tranh Việt Nam trường kỳ, còn có một lớp cán bộ sinh sống lâu dài tại miền Nam, họ hiểu rất rõ chế độ kinh tế miền Nam, vì vậy họ cũng tán thành với hệ thống kinh tế của miền Nam.

Vì vậy, khi Việt Nam quyết định cải cách mở cửa trong hoàn cảnh như vậy, sức cản đã nhỏ hơn rất nhiều so với Trung Quốc. Trung Quốc đã phát động phê phán đối với “hai phàm là” (phàm là những gì Mao Trạch Đông nói là đúng, phàm là những gì Mao Trạch Đông làm là đúng, tiến hành tổng động viên “thuyết mèo đen mèo trắng” (mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miền là bắt được chuột), đồng thời từ năm 1976 đến năm 1978 trải qua thời gian hơn 2 năm mới thực hiện chuyển đổi hòa bình tầng lớp lãnh đạo hạt nhân, hoàn thành sự chuẩn bị về tổ chức cho cải cách.

Vì thế, khi Việt Nam thúc đẩy toàn diện cải cách mở cửa, một loạt nhà doanh nghiệp, thương nhân có tài kinh doanh thời kỳ Nam Việt Nam trước đây đều có cơ hội trở lại, cống hiến kinh nghiệm, tài hoa của mình, không như Trung Quốc, đã trải qua quãng thời gian 30 năm, những người tài đã sắp già. Nhân tài kinh doanh của Việt Nam, mặc dù bị cản trở trong 10 năm, nhưng là trải qua thời kỳ ngủ đông, vẫn có thể tỉnh giấc, hoàn toàn không xuất hiện gián đoạn thế hệ nhân tài.

Đồng thời, một lượng lớn cán bộ công tác tại miền Nam, lần lượt bước vào tầng lớp lãnh đạo cao cấp của Việt Nam, họ có nhãn quan tương đối hiện đại. Như vậy, trong thiết kế “tầng lớp đỉnh cao” của cải cách Việt Nam cũng khác so với Trung Quốc. Bước đi của họ ngày càng lớn, càng dễ tiếp thu những điều mới, có dũng khí mở đường, phiêu lưu.

Khoảng cách thời gian giữa hai miền Nam – Bắc thống nhất với cải cách mở cửa chỉ có 10 năm, không đủ để phá hủy mạch máu kinh tế thị trường của Việt Nam, xóa bỏ tính lũy văn minh hiện đại của mình, do vậy sau khi Việt Nam đổi mới mở cửa, sự kế thừa văn minh hiện đại đã đạt được thành công nhiều hơn so với Trung Quốc.

Mặc dù tại Trung Quốc rất kiêng kị đàm luận về cải cách chính trị của Việt Nam, nhưng sự thật, Việt Nam được coi là học sinh, nhưng thực sự đã vượt xa thầy. Trên thực tế, cải cách của Việt Nam có thể đi sâu như vậy là dựa vào sách lược lựa chọn thời cơ và đột phát từng bước của nó. Năm 2001, Việt Nam vừa hủy bỏ Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị, phục hồi Ban Bí thư Trung ương. Trước đại hội IX, Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị cũng được gọi là “Tiểu tổ 5 người”, là “hạt nhân trong hạt nhân” của tầng lớp cao cấp Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau khi xóa bỏ Ban Thường vụ Bộ Chính trị, quy mô Bộ Chính trị của Việt Nam cũng không lớn, hiện nay chỉ có 14 người.

=> Kết quả :Mô hình cải cách tuần tự, tiệm tiến khiến cho lực cản cải cách Việt Nam giảm thiểu, công cuộc đổi mới mở cửa không ngừng được thúc đẩy, tiến về phía trước, ngày càng tiếp cận với văn minh chính trị hiện đại.

Nguyễn Việt Anh
Xem chi tiết
Nguyễn Đăng Diện
26 tháng 9 2016 lúc 21:05

\(2^{64}\)