Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
STELA
Xem chi tiết
STELA
Xem chi tiết
Tony Sony
Xem chi tiết
T.Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Trương Ngọc Hường...
29 tháng 10 2021 lúc 19:17

Câu 1: Con hổ có nghĩa( Vũ Trinh)

-Thầy thuốc giỏi cốt ở tấm lòng(Hồ Nguyên Trừng)

-Chuyện người con gái Nam Xương(Nguyễn Dữ)

-Chuyện cũ trong phủ chúa(Phạm Đình Hổ)

   Tôi thích nhất là bài " Thầy thuốc giỏi cốt ở tấm lòng, vì tôi rất ngưỡng mộ tấm lòng cao thượng, không sợ uy quyền của người bề trên.

   Câu 2:

Công cha nghĩa mẹ được nói đến nhiều trong ca dao. Bài ca dao “Công cha như núi Thái Sơn” hầu như em bé nào cũng đã “uống” qua lời ru ngọt ngào của mẹ, của bà ngay từ thuở còn nằm trong nôi. Còn có bài ca dao bốn câu sau đây hầu như ai cũng nhớ cũng thuộc:

“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi

Câu thứ nhất nói về “công cha”. Công cha đã từng được so sánh với núi Thái Sơn, ở đây công cha lại được ví với “núi ngất trời", núi hùng vĩ, núi cao chót vót ,cao đến mấy tầng mây xanh, núi chọc trời. Câu thứ hai nói về “nghĩa mẹ”’ nghĩa mẹ bao la, mênh mông, không thể nào kể xiết. Nghĩa mẹ được so sánh với nước ở ngoài biển Đông. Nghệ thuật so sánh và đối xứng đã tạo nên hai hình ảnh kì vĩ, vừa cụ thể hóa, hình tượng hóa, vừa ca ngợi nghĩa mẹ cha với tình yêu sâu nặng. Tiếng thơ dân gian khẽ nhắc mỗi chúng ta hãy ngước lên nhìn núi cao, trời cao, hãy nhìn xa ra ngoài biển Đông, lắng tai nghe sóng reo sóng hát, thủy triều vỗ mà suy ngẫm về công cha nghĩa mẹ Thấm thía và rung động biết bao:

“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông”

Hai câu cuối, giọng thơ cất lên thiết tha ngọt ngào. Tiếng cảm thán “con ơi !” là lời nhắn nhủ ân tình về đạo làm con phải biết "ghi lòng” tạc dạ công cha nghĩa mẹ:

“Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”

Câu trên là một ẩn dụ, nhắc lại, nhấn mạnh công cha nghĩa mẹ như “Núi cao biển rộng mênh mông”. Câu cuối bài ca dao, nhà thơ dân gian sử dụng cụm từ Hán Việt “cù lao chín chữ” để nói lên công ơn to lớn của cha mẹ như sinh thành nuôi dưỡng, cho bú mớm nâng niu, chăm sóc dạy bảo… con cái lớn khôn nên người, trải qua nhiều bề vất vả, khó nhọc. Có cha mẹ mới có con cái. Cha lo làm ăn, vất vả khó nhọc để nuôi con. Từ bát cơm, tấm áo đến ngọn đèn, quyển sách của con là do “công cha” và “nghĩa mẹ”. Mẹ mang nặng đẻ đau, như tục ngữ đã ghi lại: “Đứa con là hạt máu cắt đôi của mẹ”. Con thơ lớn lên bằng dòng sữa tiếng ru, tiếng hát, bằng sự vỗ về, âu yếm chở che của mẹ hiền. Mẹ theo dõi, mẹ vui sướng từng ngày, từng ngày: “Ba tháng con biết lẫy, bảy thảng con biết bò, chín tháng con lò dò biết đi”… Mẹ lo lắng, tóc mẹ bạc dần… khi con thơ ốm đau bệnh tật. Bát cháo, chén thuốc cho con chứa đựng biết bao tình thương của mẹ hiền. Và cái ngày con cắp sách đến trường vào học lớp Một, mẹ cha như trẻ lại, dào dạt sống trong niềm vui hạnh phúc và hi vọng. Đó là “cù lao chín chữ", đó là công ơn to lớn trời bể của mẹ cha, mà con cái phải biết “ghi lòng”. Có hiếu thảo thì con cái mới biết “ghi lòng” công cha nghĩa mẹ. Hai tiếng “con ơi " thật thấm thía, vần thơ như thấm sâu, lắng sâu vào tâm hồn ta.

Cái hay của bài ca dao là cách nói so sánh cụ thể, nên thơ. Cái đẹp của bài ca dao là thể hiện sự ca ngợi, nói lên lòng biết ơn công cha nghĩa mẹ vô cùng to lớn. Ý nghĩa bài ca dao vô cùng sâu sắc nó dạy chúng ta bài học về lòng hiếu thảo của đạo làm con.

    

Nếu mình hiếu với mẹ cha,
Chắc con cũng hiếu với ta khác gì?
Nếu mình ăn ở vô nghì,
Đừng mong con hiếu làm gì uổng công?

Đêm đêm con thắp đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.

 

Công cha nghĩa mẹ cao vời,
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người con phải xót xa,
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao.
Đội ơn chín chữ cù lao,
Sanh thành kể mấy non cao cho vừa

Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
15 tháng 5 2018 lúc 6:55

- Bộ phận văn học chữ Hán:

Tên tác phẩm Tác giả Thể loại
Con hổ có nghĩa Vũ Trinh sưu tầm  
Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng Hồ Nguyên Trừng  
Sông núi nước Nam Lí Thường Kiệt Thơ
Phò giá về kinh Trần Quang Khải Thơ
Thiên Trường vãn vọng Trần Nhân Tông Thơ
Côn Sơn ca Nguyễn Trãi Thơ
Chiếu dời đô Lí Công Uẩn Chiếu
Hịch tướng sĩ Trần Quốc Tuấn Hịch
Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi Thơ
Bàn luận về phép học Nguyễn Thiếp Tấu
Chuyện người con gái Nam Xương Nguyễn Trãi Truyện
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh Lê Hữu Trác Tùy bút
Hoàng Lê nhất thống chí Ngô gia văn phái Tiểu thuyết chương hồi

- Các văn bản bằng chữ Nôm:

Tên tác phẩm Tác giả Thể loại
Sau phút chia li Đoàn Thị Điểm Thơ song thất lục bát
Bánh trôi nước Hồ Xuân Hương Thất ngôn tứ tuyệt
Qua đèo Ngang Bà Huyện Thanh Quan Thất ngôn bát cú
Bạn đến chơi nhà Nguyễn Khuyến Thất ngôn bát cú
Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác Phan Bội Châu Thất ngôn bát cú
Đập đá ở Côn Lôn Phan Châu Trinh Thơ thất ngôn bát cú
Muốn làm thằng Cuội Tản Đà Thơ thất ngôn bát cú
Hai chữ nước nhà Trần Tuấn Khải Song thất lục bát
Chị em Thúy Kiều Nguyễn Du Truyện thơ
Cảnh ngày xuân Nguyễn Du Truyện thơ
Kiều ở lầu Ngưng Bích Nguyễn Du Truyện thơ
Mã Giám Sinh mua Kiều Nguyễn Du Truyện thơ
Kiều báo ân báo oán Nguyễn Du Truyện thơ
Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga Nguyễn Đình Chiểu Truyện thơ
Lục Vân Tiên gặp nạn Nguyễn Đình Chiểu Truyện thơ
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
6 tháng 6 2019 lúc 12:15

Nhận xét tác giả với sách lịch sử, văn học:

   + Giống: phân tích, nhận xét ưu điểm người Việt: thông minh, cần cù, sáng tạo, đoàn kết trong chiến đấu…

   + Khác: phê phán khuyết điểm, hạn chế, kĩ năng thực hành, đố kị, khôn vặt

- Thái độ người viết: khách quan khoa học, chân thực, đúng đắn

Vân Tăng
Xem chi tiết
CHANNANGAMI
Xem chi tiết
Menna Brian
Xem chi tiết
Quyên Trần
Xem chi tiết

Bạn  tham khảo:

undefinedundefinedundefined