Những câu hỏi liên quan
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
26 tháng 11 2018 lúc 14:16

Văn bản Phong cách Hồ Chí Minh của nhà báo Lê Anh Trà

Bình luận (0)
Nguyễn Thị Hương
10 tháng 2 2022 lúc 20:46

- Đó là văn bản "Phong cách Hồ Chí Minh"

- Của tác giả Lê Anh Trà.

Bình luận (0)
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
24 tháng 8 2018 lúc 14:34

Bài học từ phong cách đạo đức của Hồ Chí Minh:

- Nói được Hồ Chí Minh: tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và nét đẹp trong lối sống giản dị, thanh cao của Người

- Học hỏi sự giản dị trong: lối sinh hoạt (ăn, ở, mặc…), tác phong làm việc

- Sự thanh cao trong nhân cách: thường xuyên học tập, nuôi dưỡng tâm hồn

- Người có đức tính khiêm tốn, chân thành, cởi mở… Bác hi sinh tất cả, quên mình lo cho dân cho nước

→ Tỏ lòng yêu mến, biết ơn Bác Hồ, phán đấu rèn luyện theo gương Bác

Bình luận (0)
Kim Jeese
Xem chi tiết
STELA
Xem chi tiết
STELA
Xem chi tiết
Hồng Thư
Xem chi tiết
Khanh Tay Mon
29 tháng 5 2019 lúc 9:37

Nha tho Huy Can đã từng viết:

“Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”


Qua biết bao đổi thay của cuộc sống, bao thằng trầm của lịch sử dân tộc, con người Việt Nam vẫn giữ trong mình những nét đẹp riêng, những phẩm chất riêng. Suốt chặng đường tiến tới Chủ nghĩa xã hội, các nhà văn nhà thơ đã tình nguyện làm những thư kí trung thành, ghi chép một cách đầy đủ và chân thực những vẻ đẹp rạng ngời của con người Việt Nam.

Vẻ đẹp đầu tiên và cũng là lòng tự hào tự tôn dân tộc chính là vẻ đẹp của tinh thần yêu nước, của chủ nghĩa anh hùng Cách mạng, của ý thức sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng xả thân vì độc lập tự do, giống như ai đó đã từng viết:
“Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc nếu ta cần chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông”


Ý chí độc lập dân tộc đã vượt qua tình yêu quê hương, để hwongs trọn tình yêu ấy cho đất nước. Người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu đã sẵn sàng dứt áo ra đi, để một lòng hướng trái tim ra tiền tuyến:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”


Suốt chặng đường kháng chiến chống Pháp, những người lính cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lí tưởng “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Lí tưởng cao đẹp nhất của họ là giữ vững độc lập tự do của Tổ quốc, giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Hay như hình ảnh cuối của “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”


“Trái tim” – hình ảnh hoán dụ thể hiện sức mạnh chiến đấu, ý chí kiên cường của người chiến sĩ lái xe vì sự nghiệp thống nhất đất nước. “Trái tim” ấy là trái tim yêu thương, trái tim sục sôi căm giận, trái tim sẵn sàng hy sinh cho “trái tim” của biết bao con người khác cũng là anh em, cũng chung dòng máu Việt. Để rồi không chỉ là “trái tim” nơi tiền tuyến cam go khốc liệt, mà ngay cả “trái tim” nơi hậu phương cũng một lòng trọn niềm tin kháng chiến:
“Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội…”


Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thổi tình yêu nước vào bài thơ, để bà mẹ Tà-ôi có khát vọng đất nước được giải phóng, được thấy Bác Hồ, để truyền tình yêu ấy vào tiềm thức của đứa con. Trong lời ru của mẹ có ước mơ của riêng bà và cũng là ước mơ của cả dân tộc về giấc mơ tình thương, giấc mơ về ấm no, hạnh phúc, giấc mơ chiến thắng. Vẻ đẹp của tinh thần yêu nước còn là sự hy sinh, xả thân quên mình vì bầu trời hòa bình như nhân vật anh Sáu trong tác phẩm “Chiếc lược ngà”của Nguyễn Quang Sáng. Dù yêu thương con vô hạn, dù chưa được hưởng trọn cái tình yêu, cái tiếng gọi ba của bé Thu nhưng vì đất nước, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, anh Sáu đã quyết định ra đi để làm tròn bổn phận, làm tròn nhiệm vụ của một người lính, một thành viên trong gia đình và tiếp nối tình yêu đó trên con đường Cách mạng bằng nỗi nhớ, để rồi “trong trận càn của địch, anh bị hy sinh”. Thật xót xa và đớn đau! Thế mới biết chiến tranh đã cướp đi bao mái ấm gia đình, bao niềm hy vọng về đất nước đang bỏ dở…
Vẻ đẹp của con người Việt Nam còn được xây dựng trên mặt trận lao động. Đó alf vẻ đẹp của tình thần lao động hăng say, của tinh thần làm chủ cuộc sống, của ý thức xây dựng Tổ quốc làm giàu đẹp cho quê hương, đất nước. Bằng cách sống có lí tưởng, dám ước mơ, biết vươn lên có ý nghĩa để cống hiến, để thành người có ích với cộng đồng, truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long đã khắc họa thành công vẻ đẹp của những người lao động bình thường, lặng lẽ vô danh ở núi rừng bạt ngàn Tây Bắc. Đó là anh thanh niên làm công tác khí tượng một mình trên đỉnh núi cao khi đang ở độ tuổi hai mươi bảy. Đang là thanh niên – cái thời gian thỏa sức vui chơi, chạy nhảy mà anh lại chấp nhận rời xa cuộc sống đô thị ồn ào náo nhiệt, rời xa gia đình để gắn bó với công việc “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất,… phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Một công việc đầy khó khăn khắc nghiệt nhưng không vì vậy mà anh bỏ bê, lơ đãng mà ngược lại, anh làm việc đầy say mê và đầy trách nhiệm. Vẫn biết công việc ấy là gian khổ nhưng “thiếu nó anh buồn đến chết mất” vì đó là niềm vui và nguồn sống của anh. Đối với anh, hạnh phúc là khi được lao động, cống hiến hết mình vì đất nước. Xây dựng đất nwocs ngày giàu mạnh hơn, với anh đó là một niềm vui. Không chỉ anh mà cả ông họa sĩ già day mê nghệ thuật, cô kĩ sư trẻ mới ra trường, bác lái xe vui tính vởi mở, ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa, đồng chí cán bộ nghiên cứu khoa học…đã lao động âm thầm, lặng lẽ mà đầy ý nghĩa bởi công việc của họ đã cống hiến vì đất nước, vì mọi người. Trên mặt trận lao động, con người Việt Nam luôn dốc lòng dốc sức, nhiệt tình xây dựng đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là bài thơ tiêu biểu sau Cách mạng tháng Tám như thế. Mang âm điệu ngọt ngào, niềm vui say mê và phấn chấn của nhân dân lao động đang làm chủ cuộc đời, Huy Cận đã cất lên bài ca về những người dân chài với đức tính cần cù và tinh thần lạc quan trong lao động:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”


Không còn là từng chiếc thuyền lẻ tẻ đi biển mà là cả một “đoàn thuyền”, một sức mạnh mới của cuộc đời đổi thay. Ra khơi đánh cá, họ cầu mong biển lặng sóng êm để “kéo xoăn tay chùm cá nặng”, góp phần làm giàu cho đất nước. Chi tiết “căng buồm” của tác giả đã lột tả hết thảy tinh thần phấn khơi, hăng say và khí thế ra khơi của ngư dân vùng biển:
Câu hát căng buồn với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi


Vẻ đẹp của họ chính là góp tay xây dựng đời thêm hạnh phúc ấm no. Góp sức nhỏ bé để làm một điều ý nghĩa và lớn lao, đó là niềm vinh hạnh, niềm vui.
Bên cạnh những vẻ đẹp truyền thống ấy, người Việt Nam còn được biết đến với vẻ đẹp trong tâm hồn sâu kín, đời sống nội tâm phong phú, tình cảm dào dạt bao la. Đến với “Đồng chí” của Chính Hữu, người đọc sẽ biết rõ hơn tình đồng chí đồng đội trong chiến đấu gian lao. Cùng là người bạn tâm giao trên chiến hào, họ chia sẻ ngọt bùi “đêm rét chung chăn” để trở thành “đôi tri kỉ”. Xúc động khi nghĩ về một tình bạn đẹp, tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu và giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc. Dù khó khăn cực khổ đến đâu, họ cũng đâu quản ngại bởi bên cạnh họ đã có bàn tay của người đồng đội thân thương:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Nắm lấy bàn tay để trao truyền sức mạnh, nắm lấy bàn tay để sưới ấm cả không gian núi rừng:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo


Một khung cảnh thơ mộng, nói lên cuộc sống chiến đấu gian khổ nhưng anh bộ đội vẫn yêu đời, tình đồng chí thêm keo sơn gắn bó. Nhưng kháng chiến đâu phải chỉ dành tình cảm cho người bạn tri âm tri kỉ là đủ; họ - những người chiến sĩ vẫn dành riêng cho một góc nhỏ trái tim mình, ngoài tình yêu đất nước còn là tình yêu gia đình, tình phụ tử, mẫu tử thiêng liêng. “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một câu chuyện như thế. Những tưởng chiến tranh sẽ để lại đâu đó trên cuộc đời một mái ấm hạnh phúc, nhưng không, chiến tranh là toàn bộ bi kịch. Cái khao khát của một người lính sau những năm dài vào sinh ra tử được trở lại quê hương, được gặp lại vợ con, được nghe tiếng gọi “ba” một cách không trọng vẹn. Bom đạn làm thay đổi hình hai anh Sáu, ngỡ rằn bom đạn đã cắt đứt hẳn tình yêu cha trong lòng đứa con gái ngây thơ, nhưng bất ngờ làm sao cái giây phút chia xa lại rạo rực trong lòng bé Thu một tình cha con vỡ òa, sâu nặng. Chiếc lược ngà như một vật kí thác thiêng liêng về tình phụ - tử mà bom đạn kẻ thù không thể nào tàn phá nổi. Chính vì thế mà cái lúc hấp hối, anh Sáu “đưa tay vào túi, móc cây lược”, đưa cho người bạn với ánh mắt năn nỉ cầu xin, làm giúp anh cái tâm nguyện cuối cùng là trao lại kỉ vật ấy cho đứa con gái nơi quê nhà đang mong ngóng. Chiếc lược ngà mãi sẽ là nhân chứng về nỗi đau, về bi kịch đầu máu và nước mắt đã để lại nhiều ám ảnh bi thương trong lòng bạn đọc của ngày ấy, và của cả hôm nay.
Vẻ đẹp của con người Việt Nam nơi hậu phương còn là tình bà cháu thiêng liêng ấm áp. Nhà thơ Bằng Việt đã để lại cho thi đàn văn học Việt một lời thơ đẹp với cảm xúc dào dạt nhắc lại kí ức một thời gian khổ - đói nghèo chiến tranh:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa


Bếp lửa hiện lên trong sương sơm, “nồng đượm”, mang tình thương chở che, ôm ấp, “ấp iu” của lòng bà. Nghĩ về bếp lửa, nhớ về gia đình, đứa cháu thương bà khốn kể xiết. Chiến tranh – nhiều cảnh ngộ khác nhau, người bà đã thay thế vị trí người mẹ để chăm chút, để nuôi dạy đứa cháu nhỏ:
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc…


Mỗi câu thơ như đã tô đậm thêm những phẩm chất cao quý của người bà kính yêu. Cùng với bà, hình tượng “bếp lửa” cũng đã bùng lên thành ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình thương “luôn ủ sẵn”, ngọn lửa ”dai dẳng” với niềm tin bất diệt… Mỗi vần thơ chứa đựng bao nghĩa nặng tình sâu, bà đã nhen nhóm, nuôi dưỡng trong lòng con cháu, biết bao niềm yêu thương, bao ước mơ, hoài bão… Không gian và thời gian xa cách, và dù cuộc đời có đổi thay, dù “có ngọn khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả” nhưng tình thương nhớ bà trong lòng người cháu vẫn mãnh liệt và thiết tha. Qua bài thơ, ta càng thấy rõ tình cảm gia đình là một tình cảm tha thiết của con người Việt Nam. Đó cũng chính là vẻ đẹp tâm ồn vô cùng ấp áp và thiêng liêng của dân tộc suốt chiều dài kháng chiến cứu nước và giữ nước.

Con người Việt Nam hiện lên trong các tác phẩm văn học hiện đại vừa mang vẻ đẹp truyền thống của dân tộc, vừa mang vẻ đẹp của con người mới dưới chế độ Chủ nghĩa xã hội. Các tác phẩm phác họa vẻ đẹp của con người Việt Nam bằng sự thấu hiểu sâu sắc, bằng thái độ ngợi ca và trân trọng hết mình. Qua đó cho thấy văn học hiệc đại phát huy tinh hoa bản sắc và tâm hồn dân tộc Việt, có sự kế thừa và phát huy những vẻ đẹp truyền thống của dân tộc, đồng thời góp phần bồi đắp tâm hồn, tính cách cho các thế hệ của con người Việt Nam.

Bình luận (0)
Quang Nhân
29 tháng 5 2019 lúc 22:24

- Mở bài: Mở bài đúng hướng, nêu được vấn đề cần nghị luận.

- Thân bài:

+ Vẻ đẹp của tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ: yêu nước, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc, vì cách mạng…

+ Lựa chọn, phân tích, dẫn chứng qua các tác phẩm: Làng ( Kim Lân ), Đồng chí ( Chính Hữu), Bài thơ về tiểu đội xe không kính ( Phạm Tiến Duật), Những ngôi sao xa xôi ( Lê Minh Khuê)…

+ Vẻ đẹp của tinh thần lao động hăng say, với tinh thần làm chủ…góp phần xây dựng đất nước. ( Phân tích, dẫn chứng qua các tác phẩm: Đoàn thuyền đánh cá ( Huy Cận ), Lặng lẽ Sa Pa ( Nguyễn Thành Long )…

+ Vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam trong đời sống tình cảm: lòng kính yêu đối với lãnh tụ; tình đồng chí, đồng đội; tình cảm cha-con, tình mẹcon, tình bà-cháu… ( Lựa chọn, phân tích, dẫn chứng qua các tác phẩm: Viếng lăng Bác ( Viễn Phương ), Đồng chí ( Chính Hữu), Bài thơ về tiểu đội xe không kính ( Phạm Tiến Duật) Chiếc lược ngà ( Nguyễn Quang Sáng), Con cò (Chế Lan Viên ), Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ ( Nguyễn Khoa Điềm ), Bếp lửa ( Bằng Việt ), Mùa xuân nho nhỏ ( Thanh Hải ), Ánh trăng ( Nguyễn Duy)

- Kết bài : Khẳng định nền văn học Việt Nam hiện đại đã lưu giữ, phát huy những tinh hoa và bản sắc của tâm hồn dân tộc. Góp phần bồi đắp tâm hồn, tính cách… cho các thế hệ Việt Nam ở hiện tại và tương lai.

Bình luận (0)
12 Vũ song Huy 11 Vũ Gia...
Xem chi tiết
Trần Thành Nam
Xem chi tiết
Chi Mary
Xem chi tiết
Hắc Hoàng Thiên Sữa
16 tháng 6 2021 lúc 17:11

tham khảo nhé:

Từ vẻ đẹp cổ điển trong tác phẩm văn học trung đại…

Thời trung đại, con người sống dựa nhiều vào tự nhiên, khai thác tự nhiên, vì thế thiên nhiên và con người luôn có sự tương hợp, gắn bó máu thịt. Nhìn lại những sáng tác của các tác giả văn học trung đại ta sẽ thấy bức tranh thiên nhiên được cảm nhận ra sao, đồng thời thấy được nét đẹp riêng biệt của mỗi một giai đoạn văn học cụ thể.

Thiên nhiên trong các sáng tác của thời Lý luôn là những biểu tượng để truyền tải thông điệp, triết lí hay cảm quan của Phật giáo. Nó không còn là một hình ảnh thiên nhiên đơn thuần để con người miêu tả, thưởng thức mà nó là hình ảnh để diễn tả quy luật của tự nhiên: “Xuân khứ bách hoa lạc/Xuân đáo bách hoa khai” (Cáo tật thị chúng – Mãn Giác Thiền Sư). Hình ảnh thiên nhiên trong bài kệ diễn tả quy luật của tự nhiên, cây cối biến đổi theo thời gian. Nhà thơ nói “hoa rụng” trước, “nở sau” để khẳng định kiếp luân hồi của tự nhiên, đồng thời cho thấy thái độ xót xa, cô đơn buồn đau khi con người không thể luân hồi chuyển kiếp giống như cội cây. Tuy nhiên, đằng sau cái chua xót khi thấy được kiếp sống hạn hẹp của đời người, qua các hình tượng thiên nhiên, nhà thơ mang đến sức sống mãnh liệt mà tạo hóa ban cho loài người: “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận/ Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” (Cáo tật thị chúng – Mãn Giác Thiền Sư).

“Cành mai” mang ý nghĩa biểu trưng rất lớn, hình ảnh cánh mai vàng rung rinh trước sân cho bạn đọc thấy một sức sống mãnh liệt, nó vượt lên cái quy luật sống – chết, thịnh – suy của cuộc đời để thể hiện cái tinh thần lạc quan bất biến của con người. “Cành mai” là biểu tượng của cái đẹp, nhưng đó không phải là cái đẹp của bông mai trong bức tranh tứ quý “tùng, trúc, cúc, mai” để diễn tả cái thanh cao, quý phái mà là cái đẹp của tinh thần lạc quan, mạnh mẽ, kiên định của những con người có khí phách khi đứng trước những biến đổi của đất trời, thời cuộc.

Qua những vần thơ linh hoạt, uyển chuyển của Mãn Giác Thiền Sư, ta thấy hình tượng thiên nhiên xuất hiện không chỉ là biểu tượng của thời gian, mà nó còn là cái để nhà thơ bộc lộ quan điểm, chính kiến cá nhân. Qua những hình ảnh thơ đặc sắc, mang giá trị biểu đạt cao này ta thêm hiểu con người trong thời nhà Lý – thời kỳ Phật giáo phát triển thịnh vượng, dù họ có xuất gia tu hành nhưng cũng không quay lưng với cuộc đời mà vẫn đầy bản lĩnh, ý chí tham gia công cuộc bảo vệ và xây dựng tổ quốc.

Nếu văn học thời Lý chủ yếu nổi bật với nội dung truyền tải những giáo lý của đạo Phật, thì bước sang thời kỳ nhà Lê văn học lại thuộc về dòng chảy yêu nước. Thiên nhiên trong các sáng tác thuộc giai đoạn này mang trong mình niềm tự hào về truyền thống yêu nước, ngợi ca những chiến công vang dội. Mỗi lần nhắc đến quê hương đất nước, lập tức giọng điệu hào hùng vang lên, những vần thơ như làm sống dậy những năm tháng oanh liệt, nơi thiên nhiên làm điểm tựa vững chãi để con người ra sức bảo vệ nền độc lập dân tộc. Thiên nhiên đồng hành cùng con người trong những tháng ngày gian khổ, đối diện với quân thù hung hãn để giữ từng tấc đất cho bờ cõi non sông. Cuối cùng đến ngày hòa bình chúng ta tự hào, trân trọng: “Đến Bạch Đằng thuyền bơi một chiều/ Bát ngát sóng kình muôn dặm/ Thướt tha đuôi trĩ một màu/ Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu/ Bờ lau san sát bến lách đìu hiu” (Phú sông Bạch Đằng – Trương Hán Siêu).

Với giọng ngợi ca, Trương Hán Siêu đã dựng lại hình tượng thiên nhiên kì vĩ – sông Bạch Đằng. Đây không chỉ là một thắng cảnh đẹp của quê hương và còn là dòng sông lịch sử – là nhánh sông ghi dấu ấn nhiều chiến công trong hành trình đấu tranh giữ nước của dân tộc. Nhắc đến Bạch Đằng không thể không nhắc đến chiến công vang dội của Ngô Quyền phá tan quan Nam Hán, Trần Quốc Tuấn đánh quân xâm lược Nguyên – Mông… Sông Bạch Đằng trong Bạch Đằng giang phú được Trương Hán Siêu tái hiện lại qua lời kể của các nhân vật, qua niềm tự hào của chính tác giả: “Sông Đằng một dải dài ghê/ Luồng to sóng lớn dồn về biển Đông/ Những người bất nghĩa tiêu vong/ Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh”, tác giả tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất, đạo lí nhân nghĩa của dân tộc, bên cạnh đó khẳng định chân lí của các cuộc đấu tranh bảo vệ dân tộc của nhân dân ta, đồng thời cho thấy cái kết “tiêu vong” của những kẻ “bất nghĩa”.

Không chỉ biểu hiện niềm tự hào về truyền thống chống giặc ngoại xâm, các tác giả trong giai đoạn văn học này còn thông qua thiên nhiên để miêu tả cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của con người. Đó là thiên nhiên mang vẻ đẹp gần gũi, phảng phất hương vị đồng quê. Đó là bức tranh ngày hè mang vẻ đẹp thơ mộng, hài hòa, ấm áp, tràn đầy sức sống của trong bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi: “Rồi hóng mát thuở ngày trường/ Hòe lục đùn đùn tán rợp giương/ Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ/ Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”. Bức tranh thiên nhiên được ngòi bút tài hoa của tác gia Nguyễn Trãi vẽ lên ở trạng thái động, biến hóa linh hoạt với nhiều gam màu rực rỡ. Sự vận động ở bên trong của sự vật như muốn trào ra, trỗi dậy mãnh liệt, tất cả đang ở thời điểm cực thịnh của cuộc đời mình.

Trong các tác phẩm của Nguyễn Trãi, hình tượng thiên nhiên được nhắc đến rất nhiều, xuất hiện với tần số rất lớn. Ngoài những hình ảnh thiên nhiên gần gũi với đời thường còn có một số hình tượng thiên nhiên mang màu sắc ước lệ như tùng, trúc, cúc, mai, mẫu đơn…, Bức tranh ngày hè mà Nguyễn Trãi vẽ trong Bảo kính cảnh giới số 43 cũng không ngoại lệ, thiên nhiên được nhắc tới biểu trưng cho khát vọng, quyết tâm giữ mình trong sạch . Theo văn hóa phương Đông, “cây hòe” là loài cây lộc đại diện cho sự giàu sang may mắn. Người xưa thường trồng “cây hòe” trước nhà để mong con cháu thành danh, vinh hiển. Cây “thạch lựu” tượng trưng cho đa phúc, đa tử mang lại nhiều may mắn, tốt lành. Riêng “hoa sen” là loài hoa nhân sinh thể hiện nhân cách cao đẹp của tác giả. Ba loài cây trong thơ Nguyễn Trãi là ba khát vọng đẹp của Nguyễn Trãi: khát vọng con cháu thành danh, gặp may mắn, sung túc và quyết giữ phẩm giá thanh cao.

Dẫu có gần với cuộc sống hằng ngày nhưng hình ảnh thiên nhiên ở giai đoạn này
Vậy thơ trong giai đoạn này dù vẫn mang tính chất khuôn mẫu, ước lệ và mang đậm dấu ấn của thời đại nhưng các tác giả đã linh hoạt khéo léo đưa thiên nhiên gần hơn với cuộc sống sinh hoạt của con người, tạo nên những vần thơ hay, sáng tạo và mới mẻ so với thời đại. Thiên nhiên tuy mang tính biểu tượng cao nhưng kèm theo đó là khát vọng rất đời thường của các tác giả. Có lẽ vậy mà thiên nhiên mới trở nên hài hòa, gần gũi với cuộc sống của con người.

Bước sang thế kỉ XIV đến đầu thế kỉ XVIII, tác phẩm vẫn mang nét đẹp rất đặc trưng của các giai đoạn trước đó nhưng dấu ấn thời đại lúc này lại đậm nét hơn rất nhiều. Giai đoạn lịch sử này đã có những biến động, chế độ phong kiến bắt đầu rơi vào khủng hoảng, từ đó hệ tư tưởng của các sĩ phu cũng có nhiều chuyển biến phức tạp. Xã hội phong kiến bắt đầu có dấu hiệu khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến không còn gắn lợi ích với lợi ích của nhân dân lao động. Các giá trị đạo đức vững chãi trong xã hội bắt đầu lung lay, có một số nhà nho không chấp nhận những biến cố thời cuộc đã phải cáo quan về quê ở ẩn, sống một cuộc sống thanh cao, hòa hợp với thiên nhiên vạn vật dù vẫn nặng lòng với non sông: “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” (Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm). Các tác giả chọn lối sống đắm mình trong vẻ đẹp của trời đất, mùa nào thức ấy, rất giản dị nhưng cũng rất thanh cao để xa rời dần chốn nhiễu nhương.

Về ở ẩn với thiên nhiên, nhà thơ tận hưởng lộc của thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, hấp thụ tinh khí của trời đất để gột bỏ những lo toan vướng bận riêng tư. Cuộc sống về với thiên nhiên của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và các nhà thơ ở giai đoạn này tiêu biểu cho quan niệm “độc thiện kỳ thân” của các nhà nho, có nét gần với triết lí “vô vi” của đạo Lão, “thoát tục” của Phật giáo. Bỏ qua những triết lí sâu xa, ta nhận ra thiên nhiên trong giai đoạn này phần nào gỡ bỏ được mực thước, khuôn mẫu mà có phần gần gũi. Những hình ảnh nhỏ bé, thân quen như: măng trúc, hồ sen, giá… rất quen thuộc với đời sống nhân dân, và vô cùng gắn kết với phẩm giá thanh cao của các nhà nho.

Các nhà thơ ở giai đoạn này yêu thiên nhiên bằng cả tấm lòng, họ nâng niu, trân trọng từng cái cây ngọn cỏ, họ thể hiện tình cảm ấm áp, trong trẻo, đồng thời cũng thể hiện sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên, hòa chung vào nhau thân tình giống như tri âm, tri kỉ cùng trao đổi để bộc lộ nhân sinh quan: “Rượu đến cội cây ta sẽ uống/ Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao” (Nhàn– Nguyễn Bỉnh Khiêm).

Đến nửa cuối TK XVIII nửa đầu TK XIX, giai đoạn này xuất hiện các nhà thơ xuất chúng, có nét cá tính rất riêng, đồng thời đây cũng là giai đoạn có những tác phẩm kiệt xuất của văn học Việt Nam nói chung, nền văn học trung đại nói riêng. Hình ảnh thiên nhiên trong các tác phẩm thuộc giai đoạn này không đơn thuần là ca ngợi đất nước mà nó là nơi bộc lộ nỗi niềm riêng, hay nói nên nỗi thống khổ của những con người sống dưới đáy của xã hội. Ta bắt gặp rất nhiều hình ảnh thiên nhiên trong thơ của Đặng Trần Côn, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du… tất cả những vần thơ ấy để truyền tải một thông điệp rất nhân văn, mang giá trị nhân đạo lớn.

Thiên nhiên trong tác phẩm Chinh Phụ ngâm của Đặng Trần Côn do Đoàn Thị Điểm diễn nôm là một hình ảnh mang giá trị nghệ thuật cao. Bức tranh thiên nhiên hiện lên gắn với tâm trạng của người chinh phụ, nó là nơi người chinh phụ trút bầu tâm sự. Vì thế thiên nhiên cũng mang tâm trạng u sầu: “Gà eo óc gáy sương năm trống/ Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên/ Khắc giờ đằng đẵng như niên/ Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”. Thiên nhiên xuất hiện nhưng ở đây chỉ là “phất phơ rủ bóng” chứ không phải là thiên nhiên đầy sinh khí như hình ảnh “tán rợp giương” trong bức tranh mùa hè của nhà thơ Nguyễn Trãi, nó đã bị tâm trạng u uất của người chinh phụ phủ nên, thiên nhiêm giờ đây cũng như một sinh thể có hồn, biết buồn, vui, oán trách, lo lắng, sầu thẳm, cô đơn bởi “cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du).

Bên cạnh hình ảnh thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng, ta phát hiện hầu hết bức tranh thiên nhiên vẫn mang tính chất ước lệ tượng trưng: “Ngoài rèm thước chẳng mách tin/ trong rèm dường đã có đèn biết chăng”. Hình ảnh “chim thước” là hình ảnh được sử dụng quen thuộc trong thơ ca cổ, nó là loài chim đại diện cho điềm lạnh, báo hiệu nhà có khách, người ở xa về. Tuy nhiên tiếng “chim thước”kia chỉ là mơ ước của người chinh phụ mà thôi. Hay hình ảnh núi non cũng chỉ mang tính chất ước lệ, nếu tác giả có sử dụng thì nó cũng chỉ là hình ảnh tượng trưng, nó gắng liền với một tích cũ xa xưa: Lòng này gửi gió đông có tiện/ Nghìn vàng xin gửi đến non Yên”.“Non Yên” ở đây là núi Yên Nhiên, núi này găn với tích Hậu Hiến đời Hậu Hán đuổi giắc đến núi Bắc Thiền Vu đến núi Yên Nhiên khắc đá ghi công ở đó rồi trở về. Ở đây ta có thể hiểu “non Yên” là chiến trường xa xôi đầy khó khăn, nguy hiểm.

Nếu thiên nhiên trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm mang đậm tính hoài cổ, ước lệ tượng trưng, đồng thời nhuốm màu tâm trạng của nhân vật trữ tình thì thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương mang đậm dấu ấn cá nhân: “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi/ Này của Xuân Hương đã quệt rồi” (Mời trầu). Trong thơ bà, hình ảnh thiên nhiên rất thật gắn liền với cuộc sống thường ngày, nó thể hiện một cá tính mạnh mẽ, ngạo nghễ của người phụ nữ không theo khuôn phép trong xã hội phong kiến.

Trong tác phẩm Tự tình II thuộc chương trình trung học phổ thông, cũng cho bạn đọc thấy được hình ảnh thiên nhiên đẹp, nhưng vẻ đẹp đó là vẻ đẹp của nỗi sầu lẻ bóng: “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh/ Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”. Tâm trạng của nữ thi sĩ hòa trong cảnh trăng, nhưng là trăng “khuyết chưa tròn”, tuổi xuân của người con gái sắp qua đi nhưng tình duyên vẫn chưa vẹn tròn.

Tiếp tục hướng đến ngoại cảnh, đặc biệt là thiên nhiên, bởi nơi đây là nơi con người sống thật nhất với lòng mình: “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám/ Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”, hình ảnh thiên nhiên được Xuân Hương lựa chọn miêu tả không phải là những hình ảnh cao quý, thanh cao mà lại là những sự vật nhỏ bé, yếu đuổi, mỏng manh: “rêu”, “đá”. Tuy là những sự vật yếu mềm nhưng nó không chấp nhận sự thấp bé, vươn lên bằng mọi cách, vượt qua mọi rào cản để chứng tỏ mình. Cách Xuân Hương miêu tả sức sống tiềm tàng mãnh liệt của những vật nhỏ bé khiến ta liên tưởng đến một nàng Xuân Hương dám mang tấm thân mỏng manh của mình ra chống trọi với toàn bộ lễ giáo phong kiến đương thời.

Qua những vần thơ của Xuân Hương ta nhận ra càng về sau, những vần thơ viết về thiên nhiên càng mới mẻ, nó dần mất đi tính chất ước lệ tượng trưng của văn học trung đại mà thay vào đó là một hình ảnh thiên nhiên bình dị, gần gũi hơn với cuộc sống của con người.

Nhắc đến thiên nhiên dung dị, ấm áp, gần gũi, quen thuộc ta không thể không nhắc đến Nguyễn Khuyến – nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Văn chương trong thơ ông gần như xóa đi sự mực thước, thay vào đó là hình tượng thơ gợi cảm, hiền hậu và đậm đà bản sắc Việt: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo/ Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” (Câu cá mùa thu – Nguyễn Khuyến). Những vần thơ vang ra, vẽ một bức tranh vè mùa thu của Bắc Bộ, người thi sĩ dường như đắm mình trong cảnh vật, lặng lẽ, mơ màng thưởng thức vẻ đẹp bao la của bầu trời, áng mây nhè nhẹ trôi: “Tầng mây lơ lửng trời xanh mát/ Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” (Câu cá mùa thu – Nguyễn Khuyến). Cảnh đẹp trong thơ Nguyễn Khuyến êm đềm tĩnh lặng nhưng cũng có chút gì đó man mác buồn.

Như vậy, thông qua những tác phẩm thuộc chương trình phổ thông, chúng ta phần nào có cái nhìn khái quát về hình tượng hiên nhiên trong văn học trung đại. Tuy cùng là vẻ đẹp mực thước, khuôn mẫu nhưng ở mỗi giai đoạn, mỗi nhà thơ hình tượng thiên nhiên lại mang một dấu ấn riêng biệt. Có lẽ vậy, hình tượng thiên nhiên luôn là đề tài vô tận của các nhà thơ trong mọi thời đại, vẻ đẹp thiên nhiên ấy được các nhà văn hiện đại vẽ một tài hoa trong các sáng tác của mình.

… đến vẻ đẹp nhiều sắc màu trong tác phẩm văn học hiện đại

Bước sang đầu thế kỉ XX việc miêu tả thiên nhiên không còn những hình ảnh ước lệ tượng trưng, miêu tả cảnh vật theo quy ước mà thiên nhiên được các tác giả dựa vào hiện thực đời sống thật để miêu tả.Ở phong trào thơ Mới, đã có những thay đổi rất cơ bản trong việc miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên được miêu tả rất chân thật, đó có thể là bức tranh thôn Vĩ với không gian đẹp, ngập tràn trong nắng sớm, có hàng cau, có khóm trúc, có cả vườn cây trái “xanh như ngọc” và còn có người con gái yêu kiều nào đó: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?/ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên/ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc/ Lá trúc che ngang mặt chữ điền” (Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử). Đây là bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, là nơi tác giả yêu thương tha thiết, là sự yêu mến của thi nhân với cuộc sống, với mảnh đất kinh kì hằn in cả một thời hoa mộng.

Đâu đó là bắt gặp bức tranh thiên nhiên căng tràn nhựa sống: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật/Này đây hoa của đồng nội xanh rì/ Này đây lá của cành tơ phơ phất/ Của yến anh này đây khúc tình si/ Và này đây ánh sáng chớp hàng mi/ Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa/ Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” (Vội vàng – Xuân Diệu). Tác giả Xuân Diệu tỉ mỉ, cảm nhận bằng nhiều giác quan để cảm nhận bức tranh non tơ, tươi mới và đầy sức sống. Những vần thơ về thiên nhiên của Xuân Diệu rất mới, rất lạ, khác hẳn với lối miêu tả cũ trước kia.

Nếu đọc thơ Thế Lữ ta bị cuốn theo hình ảnh suối đào, hạc trắng, kim đồng, ngọc nữ, chốn bồng lai… thì đến với Xuân Diệu ông đã “đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới” (Hoài Thanh – Hoài Chân, 1988). Đúng vậy, cảnh bồng lai của tiên giới được ngòi bút tài năng của Xuân Diệu đưa về trần gian, phải có một tình yêu mãnh liệt với mới có thể thốt lên “tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Tác giả yêu mến, thiết tha với cuộc sống, tâm hồn nhà thơ luôn mở rộng giao cảm với đời với mọi người, thiên nhiên chính là phương tiện để nhà thơ bày tỏ quan điểm, tình cảm của mình.

Cảnh vật nông thôn cũng được miêu tả rất đẹp trong thơ của Nguyễn Bính, Anh Thơ. Giữa những cách tân mạnh mẽ của thơ Mới từ nội dung đến hình thức, giữa những xô bồ hỗn tạp của văn hóa Đông – Tây, người ta vẫn hướng đến một không gian mang bản sắc của người Việt trong thơ Nguyễn Bính: “Nhà em có một giàn trầu/ Nhà anh có một hàng cau liên phòng” (Tương tư – Nguyễn Bính). Chính những vần thơ về cảnh vật nông thôn của Nguyễn Bính minh chứng cho chúng ta một điều: con đường mang tính bền vững và sâu sắc nhất là biết thừa kế những giá trị truyền thống của cha ông tự ngàn xưa.

Riêng trong thơ của nữ thi sĩ Anh Thơ, ta bắt gặp những hình ảnh về miền quê quen thuộc, thơ bà luôn đầy ắp những sự vật. Chỉ riêng bài Chiều xuân, với 12 câu thơ là 11 hình ảnh thiên nhiên và 1 hình ảnh con người: “Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng/ Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi/ Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng/ Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời/ Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ/ Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ/ Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió/ Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa/ Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặn/ Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra/ Làm giật mình một cô nàng yếm thắm/ Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa” (Chiều xuân – Anh Thơ). Bức tranh thiên nhiên hữu tình mà Anh Thơ tạo ra được liệt kê, nối tiếp nhau. Toàn bộ tác phẩm là sự liên ứng hài hòa giữa ba mảng không gian: mặt đất, bầu trời và dòng sông. Cách xử lí không gian của nữ thi sĩ Anh Thơ cho lạ đi bằng cách đặt thêm các hình ảnh không gian khác vào không gian đó. Chính sự kết hợp này tạo nên sự mới mẻ, tạo được lực hấp dẫn cho cảnh vật cũ.

Thiên nhiên trong thơ Mới là sản phẩm của trí tưởng tượng, thấm tâm trạng của tác giả. Chỉ riêng với hình ảnh vầng trăng, ánh trăng trong thơ Hàn Mặc Tử cũng khiến bạn đọc thấy cảm xúc trào dâng. Hình ảnh ánh trăng được miêu tả rất gợi cảm, từ ánh trăng xanh trong vườn khuya của tình yêu đôi lứa, đến một không gian huyền ảo ngập tràn ánh trăng: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay” (Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử). Qua những vần thơ huyền ảo, Hàn Mặc Tử đưa bạn đọc cập vào một bến mộng ảo chứng kiến thuyền trăng lướt đi vào miền lo âu, mơ hồ vừa được đánh thức.

Hình ảnh thiên nhiên trong thơ Mới được các nhà thơ khắc họa một cách tinh tế. Mỗi một cảnh vật đều là tâm huyết của các nhà thơ, nó là lòng yêu quê hương, đất nước thầm kín, thiết tha và tinh thần dân tộc sâu sắc. Mỗi hình ảnh thiên nhiên là một nét đẹp của quê hương bình dị, nồng hậu và quen thuộc.

Nếu trong thơ Mới đem đến cảm hứng lãng mạn thoát li thì thơ cách mạng hướng đến lãng mạn cách mạng. Xuất phát từ đặc điểm tính cách phẩm chất người Việt luôn lạc quan, tin tưởng dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cùng với tâm hồn thơ mộng giàu cảm xúc “Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”, “Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc/ Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn” đã tạo nên sự lãng mạn trong đời sống tinh thần của người Việt.

Giai đoạn lịch sử 1945 – 1975 có thể coi là giai đoạn khốc liệt, máu lửa, đau thương của dân tộc Việt Nam. Con người trong hoàn cảnh này tuy đứng ở hiện tại đầy gian khổ nhưng tâm hồn luôn hướng đến tương lai. Vì thế, những vần thơ trong giai đoạn thường thể hiện tinh thần lạc quan, tin tưởng nên bức tranh thiên nhiên của các tác giả giai đoạn này cũng được nhìn một cách lãng mạn hóa. Đó cũng là biểu hiện của đặc điểm văn học giai đoạn này: Mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bởi giai đoạn văn học này gắn liền với hai cuộc kháng chiến với những chiến công lẫy lừng của dân tộc ta nên cảm hứng lãng mạn khác với văn học giai đoạn trước đó, là cái tôi tràn đầy cảm xúc hướng tới lí tưởng cách mạng, là ước mơ khát vọng về tương lai tươi sáng của dân tộc. Thiên nhiên trong thơ giai đoạn này gắn liền với cuộc hành quân gian khổ của các chiến sĩ, vừa là cảnh đẹp hút hồn người chiến sĩ, vừa là kẻ thù nguy hiểm đe dọa đến tính mạng con người: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây, súng ngửi trời/ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống/ Nhà ai Pha Luông mưa xã khơi” (Tây Tiến – Quang Dũng). Những nét vẽ gân guốc, khỏe khoắn, cách phối hợp thanh bằng trắc đầy sáng tạo đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên kì vĩ, lớn lao mà cũng đầy nguy hiểm, khẳng định được tầm vóc ngang tầm đất trời, vũ trụ của người lính Tây Tiến. Thiên nhiên hùng vĩ cũng là con đường gian khổ mà người lính phải vượt qua trên bước đường hành quân.

Bên cạnh đó ta cũng bắt gặp những nét vẽ thơ mộng, hiền hòa, đậm chất lãng mạn của núi rừng sông nước Tây Bắc. Đó là hình ảnh thấp thoáng bóng nhà, bóng người, bóng “ai” sau màn “mưa xa khơi” (“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”). Hoặc hình ảnh ấn tượng và giàu chất “lính” “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” khi đoàn quân Tây Tiến hành quân trong đêm. Và tâm hồn người lính, những người hầu hết xuất thân từ lớp thanh niên trai trẻ của Hà Thành có lúc lại xao xuyến trước vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc hoa mộng: “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy/ Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ/ Có nhớ dáng người trên độc mộc/Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

Thiên nhiên trong văn học kháng chiến còn “phát huy sức mạnh, truyền thống” theo dòng lịch sử, sát cánh với con người khi đánh đuổi kẻ thù: “Nhớ khi giặc đến giặc lùng/ Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây / Núi giăng thành luỹ sắt dày/ Rừng che bộ đội rừng vây quân thù. Nếu dòng Bạch Đằng năm xưa trong Bạch Đằng giang phú (Trương Hán Siêu) là thế trận để bao lần ta thắng địch, trong cuộc kháng chiến chống Pháp hào hùng, núi rừng là điểm tựa vững chắc để quân và dân ta đánh giặc, là nơi chở che, bao bọc khiến kẻ thù phải khiếp sợ. Thiên nhiên đồng sức đồng lòng cùng con người để đánh tan giặc ngoại xâm.

Không chỉ sát cánh với con người trong những cuộc hành quân gian khổ, thiên nhiên còn cùng con người lao động sản xuất trong những ngày kháng chiến gian lao: “Ta về mình có nhớ ta/ Ta về, ta nhớ những hoa cùng người/ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng/ Ngày xuân mơ nở trắng rừng/ Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang/ Ve kêu rừng phách đổ vàng/ Nhớ cô em gái hái măng một mình/ Rừng thu trăng rọi hoà bình/ Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung” (Việt Bắc – Tố Hữu), cùng đau đớn xót xa khi quê hương bị giày xéo: “Ôi những cánh đồng quê chảy máu/ Dây thép gai đâm nát trời chiều” (Đất nước – Nguyễn Đình Thi), căm hờn khi nhân dân lầm than: “từ gốc lúa bờ tre hồn hậu/ Đã bật lên những tiếng căm hờn”.

Rồi thiên nhiên lại hòa với niềm vui chiến thắng, độc lập của dân tộc: “Tin vui chiến thắng trăm miền/ Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về/ Vui từ Đồng Tháp, An Khê/ Vui lên Việt Bắc đèo De, núi Hồng” (Việt Bắc – Tố Hữu), hân hoan khi ta được làm chủ: “Trời xanh đây là của chúng ta/ Núi rừng đây là của chúng ta/ Những cánh đồng thơm ngát/ những ngả đường bát ngát/ Những dòng song đỏ nặng phù xa” (Đất nước – Nguyễn Đình Thi). Thiên nhiên trong giai đoạn này là sự lấp lánh giao thoa của nguồn cảm hứng hiện thực và lãng mạn, lãng mạn và bi tráng, nó là những vần thơ gieo vào lòng bạn đọc một sự tin tưởng cần thiết trong một hoàn cảnh nghiệt ngã.

Đến với những vần thơ Xuân Quỳnh, ta nhận thấy tác giả dựa vào hình ảnh thiên nhiên để nói lên nỗi lòng của người phụ nữ trong tình yêu, đó là cảm giác băn khoăn, loay hoay lí giải tình yêu: “Sóng bắt đầu từ gió/ gió bắt đầu từ đâu/ Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”, đôi lúc lại bày tỏ những cung bậc cảm xúc khác nhau trong tình yêu: “Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ”, như nỗi nhớ luôn thường trực: “Con sóng dưới lòng sâu/ Con sóng trên mặt nước/ Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được” (Sóng – Xuân Quỳnh). Cái kết của bài thơ thật đẹp, là hình ảnh con sóng – hiện thân của “em”, muốn được tan ra, hòa nhập giữa đại dương muôn trùng: “Làm sao được tan ra/ Thành trăm con sóng nhỏ/ Giữa biển lớn tình yêu/ Để ngàn năm còn vỗ”. Đặt bài thơ trong hoàn cảnh sáng tác là những năm tháng ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi những lớp người con gái con trai “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” mới thấy được nỗi khát khao cháy bỏng về tình yêu. “Em” hòa trong hình tượng “sóng”, mong ước hòa chung cái “tôi” trong cái “ta” chung của dân tộc, cá nhân với cộng đồng để tình yêu mãi trường tồn vĩnh cửu.

Có thể nói hình tượng thiên nhiên xuất hiện trong thơ ca kháng chiến đã thoát khỏi những điển cố, thoát khỏi những ước lệ mang tính khuôn sáo. Hình tượng thiên nhiên trong giai đoạn này mang hơi thở của cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chưa lúc nào ta cảm thấy thiên nhiên kì vĩ, lớn lao mà cũng rất đỗi gần gũi, thân thương như trong giai đoạn này.

Song song với cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhân dân miền Bắc còn tiến lên xây dựng một cuộc sống mới, con người mới. Họ sẵn sàng theo lời vẫy gọi của tổ quốc yêu thương để đến những vùng đất khác, để tiếp tục lao động, chiến đấu. Nguyễn Tuân, người nghệ sĩ tài hoa đã bắt gặp chân lí đó để đến với vùng Tây Bắc yêu thương, với con sông Đà dữ dội, hung bạo và cũng thơ mộng, trữ tình. Con sông là biểu tượng cho sức mạnh thiên nhiên mà con người cần phải chinh phục. Vì lẽ đó, thiên nhiên vừa là người bạn ân tình, là kẻ thù ngang sức, để từ đó nhà văn Nguyễn Tuân ca ngợi “chất vàng mười” Tây Bắc: Là bản lĩnh, ý chí, khát vọng chinh phục thiên nhiên của con người – những người lái đò tài hoa.

Chiến tranh đã đi qua, sau niềm vui chiến thắng con người lại trở về với cuộc sống đời thường, phải đối diện với khó khăn gian khổ, thiếu thốn về vật chất, bộn bề với những ngang trái bất công của cuộc sống hằng ngày. Sau năm 1975, người ta từ giã cái tháp vinh quang trở về với cái dung dị vốn có. Từ chỗ thiên về cái cao cả, phi thường, kì vĩ, đất nước, dân tộc, giờ đây nghệ thuật trở về với cuộc sống, với đời tư của mỗi cá nhân trong xã hội. Điểm tựa của giai đoạn này không còn là biến cố lịch sử mà là những chuyện hằng ngày, những quan hệ nhân sinh muôn thuở.

Với cảm hứng đời tư, thế sự sau năm 1975, thiên nhiên trong các tác phẩm này cũng gắn với cảm xúc cá nhân, thấm chất thế sự. Sau những năm tháng chiến tranh, con người dùng hết tình yêu cho quê hương đất nước, đến hôm nay họ về sống với bản ngã của mình, trải lòng để rồi khát khao mãnh liệt tới hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc đời thường.

Đến với những sáng tác của tác giả Nguyễn Minh Châu, nhà văn dù trước hay sau mốc thời gian lịch sử 1975 đều bỏ công kiếm tìm những “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người, ta nhận thấy thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Thiên nhiên trong sáng tác của ông đôi lúc chỉ là bức nền cho những số phận nhỏ bé bất hạnh, tất cả ẩn nấp sau cái vẻ đẹp tuyệt mĩ của tạo hóa. Đằng sau bức tranh “đắt giá”, “trời cho”, “bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ”, bức tranh với “mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào” trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa là một câu chuyện nhức nhối của một gia đình làng chài, cảnh tượng đánh đập dã man của người đàn ông đối với vợ mình khiến bất cứ ai cũng phải giật mình. Bức tranh thiên nhiên thứ nhất là buổi bình minh trên biển, khi con thuyền ẩn hiện trong màn sương sớm trên biển bao la, khiến người nghệ sĩ thăng hoa trước cái đẹp của ngoại cảnh. Nhưng khi con thuyền cập vào bờ, đằng sau cảnh đẹp ảo huyền đó là cả một nỗi bất hạnh của những con người khốn khó bởi cuộc sống sau chiến tranh.

Thiên nhiên bao giờ cũng đẹp, bức tranh thiên nhiên luôn gắn liền với tâm hồn của người nghệ sĩ. Thiên nhiên là đối tượng của văn học nghệ thuật, để nhà văn gửi gắm tâm tư, tình cảm, quan điểm của mình. Từ ngàn xưa đến nay, thiên nhiên đến với thơ ca như một người bạn của thi sĩ, dẫu nó có mang nét đẹp của thời đại, mang dấu ấn riêng của tác giả thì thiên nhiên vẫn hồn nhiên, trong sáng, giản dị như nó vốn có. Thiên nhiên có đẹp thì thơ mới sáng, cảnh có tình thì vần thơ mới thực, điều này đã được các nhà thơ từ xưa đến nay chứng minh qua vô vàn những thi phẩm, nên hình tượng thiên nhiên trong văn học luôn mang một vẻ đẹp ước lệ, thuần khiết, thanh cao trong văn học trung đại, đồng thời mang vẻ đẹp tươi mới, kì vĩ mà cũng rất đời thường trong văn học hiện đại.

Bình luận (1)