Tên gọi Lan Xang của Vương quốc Lào có nghĩa là gì?
Tên gọi Lan Xang của Vương quốc Lào có nghĩa là gì?
Tên gọi Lan Xang của Vương quốc Lào có nghĩa là “Triệu Voi” (đầy đủ là Lan Xang Hom Khao – Triệu Voi và Lọng Trắng).
mọi người ơi cho mình hỏi là các bạn có thể tóm tắt văn bản truyện QUẢ BẦU VÀNG đc k ạ(khoảng 5 -6 thôi ạ)
rearrange:
exciting to / in the / a sport area / It is / play /./
Mọi người ơi có ai làm dạng đề này chưa:✔ ♢ Viết bài văn nghị luận trình bày suy nghĩ của bạn về vai trò của thần tượng đối với mỗi người. (Cho mình xin ý kiến với ạ) 🙋
Trong xã hội hiện đại, khi các giá trị sống ngày càng đa dạng, thần tượng trở thành một hiện tượng phổ biến và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người, đặc biệt là giới trẻ. Thần tượng có thể là những người nổi tiếng, những cá nhân thành công trong một lĩnh vực nào đó, hoặc cũng có thể là những con người bình dị như cha mẹ, thầy cô. Dù ở hình thức nào, thần tượng đều giữ một vai trò quan trọng trong việc tác động đến nhận thức, hành động và lối sống của mỗi người.
Trước hết, thần tượng là nguồn động lực tinh thần to lớn giúp con người không ngừng vươn lên. Khi ngưỡng mộ một người có tài năng, bản lĩnh và ý chí, mỗi cá nhân sẽ có thêm niềm tin để vượt qua khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Thần tượng không chỉ khơi dậy ước mơ mà còn thúc đẩy con người nỗ lực học tập, rèn luyện và hoàn thiện bản thân để tiến gần hơn đến hình mẫu lý tưởng mà mình hướng tới. Nhờ đó, con người có thể sống tích cực hơn và biết trân trọng giá trị của sự cố gắng. Bên cạnh đó, thần tượng còn đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng lối sống và hình thành nhân cách. Một thần tượng có đạo đức tốt, lối sống đẹp và tinh thần cống hiến sẽ lan tỏa những giá trị nhân văn tích cực đến cộng đồng. Khi biết chọn lựa đúng đắn, con người sẽ học được từ thần tượng cách ứng xử văn minh, tinh thần trách nhiệm và ý thức sống vì người khác. Những ảnh hưởng ấy góp phần giúp mỗi cá nhân trưởng thành hơn cả về trí tuệ lẫn nhân cách. Tuy nhiên, thần tượng chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người giữ được sự tỉnh táo và lý trí. Việc thần tượng một cách mù quáng, tuyệt đối hóa thần tượng hoặc đánh mất bản thân vì thần tượng có thể dẫn đến nhiều hệ lụy tiêu cực. Không ít người vì quá say mê thần tượng mà sao nhãng học tập, chạy theo lối sống lệch lạc, thậm chí sẵn sàng biện minh cho những hành vi sai trái. Điều đó không chỉ làm mất đi giá trị tốt đẹp của việc thần tượng mà còn cản trở sự phát triển toàn diện của bản thân. Vì vậy, mỗi người cần xây dựng cho mình một cách thần tượng đúng đắn: biết ngưỡng mộ, học hỏi nhưng không sao chép máy móc; biết tiếp thu những giá trị tích cực và giữ vững bản lĩnh cá nhân.
Tóm lại, thần tượng có vai trò quan trọng trong việc tạo động lực, định hướng lối sống và hoàn thiện nhân cách con người. Khi được đặt đúng vị trí, thần tượng sẽ trở thành điểm tựa tinh thần giúp mỗi người sống tốt hơn, có mục tiêu rõ ràng và vững vàng trên con đường trưởng thành.
Giá cước điện thoại cố định của một hãng viễn thông bao gồm cước thuê bao là 22 000 đồng/tháng và cước gọi là 800 đồng/ phút. a) Lập công thức tính số điện cước điện thoại y (đồng) phải trả trong tháng khi gọi x phút. b) Tính số tiền cước điện thoại phải trả khi gọi 75 phút. c) Nếu số tiền cước điện thoại phải trả là 94 000 đồng thì trong tháng đó thuê bao đã gọi bao nhiêu phút.
Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai trích đoạn trong hai tác phẩm truyện ngắn sau; Đoạn truyện (1) (Lược phần đầu:Dì Hảo là con nuôi của bà nhân vật "tôi" - (người kể chuyện). Bố đẻ của dì Hảo chết đã lâu. Mẹ đẻ di do cuộc sống chật vật đã quyết định để dì Hảo đi ở nuôi nhà người quen. Mới đầu về nhà mẹ nuôi, dì Hào khóc ghê lắm nhưng rồi dì cũng quen dần và trở thành một người con gái rất ngoan đạo giống như chính mẹ nuôi của mình. Sau đó, dì lấy chồng). Hắn khinh đì là đứa con nuôi, còn hẳn là con dòng cháu giống. Và tuy rằng nghèo xác, hắn nhất định không làm gì. Hắn lấy vợ để cho vợ nó nuôi. Dì Hảo cũng nghĩ đúng như thế ấy; đi làm mà nuôi hắn. Người vợ đảm đang ấy kiếm mỗi ngày được hai hào, đi ăn có năm xu. Còn một hào thì hắn dùng mà uống rượu. Và dì Hảo sung sướng lắm. Và gia đình vui vẻ lắm. Nhưng sự tai ác của ông trời bắt đi đẻ một đứa con. Đứa con chết, mà dì thì tê liệt. Mỗi ngày ngồi là một ngày không có hai hào. Người chồng muốn đó là cái lỗi của người vợ vô phúc ấy. Nhưng mới đầu hắn chỉ nghĩ thế thôi. Là vì nhờ ít tiền dành dụm, người ta vẫn có thể đủ cả cơm lẫn rượu. Nhưng rồi rượu phải bớt đi. Đến cả cơm cũng thế. Đến lúc ấy thì hắn không nhịn được nữa. Hắn chưi bâng quơ. Hắn chửi những nhà giàu, hắn chửi số kiếp hắn, và sau cùng thì chửi vợ. Ô! Hắn chửi nhiều lắm lắm, một bữa đói rượu rồi tình cờ có một bữa rượu say. Dì Hảo chẳng nói năng gì. Dì nghiến chặt răng để cho khỏi khóc nhưng mà dì cứ khóc. Chao ôi! Dì Hảo khóc. Dì khóc nức nở, khóc nấc lên, khóc như người ta thổ. Dì thổ ra nước mắt. Nhưng đã vội phí nước mắt làm gì nhiều đến thế. Vì dì còn phải khóc hơn thế nhiều, khi hắn chán chửi, bỏ nhà mà đi, bỏ đi bơ vơ, đau ốm, để tìm cơm rượu. Trách làm gì hắn, cái con người bắt buộc phải tàn nhẫn ấy? Hắn phải ăn, phải uống, phải vui thú, đó là đời của hắn. Dì Hảo què liệt không còn những cái ấy để mà cho. Không, dì có trách chi con người tàn nhẫn ấy. [...] (Trích Dì Hảo - Tuyển tập truyện ngắn Đôi mắt, Nam Cao, NXB Văn học, 2017, tr. 208) Đoạn truyện (2) (Lược phần đầu: Nông trường Hồng Cúm (Điện Biên) đang vào mùa thu hoạch lạc. Chị Đào đang lao động hăng say. Nhìn nụ cười của Huân - chàng trai trẻ trung, yêu đời - bạn cùng nông trường mà chị ước như không bao giờ có cuộc đời đã qua; mà chỉ có lúc này, một nữ công nhân trên nông trường, một người có quyền được hưởng hạnh phúc như mọi người con gái may mắn khác. Hiện tại càng khiến chị nhớ lại quãng đời trước đây của mình.) Lấy chồng từ năm mười bẩy tuổi, nhưng chồng cờ bạc, nợ nần nhiều nên bỏ đi Nam den dau nam 1950 moi tro ve que. An o voi nhau dupe dira con trai len hai thi chong chet. Cách mấy tháng sau đứa con lên sài bỏ đi để chị ở một mình. Từ ngày ấy chị không có gia đình nữa, đòn gánh trên vai, tối đâu là nhà, ngã đâu là giường, khi ra Hòn Gai, Cẩm Phả lấy muồng, khi ngược Lào Cai buôn gà, vịt, mùa tụ hú kêu sang đất Hà Nam buồn vài, tháng sáu lại về quê bẻ nhãn. Khi thì ở chợ Cuối Chẳm, ở đò Tràng Thưa, khi lại về phố Rỗ, chợ Bì, chợ Bưởi. Mùa hè vài cái áo cánh nâu vá vai, mùa đông một chiếc áo bông đã bạc, ngày mưa, ngày nắng, bàn chân đã từng đi khắp mọi nơi không dừng lại một buổi nào. Cũng có ngày đau ốm, nằm nhờ nhà người quen, bưng bát cơm nóng, nhìn ngọn đèn dầu lại sực nhớ tới trước đây mình cũng có một gia đình, có một đứa con, sớm lo việc sớm, tối lo việc tối. Còn bây giờ bốn bể là nhà, chỉ lo cho bản thân mình sao được cơm ngày hai bữa, chân cứng đá mềm ...Muốn chết nhưng đời còn dài nên phải sống. (Lược một đoạn: Đào lên nông trường Hồng Cúm (Điện Biên), ban đầu chỉ coi nơi đây như một chốn tạm dừng chân. Cuộc sống lao động nhộn nhịp, tấm chân tình của những con người lao động đã làm dấy lên khát vọng sống ở chị. Chị cảm nhận rõ rệt sự thay đối của chính mình). Quê hương thứ nhất của chị ở đất Hưng Yên, quề hương thứ hai của chị ở nông trường Hồng Cúm, hạnh phúc mà chị đã mất đi từ bấy, tẩm năm nay ai ngờ chị lại tìm thấy ở một nơi mà chiến tranh đã xảy ra ác liệt nhất... Sự sống nảy sinh từ cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những hy sinh, gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy. [...] (Trich Mùa lạc- Truyện ngắn Nguyễn Khải, NXB Văn học 2013, tr.61) * Chú thích: (1) Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại giai đoạn 1930 - 1945. Trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao sáng tác chủ yếu ở hai đề tài chính đó là đề tài người nông dân nghèo và người trí thức nghèo. Truyện "Dì Hảo" viết năm 1941, là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nam Cao viết về số phận bất hạnh của người phụ nữ nông thôn dưới chế độ cũ. (2) Nguyễn Khải là một trong những gương mặt nổi bật của thế hệ nhà văn trưởng thành sau Cách mạng Tháng tám. Sáng tác của Nguyễn Khải thể hiện sự nhạy bén và cách khám phá riêng của nhà văn về các vấn đề xã hội. Truyện "Mùa lạc" viết năm 1960, là một truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Khải viết về đề tài cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Bài tập: Trình bày bài viết so sánh, đánh giá giá trị nội dung, nghệ thuật của hai đoạn trích kí sau: ( Kiểu bài so sánh song song ) 2.10.1971 Hơn cả khi trên tay phập phồng tờ quyết định. Vui sướng, tự hào, cảm động làm sao khi trên người ta là bộ quân phục xanh màu lá. Anh sinh viên quen màu trắng áo của cánh cò,, quen màu xanh da trời tháng năng. ... Mình trút bỏ không thương tiếc và trìu mến khoác lên mình màu xanh ấy. Màu xanh của núi đồi và thảo nguyên, của ước mơ và hy vọng. Màu xanh bất diệt của sự sống. Trên mũ là ngôi sao. Ta lặng ngắm ngôi sao, như hồi nào ta chỉ cho bạn: Kia là sao Hôm yêu dấu ... Nhưng khác hơn một chút. Bây giờ, ta đọc trong ngôi sao ấy, ánh lửa cầu vồng của trận công đồn, màu đỏ của lửa, của máu... (Trích Nhật kí tuổi hai mươi, Nguyễn Văn Thạc) 8.11.68 Ngồi bên em, cầm bàn tay em ấm nóng thượng yêu, bỗng dọng thấy mình xót xa vô cùng khi nghĩ rằng không có cách nào để bảo vệ cho em cả. Nếu trọng cuộc chiến đấu ác liệt này em ngã xuồng thì em ơi! Sẽ suốt đời chị nhớ giây phút hôm nay, nhớ suốt đời đôi mắt của em rực sáng tình thương và cũng nhớ suốt đời lời em ấm áp. Em ơi, nêu vậy bao giờ cho nguôi đau đớn. Cứ mỗi lần nghe em nói vê tình thương của em với chị, chị lại thấy kỳ lạ. Tại sao những người cách mạng lại có thể thương nhau đến mức ấy nhỉ? Một tình thương sâu thằm và mênh mông như biển cả. Một tình thương trào dâng như những đợt sóng bạc đầu, một tình thương trong trắng, chân thành vô hạn... (Trích Nhật kí Đặng Thùy Trâm, Đặng Thùy Trâm)