Những câu hỏi liên quan
Huỳnh Tài
Xem chi tiết
Phạm Thành Hưng
Xem chi tiết
Lê Mạnh Châu
Xem chi tiết
Nguyễn Trung Đông Nguyên
Xem chi tiết
ngô cao hoàng
Xem chi tiết
Lk Ng
Xem chi tiết
Võ mai phương thảo
Xem chi tiết
minh nguyet
12 tháng 6 2021 lúc 19:49

Tham khảo nha em:

Nhà trường có vai trò vô cùng quan trọng đối với thế hệ trẻ. Có thể thấy, nhà trường chính là môi trường xã hội thu nhỏ đầu tiên mà tất cả chúng ta được tiếp xúc. Trường học không chỉ cho chúng ta kiến thức về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội mà còn góp phần hình thành những phẩm chất đạo đức cùng các mối quan hệ của con người. Những năm tháng cắp sách đến trường, môi trường học tập là cả thế giới với tất cả chúng ta, nên nếu như có bất kì thương tổn nào xảy đến thì sẽ để lại trong ta ám ảnh khôn nguôi. Từ nơi đây, con trẻ dần hình thành cho mình ước mơ, hoài bão, nuôi dưỡng và bồi đắp bao niềm khát khao cũng như cho ta hiểu về cuộc sống xã hội trong những mối quan hệ thu nhỏ. Không phải ngẫu nhiên mà giáo dục là quốc sách hàng đầu và nhà trường luôn là điều thiêng liêng. Mỗi chúng ta, thế hệ trẻ sẽ góp phần vào sự thiêng liêng ấy và tạo nên hành trang cuộc đời vững chãi.

Bình luận (0)
Đỗ Ngọc Diệp
Xem chi tiết
Bích Ngọc Huỳnh
29 tháng 1 2018 lúc 17:05

Dàn ý

1. Giải thích nội dung ca từ:
+Cuộc sống là sự đan xen giữa những niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ. Con người cần phải biết chọn lựa thái độ sống và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình.
+Sự lựa chọn niềm vui là một phương châm sống. Niềm vui có thể đơn giản chỉ là việc ngắm nhìn một bông hoa đẹp, đón nhận nụ cười của người khác…Đó là niềm vui bình dị trước cuộc đời mà chỉ những tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, những tấm lòng nhân hậu, bao dung mới có thể cảm nhận được.

2. Suy nghĩ về niềm vui trong cuộc sống

+Niềm vui là những điều mang lại cảm xúc vui vẻ, hạnh phúc, hân hoan, sung sướng cho con người trong cuộc sống.
+Niềm vui không hẳn là những điều to tát, lớn lao mà có thể chỉ là những điều nhỏ bé, giản dị, quen thuộc.
+Biết trân trọng những hạnh phúc bé nhỏ, trọn vẹn với niềm vui giản dị là chúng ta đã biết sống một cách ý nghĩa. Đó là bài học sâu sắc và thấm thía về cách sống cho mỗi người.

3. Liên hệ bản thân
- Cần biết phát hiện, trân trọng, những niềm vui giản dị, đời thường trong cuộc sống, đó là cơ sở cho những niềm hạnh phúc lớn lao.
- Phải luôn học tập, rèn luyện để hoàn thiện bản thân, có thái độ sống tích cực

Bình luận (1)
Bích Ngọc Huỳnh
29 tháng 1 2018 lúc 17:05

Cuộc sống đã cho em bao ước mơ màu hồng, cho em bao khát vọng và tình yêu mênh mông… Lời hát ấy cứ ngân vang mãi khiến cho tôi bao lần phải đặt ra câu hỏi “Cuộc sống là gì vậy nhỉ? Cuộc sống tươi đẹp và phong phú đến dường nào?…”. Phải chăng cuộc sống là một cuốn sách thần kì mà mỗi ngày là một trang sách mới?

Bạn ơi! Hàng ngày chúng ta tiếp xúc với thế giới muôn loài và qua đó chúng ta hiểu thêm về ý nghĩa cuộc sống. Trái đất đang quay, nước sông đang chảy, con người đang làm việc… đó là cuộc sống. Mỗi vật xung quanh chúng ta luôn có cuộc sống để tồn tại, sinh sôi và phát triển. Chúng được sinh ra rồi lại chết đi. Con người chúng ta cũng vậy, từ thuở lọt lòng – nhìn thấy mặt trời đến khi tạm biệt với thế giới đang sống là cả một chuỗi thời gian dài. Trong quá trình đó, có khi là khổ đau tận cùng, có khi là hạnh phúc vô bờ. Cái cảm giác đi vào giấc ngủ dài và không bao giờ tỉnh lại có thể làm con người ta hoảng hốt vì phải xa lìa với cuộc sống muôn vàn điều kì diệu đang và sẽ diễn ra. Nhiều lúc suy nghĩ vẩn vơ, tôi bỗng giật mình thót tim rằng “Rồi sẽ có ngày mình như thế*. Quy luật của tự nhiên và cuộc đời không ai có thể tránh khỏi. Thế nhưng để can đảm vượt qua cái “chết” thì mỗi người, ngay bây giờ hãy tự tạo ra cuộc sống có ý nghĩa để tạm thời lãng quên cái chết, để phấn đấu cho cuộc sống hôm nay. Chẳng phải N.A.Ostrovsky trong Thép đã tôi thế đấy đã từng nói: “Cái quý giá nhất của con người là cuộc sống, đời người lạ chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí…”

Cuộc sống là một vòng quay kì diệu. Trong vòng quay ấy nó đem đến cho con người bao điều bổ ích, lí thú, bao nhiêu bài học, những kiến thức quý giá. Vì sao có nắng? Vì sao có mưa? Vì sao có gió thổi?… Bạn sẽ biết tất cả những điều đó khi tìm hiểu cuộc sống của chúng ta. Cuộc sống sẽ giúp ta hiểu sâu hơn về thế giới bên ngoài, qua đó mở rộng tầm hiểu biết, có cái nhìn và cách đánh giá đúng đắn hơn về mọi vật. Cuộc sống luôn kích thích tính tò mò, tìm tòi, học hỏi cho mọi người. Để có được nhiều hiểu biết về cuộc sống, chắc chắn bạn cũng phải yêu cuộc sống nhiều lắm đó!

Cuộc sống còn làm phong phú cho tâm hồn của con người. Không có tâm hồn đẹp thì con người cũng sẽ chỉ là những vật vô tri vô giác, không có tình cảm, tâm tình. Nhiều lúc tôi để ý, chỉ là chuyện một chiếc lá rơi, một con chim bé nhỏ bị chết cũng khiến trái tim con người phải rung động, xót thương. Cuộc sống là vậy, nó tạo cho ta tình yêu muôn vật, muôn loài. Không có cuộc sống, sao con người biết yêu, biết ghét và còn nhiều trạng thái tâm lí khác nữa. Cuộc sống cho tôi biết yêu ông bà, bố mẹ, thầy cô, bạn bè… Thật hạnh phúc biết bao khi cuộc sống đã đem đến cho tôi những người thân thương và những người bạn tri âm tri kỉ để chia sẻ niềm vui nỗi buồn với tôi.

Ồ ! Cuộc sống của tôi đang vui lắm các bạn ạ! Tôi đang sống trong tuổi học trò, một thế giới vui vẻ, đầy những ước mơ đẹp đẽ. Đó là phép màu mà cuộc sống ban tặng cho tôi. Tuy nhiên không có thứ gì là hoàn hảo cả, đôi khi tôi đã thất vọng về cuộc sống. Tôi cũng buồn nhiều lắm, có những nỗi buồn khiến tôi phải bật khóc nức nở. Nhưng có sao đâu, tôi luôn nghĩ rằng nhờ có cuộc sống mà tôi khôn lớn và trưởng thành lên.

Cuộc sống mến thương ơi! Bạn là gì mà chúng tôi luôn hướng tới, suy nghĩ và chờ đợi bạn? Cuộc sống đúng là một kho báu vô giá và tuyệt đẹp. Vì vậy chúng ta phải sống làm sao cho thật tốt và ý nghĩa để không lãng phí một quà tặng tuyệt vời mà Thượng đế đã ban cho chúng ta.

Bình luận (2)
Bích Ngọc Huỳnh
29 tháng 1 2018 lúc 17:06

Đâu phải Tết đến mới vui, Xuân về mới đẹp. Niềm vui và cái đẹp luôn giàn trải trong vũ trụ vạn vật, được Thiên Chúa phú bẩm cho đời sống con người mọi nơi mọi lúc. Tuy nhiên, phải có tâm hồn đơn sơ, trong sáng, ta mới cảm nhận thâm sâu về tất cả mọi niềm vui và cái đẹp trong đời sống hằng ngày. Vì “kho trời chung mà vô tận của mình riêng”.

Thiên Chúa sáng tạo và cứu độ là để thông chia cho con người niềm vui và hạnh phúc của Người. Chính vì vậy mà Thánh Phaolô đã kêu gọi: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!”(Pl 4, 4). Thánh Phêrô cũng đã nói: “Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em”(1Pr 5, 7).

I. Ý NGHĨA

“Vui” là một trạng thái tình cảm mà trong đó con người đạt được sự hài lòng, mãn nguyện. Niềm vui làm cho cuộc sống ta phấn khởi, gia tăng nghị lực và thêm sức sáng tạo, khiến ta mở rộng trái tim để yêu thương, đón nhận và chia sẻ.

1. Niềm vui

Trong tiếng Việt, chữ “niềm” trong cụm từ “niềm vui” được dùng để nhấn mạnh trạng thái tình cảm này là một trạng thái của nội tâm hơn là trạng thái của ngoại cảnh. Trên thực tế, không bao giờ tồn tại những cảnh vật vui tươi đối với một người đang buồn, mà cũng không có chuyện gì thật sự đáng buồn đối với một người đang vui: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Quả thật, niềm vui đến từ bên trong. Niềm vui là trạng thái tinh thần của hạnh phúc, trong niềm vui con người sẽ bắt đầu hiểu được giá trị bên trong của mình và đặt mình vào trong vạn vật, trong mọi tương quan và liên đới với mọi người. Thừa nhận niềm vui là một quyết định “thuận theo dòng chảy”, là sự biết ơn đối với cuộc sống, với tất cả những thách thức và cơ hội mà cuộc sống mang lại, hơn là đặt ra các điều kiện để được hạnh phúc.

Từ đó nhìn vào thực tế cuộc sống, ta có những phân biệt: niềm vui nhất thời và niềm vui bền vững; niềm vui đúng đạo lý và niềm vui trái đạo lý. Ngoài ra còn có một niềm vui thượng thặng, siêu việt, là niềm vui đời Kitô hữu.

2. Niềm vui nhất thời

Niềm vui nhất thời là niềm vui phụ thuộc vào những điều kiện bên ngoài. Ta vui khi mua được một món hàng giá rẻ, nhưng nếu sau đó lại phát hiện ra là hàng dỏm, niềm vui ấy sẽ tan nhanh như bọt nước. Thay vào đó sẽ là sự giận dữ, tức tối. Cũng vậy, ta vui khi gặp người bạn ban đầu rất dễ thương, nhưng dần dần thấy thương không dễ, tính khí bất thường, nên phải thay thế bằng nỗi buồn ly biệt. Ta vui khi thấy mình giỏi hơn người này, nhưng lại buồn khi thấy dở hơn người kia…

Khi những điều kiện thỏa mãn không còn nữa, thì niềm vui của ta sẽ nhanh chóng biến tan. Mà thực tế trong đời này không bao giờ có được những điều kiện bền vững, không thay đổi. Tất cả đều liên tục xoay chuyển và không trường tồn, nên hầu hết những niềm vui của chúng ta có được trong cuộc sống đều mong manh, tạm bợ. Vì những tâm trạng buồn vui dựa trên các điều kiện, nên có bao nhiêu niềm vui thì cũng có bấy nhiêu nỗi buồn chực sẵn, chẳng bao giờ có được niềm vui thực sự. Niềm vui đích thực là niềm vui không bị điều kiện hóa, không nằm trong sự ham muốn chiếm hữu hay những toan tính nắm bắt thời cơ. Cũng vậy, niềm vui không nằm trong sự chiến thắng người khác bằng sức mạnh hay khả năng của mình. Niềm vui đó không mấy chốc sẽ biến thành nỗi buồn, vì vẫn nằm trong vòng tranh chấp hơn thua, thành bại. Chỉ có niềm vui thật sự khi chiến thắng chính mình, khi xa lìa được những tật xấu, khi thoát ly khỏi những ràng buộc, khi có tự do nội tâm để hành động.

3. Niềm vui bền vững

Niềm vui bền vững là niềm vui không dựa trên các điều kiện, không bị tác động hay lệ thuộc vào những hoàn cảnh bên ngoài: đó là niềm vui của tình yêu. Chỉ cần ta mở lòng yêu thương thì tự nhiên có niềm vui. Đó là niềm vui hồn nhiên, đơn sơ, chân thành, nhẹ nhàng, thanh thoát, không đòi hỏi, không chiếm hữu, không toan tính, không đặt điều kiện.

Niềm vui bền vững chỉ phát xuất từ một tâm hồn tràn ngập yêu thương. “No man truly has joy unless he lives in love” = Không ai thực sự vui vẻ nếu không sống yêu thương”(Thánh Tôma Aquinô). Niềm vui bền vững phát xuất từ lòng yêu thương chân thật, vô vị lợi. Điều này không phải là kết quả của sự cố gắng rèn luyện hay nỗ lực tu tập, mà đơn giản chỉ là những hệ quả tất yếu của một tâm hồn luôn đong đầy yêu thương.

Cũng từ những trải nghiệm trên, ta thấy mọi niềm vui của con người có thể được phân thành hai loại cơ bản: một loại giúp con người nâng cao giá trị của mình, còn một loại lại làm cho phẩm giá của con người bị hạ thấp. Niềm vui có sự phân biệt rõ ràng: đích thực và giả tạo, chân chính và bất chính, tội lỗi và thánh thiện, cao thượng và thấp hèn, xây dựng và phá hủy… Nói cách khác, có sự phân biệt niềm vui đúng đạo lý và niềm vui trái đạo lý. Trong niềm vui đúng đạo lý, con người càng được mãn nguyện bao nhiêu thì càng thánh hóa được bản thân và tha nhân bấy nhiêu. Ngược lại, với niềm vui trái đạo lý, con người càng thỏa mãn càng bị tha hóa trong nhân cách.

II. NIỀM VUI ĐÚNG ĐẠO LÝ VÀ TRÁI ĐẠO LÝ

1. Niềm vui đúng đạo lý[1]

Niềm vui đúng đạo lý là niềm vui xây dựng trên nền tảng: chân, thiện, mỹ, nghĩa là vừa đúng đắn (chân), vừa tốt lành (thiện), vừa đẹp đẽ (mỹ). Đây cũng là ba giá trị nhân bản mà mọi người đều khát khao hoặc ngưỡng vọng. Trong sự vươn đến chân, thiện, mỹ, cho dù một bước tiến bé nhỏ cũng có thể đem đến cho con người sự hài lòng to lớn. Điều này giải thích tại sao bất cứ ai cũng có thể tìm thấy những niềm vui tuyệt diệu khi nắm bắt được một vài tia sáng của chân lý, trải nghiệm được một vài ý tưởng thánh thiện, hay thực hiện được một vài hành động đẹp đẽ.

- Thứ nhất là niềm vui do trải nghiệm cái đúng đắn (chân). Chỉ cần sống tốt với bổn phận làm người, niềm vui tự nhiên xuất hiện. R. Tagore cũng nói lên như thế:

Tôi nằm ngủ và mơ thấy cuộc đời là Niềm vui.

Tôi thức giấc và nhìn thấy cuộc đời là Bổn phận.

Tôi hành động và, ô kìa, Bổn phận chính là Niềm vui.

Ai cũng có thể cảm nhận về điều đó. Chỉ cần hành động theo đúng sự thật, niềm vui tự động dâng tràn. Chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi những nhiễu nhương, muộn phiền. Dĩ nhiên, sự thật nào cũng đòi phải trả giá, nhưng giá đó làm nên giá trị nhân cách để khôi phục lại hình ảnh Thiên Chúa nơi con người đã bị mê hoặc bởi sự giả trá. Riêng với những người có đức tin tôn giáo, mỗi khi chứng nghiệm được một sức mạnh của tâm linh, một điều kỳ diệu của đức tin hoặc nhận thức được một nội dung của giáo lý cao siêu, đều thấy cả trí tuệ lẫn tâm linh mình phấn khởi lạ thường. Đó là những trải nghiệm hồn nhiên và có ý nghĩa về niềm vui dưới ánh sáng chân lý.

- Thứ hai là niềm vui do trải nghiệm cái tốt lành (thiện). Mỗi khi làm được một việc thiện, giúp ích cho tha nhân, lòng chúng ta thấy vui sướng nhẹ nhàng. Thánh Tôma Aquinô cũng đã định nghĩa: Sự vui sướng là trạng thái an tĩnh của tâm hồn sau khi đã đạt được mục tiêu, tức là điều thiện (quies appetitus in fine: I-II, 34,2,2m).. Việc thiện càng sâu, niềm vui càng lớn; việc thiện càng nhiều, niềm vui càng rộng. Tâm hồn càng hướng thiện thì càng mở rộng phạm vi hành thiện. Chính việc hành thiện là sức hút mãnh liệt để cảm hóa nhân tâm và cải hóa xã hội. Gốc gác con người là tính bản thiện, nhưng vì không hành thiện nên đời sống ngả nghiêng, khiến cho sự ác xâm nhập càng thêm đảo điên.

- Thứ ba, niềm vui do trải nghiệm cái đẹp đẽ (mỹ). Có biết bao cái đẹp trong cuộc sống con người, từ thiên nhiên vạn vật cho đến những tác phẩm nghệ thuật do con người làm nên. Chúng ta tìm thấy niềm vui này ngay cả khi nhìn ngắm một cánh hoa. Mọi cái đẹp đều cho ta nhận ra kỳ công tuyệt mỹ của Thiên Chúa ngay trong cấu trúc cơ thể và khả năng tâm trí của con người. Ở mức độ cao hơn trong đời sống tinh thần, niềm vui ấy còn sâu rộng hơn khi có một tính cách đẹp, một lối ứng xử đẹp, một cử chỉ đẹp trong sự khiêm tốn, hiền hòa, bao dung, tha thứ, nhất là lấy tình thương đáp trả hận thù. Đó là sự trải nghiệm cái thẩm mỹ, cái trác tuyệt trong nhân cách, và ai cũng đầy niềm vui khi thấy được cái đẹp tinh tế đó nơi mình hay người khác.

Trên thực tế, ba giá trị chân, thiện, mỹ thường xuất hiện đồng thời. Chẳng hạn, thái độ bao dung đem lại an hòa vừa là một lối hành xử đẹp, tốt lành và đúng đắn. Niềm vui có mặt trong mọi giây phút khi lòng ta luôn thanh tịnh, không bị vọng động bởi những xao động và tác động bên ngoài. Một tâm hồn như vậy càng gặp những thử thách qua những nghịch cảnh càng cảm nhận được những niềm vui thanh khiết, vì những cái khắc nghiệt ấy của cuộc đời là cơ hội để trui rèn và làm sáng lên những giá trị nhân bản rất chân thật, tốt lành và thánh thiện nơi chính mình. Những giá trị đó làm cho thế giới loài người trở nên sinh động và đáng yêu.

Những con người của niềm vui trong chân, thiện, mỹ, cũng là những người góp phần tốt nhất cho việc xây dựng hòa bình thế giới. Vì nơi họ, sự an bình trong tâm hồn tự động lan tỏa trong mọi môi trường sinh hoạt của xã hội, như hương trong hoa, như men trong bột. Như vậy, dù không là Kitô hữu, họ cũng đã sống tốt mối phúc thứ bảy, và đáng được gọi là con Thiên Chúa.

2. Niềm vui trái đạo lý

Những niềm vui trái đạo lý là những cái vui không phù hợp với ba giá trị căn bản của nhân loại tính. Đó là những cái vui không đúng đắn, chẳng tốt lành, mà cũng chẳng đẹp đẽ. Niềm vui nào cũng nằm trong sự chọn lựa giữa cái xấu và cái tốt. Ai cũng có tự do để chọn lựa niềm vui, như lời bài hát của Trịnh Công Sơn:

Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui

Chọn những bông hoa và những nụ cười…

Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui

Cùng với anh em tìm đến mọi người…

Và như thế tôi sống vui từng ngày

Và như thế tôi đến trong cuộc đời

Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi

Tự do để lựa chọn, nhưng chọn cái gì, chọn như thế nào, tâm ý của mình và đối tượng ra sao… Chính vì vậy mà tự do vừa cao quí vừa bi đát do cách chọn lựa của con người. Thiên Chúa chỉ dựng nên những điều tốt, nhưng con người đã làm nên những điều xấu bằng sự tự do quá đà, vượt giới hạn, làm phá đổ trật tự hài hòa mà Thiên Chúa đã đặt để. Đời mất vui khi con người mất đi sự tự do làm chủ chính mình, để mình bị lôi kéo theo thất tình lục dục:

- Thất tình là bảy trạng thái tình cảm: mừng (hỷ), giận (nộ), buồn (ai), vui (lạc), thương (ái), ghét (ố), sợ (cụ). Chúng đều là những trạng thái dễ bị kích thích, gây nên bấn loạn khi con người chịu những tác động từ bên ngoài mà không có sự chủ động an định nội tâm. Những niềm vui thất tình phát sinh và tồn tại dựa vào lục dục, nên chúng chỉ là những hưng phấn giả tạm do sự thỏa mãn các ham muốn tâm-sinh lý trong bản năng vô thức của con người. Nói cách khác, những niềm vui này bắt nguồn từ những “xung lực phát ra từ những tổ chức thể chất” và là sự thỏa mãn những đòi hỏi thể chất trong tâm thần của con người[2].

- Lục dục là sáu loại ham muốn phát xuất từ lục căn. Lục căn bao gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý (nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, và ý), là sáu cơ quan tối trọng trong đời sống mỗi người. Nếu con người biết làm chủ lục căn, sử dụng chúng vào những việc đúng đạo lý, thì lục dục sẽ trở thành sáu phép mầu để thông thiên đạt địa. Ngược lại, nếu ta không làm chủ được lục căn, thì lục dục sẽ trở nên mù quáng [àm thành“sáu ngã đường tà” khiến con người chỉ còn tìm vui trong tội lỗi.

Nếu vui vì mắt được nhìn thấy những sắc đẹp và đem lòng ham muốn thì đó là cái vui của nhãn dục. Nếu vui do tai được nghe những lời tâng bốc, gièm pha, xu nịnh, gây hiềm thù, thì đó chỉ là cái vui của nhĩ dục. Nếu vui do mũi được ngửi những mùi hương tạo nên sự kích thích thân xác thì đó là cái vui của tỹ dục. Nếu vui do lưỡi được nếm những thức ăn ngon, đó chỉ là cái vui của thiệt dục. Nếu vui do thân được thỏa mãn cảm giác của xác thịt, đó chỉ là cái vui của thân dục. Và nếu vui do tư tưởng được thỏa mãn những suy nghĩ càn quấy, phóng túng, đó chỉ là cái vui của ý dục.

Cái vui của ý dục là môi trường dung dưỡng những cái vui của mọi loại dục vọng khác. Đằng sau khả năng nhận thức sinh lý học của các cơ quan thể chất còn có khả năng nhận thức tâm lý học của những bản năng vô thức tương ứng. Những ham muốn do bản năng vô thức mới là phần đáng sợ nhất của lục dục.

Đối với những ham muốn do bản năng vô thức, con người không thể kiểm soát và chế ngự chúng bằng ý thức hay lý trí, nhưng phải bằng một quá trình tu tập lâu dài. Tuy nhiên, bản tính con người vốn mỏng dòn, yếu đuối, không thể chỉ dựa vào sức lực và khả năng của mình để tu tập. Việc tu tập nào cũng không thể thành, nếu chỉ là nỗ lực đơn thuần của con người, nhưng nhất thiết phải có ơn trên độ trì. Không ai có thể tự phụ mình đã đạt tới niềm vui đạo lý nếu không nằm trong Thiên ý. Bản chất niềm vui trước tiên là một ân ban từ trong tâm, và chỉ dành cho ai biết khiêm tốn đón nhận. Không có gì cao đẹp trong đời sống con người mà chỉ là nhân bản thuần túy; cũng không có gì cao quí nơi vạn vật mà chỉ là tự nhiên đơn thuần, nhưng tất cả đã được nâng lên một bình diện cao hơn và mang tính cách linh thánh nhờ sự cứu chuộc của Đức Kitô. Vì thế mà niềm vui đạo lý được bao hàm trong niềm vui đời Kitô hữu: là một thực tại siêu nhiên ngay trong những gì xem ra rất tự nhiên, do tình yêu Thiên Chúa đã đổ tràn trên cuộc sống của con người.

III. NIỀM VUI ĐỜI KITÔ HỮU

Niềm vui đời Kitô hữu trước tiên là một ân ban được làm con cái Thiên Chúa. Đó là niềm vui khai mở mọi niềm vui. Biết rằng, bước theo Chúa là từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà đi theo, nhưng đó lại là sự “hãnh diện” của đời Kitô hữu (x. Gl 6, 14), và là con đường đi lên làm triển nở nhân cách vẹn toàn. Hơn nữa, sau thập giá còn là vinh quang dành cho những tâm hồn quả cảm.

1. Niềm vui được làm con Thiên Chúa

Niềm vui đời Kitô hữu trước tiên là hoa trái của Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa, cảm nghiệm và hưởng nếm được sự tốt lành của Người, và gọi Người là “Abba”, Cha ơi (x. Rm 8,15). Niềm vui là dấu chỉ Thiên Chúa đang hiện diện và hành động nơi chúng ta.

Niềm vui đời Kitô hữu cũng là niềm vui đúng đạo lý, nhưng lại mang tính siêu vượt, vì còn là niềm vui của con cái Thiên Chúa, được xác lập bởi mối liên hệ sung mãn với Đức Kitô, là đời sống trong Đức Kitô. Đức Kitô đã không ngừng hiện diện trong Chúa Cha, nên chúng ta cũng không ngừng hiện diện trong Đức Kitô, Đấng cứu độ duy nhất cho toàn thể nhân loại. Niềm vui lớn lao duy nhất vượt trên mọi niềm vui, chính là niềm vui ơn cứu độ mà Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta, qua cái chết và sự phục sinh của Ngài. Và Bát phúc chính là bí quyết phát sinh niềm vui bất tận cho đời Kitô hữu mà Chúa Giêsu đã công bố. Vì thế“Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,12). Từ đó chúng ta nhận thấy rằng:

- Niềm vui đời Kitô hữu cũng đặt cơ sở trên sự thật, nhưng là sự thật phát xuất từ Thiên Chúa: là sự thật trên mọi sự thật, được mạc khải qua Đức Giêsu Kitô, chứ không phải sự thật của những triết thuyết hay giáo thuyết nào khác. Mọi sự thật do con người tìm kiếm hay trải nghiệm có thể bất túc hay bất toàn. Sự thật tuyệt đối chỉ có nơi Thiên Chúa, Đấng Toàn Chân, mà mọi sự thật đều qui hướng về.

- Niềm vui đời Kitô hữu cũng đặt cơ sở trên sự thiện, nhưng không chỉ là sự thiện luân lý mà còn là sự thiện trên mọi sự thiện, sự thiện nơi Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thánh thiện, Đấng ban cho chúng ta được thông phần bản tính Thần Linh của Người trong Đức Kitô (x. 2Pr 1, 4). Sự thiện tuyệt đối chỉ có nơi Thiên Chúa, Đấng Toàn Thiện, mà mọi sự thiện đều qui hướng về.

- Niềm vui đời Kitô hữu cũng đặt cơ sở trên cái đẹp, nhưng là cái đẹp bắt nguồn từ Thiên Chúa. Người đã thể hiện cái đẹp siêu phàm của tình yêu Người qua Đức Giêsu, Đấng đã chết vì tội lỗi nhân loại chúng ta, vì “không có tình yêu nào cao đẹp cho bằng tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15, 13). Cái đẹp tuyệt đối chỉ có nơi Thiên Chúa, Đấng Toàn Mỹ, mà mọi cái đẹp phải qui hướng về.

Tự bản chất, niềm vui người Kitô hữu vượt trên tất cả, vì là niềm vui của con cái Thiên Chúa. Nơi nào có Thiên Chúa, ở đó có niềm vui thực sự, vì “Chỉ Thiên Chúa mới đem lại sự thỏa mãn” (Tôma Aquinô). Niềm vui của đời Kitô hữu không chỉ vượt xa hẳn những lợi lộc vật chất và sự thỏa mãn trần tục, không chỉ là niềm vui thỏa đáng cho khát vọng thâm sâu, mà còn vì mọi niềm vui hôm nay đều hướng đến niềm vui vô tận là chính Thiên Chúa, Đấng là suối nguồn hạnh phúc muôn thuở của con người.

2. Niềm vui trong Chúa

Niềm vui trong Chúa được phác họa qua cuộc đời Thánh Phaolô, như là nhà vô địch và là sứ giả của niềm vui, cho dẫu rằng ngài đang trải nghiệm sự thất vọng và đang trong tình trạng bị giam cầm. Ngài viết “vì đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi” (Pl 1, 21), nên ngài có thể giữ niềm vui ngay cả khi ngài trong tù, khi bị đánh đập, hoặc là khi bị đặt trong những tình trạng nguy hiểm. Đó là niềm vui trong Chúa, không phụ thuộc vào bất cứ hoàn cảnh nào bên ngoài. Từ những trải nghiệm đó, ngài đã phấn khích các Kitô hữu một cách mạnh mẽ: “Vui lên anh em” (Pl 4,4).

Chính vì được gặp gỡ Chúa, ở bên Chúa, sống trong Chúa, cảm nếm ngọt ngào được tình yêu Chúa, nên người Kitô hữu vui ngay cả khi họ đang đói khát, mệt mỏi, đau đớn, cô đơn, tù đày, bị ngược đãi hoặc bị đối xử tàn nhẫn. Quả thật, “Vui mừng là một trong những đặc tính của sự thánh thiện” (P. Faber).

Niềm vui trong Chúa không phải từng lúc, từng nơi, mà là niềm vui không ngơi như một dòng chảy qua mọi tình trạng của cuộc sống. Càng biết khiêm tốn nép mình trong Chúa thì niềm vui còn nằm ngay trong những khía cạnh tiêu cực của cuộc đời. Ta có thể vui ngay trước những lời chê bai, phê bình chỉ trích của người khác, bởi vì điều quan trọng là sự thật về bản thân mình. Thánh Têrêsa rất vui khi người ta phê phán tiêu cực về Ngài, và Ngài rất sợ những lời khen lao ca ngợi của người khác. Vì thế mà Ngài luôn xin ơn được người đời khinh chê.

Chính Chúa cũng đã bị cáo gian, bị hiểu lầm, bị phủ nhận, bị chụp mũ…. huống chi cuộc sống yếu hèn của mỗi người chúng ta, ai lại không lầm lỗi. Vì thế, có bị chê bai, cười nhạo đi nữa cũng là chuyện thường tình. Ta cũng có thể vui trước những yếu đuối và lầm lỗi của mình. Thánh Têrêsa nói rằng: “Em còn rất nhiều yếu đuối và bất toàn, nhưng em rất vui. Đối với em, sa ngã hằng ngày cũng chẳng hệ gì, vì nhờ vậy mà em thấy mình yếu hèn và biết nương tựa vào Chúa hơn”.

Để niềm vui trong Chúa được lớn thêm mỗi ngày, ta cần đào sâu tinh thần lạc quan, tin tưởng và phó thác:

- Vui với cái nhìn lạc quan

Mọi diễn biến trong cuộc sống thường không đơn giản, không như ta mong muốn mà có khi còn ngược lại. Điều quan trọng là tâm trạng và phản ứng của mỗi người như thế nào trước mỗi tình cảnh. Điều đó tùy thuộc góc độ nhìn và cách thế nhìn vấn đề của mỗi người: “Hai người cùng nhìn ra song cửa. Kẻ thấy bùn đen, kẻ thấy sao” (F. LangBridge).

Đối với người có cái nhìn lạc quan thì biết rằng mọi sự có thể do con người tạo nên, nhưng tất cả đều nằm trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Vì thế, trước những bóng tối người ta vẫn thấy ánh sáng; trước đám mây u ám người ta vẫn thấy bầu trời trong lành.

Chúa Giêsu đầy lạc quan khi Ngài trình bày dụ ngôn về Nước Trời giống như hạt cải gieo trong ruộng (x. Mt 13, 31), hay như nắm men vùi trong bột (x. Mt 13, 33). Như Chúa Giêsu, người Kitô hữu luôn lạc quan khi nhìn sự việc, cho dù xem ra có nhiều điều trắc trở. Sống tinh thần lạc quan không có nghĩa là như con Đà Điểu chui đầu vào đống cát để tránh né nguy hiểm đang xảy ra, nhưng là luôn giữ quân bình nội tâm giữa những khó khăn hằng ngày.

Người lạc quan là con người thực tế, biết mình cần phải làm gì để góp phần giải quyết vấn đề một cách tích cực hơn theo khả năng của mình, chứ không làm ngơ mặc tình cho cuộc sống dun dủi, đẩy đưa, may nhờ rủi chịu.

Tuy nhiên người lạc quan có những khi cũng phải biết chấp nhận sự giằng co giữa lý thuyết và thực tế. Lý thuyết bao giờ cũng đẹp, nhưng thực tế thì bản thân mình và cộng đoàn còn phải phấn đấu vươn lên từng ngày. Người lạc quan không ảo tưởng, vì biết rằng chẳng ai và chẳng cộng đoàn nào là hoàn hảo. Cuộc sống không có sự hoàn hảo đúng nghĩa mà chỉ có hoàn hảo hơn mỗi ngày. Vì thế, ta vẫn vui trước những khó khăn, những thiếu hụt và giới hạn của mình, của người khác. Như vậy người lạc quan cũng là người khôn ngoan:“Người khôn ngoan là người không buồn về những gì mình không có, nhưng biết vui về những gì mình đang có” (Epidetus).

- Vui với lòng tin tưởng

“Tin tưởng là sức mạnh của cuộc đời” (Léon Tolstoi). Sở dĩ người ta lạc quan là vì người ta tin tưởng: tin vào Chúa và tin vào chính mình, nghĩa là tin vào quyền năng và lòng thương xót Chúa đi đôi với nỗ lực của chính mình. Nhờ đó người ta luôn có cái nhìn tích cực trước mọi hoàn cảnh và sự việc: biết tìm kiếm những gì tốt đẹp trong những cái dở dang; biết thu lượm những cái nguyên vẹn trong những gì đổ vỡ; biết khai thông một lối nhỏ trên lộ trình bế tắc; biết sáng tạo và tận dụng mọi khả năng của mình để biến khó khăn thành cơ hội...

Bà Magarita, thân mẫu của Cha Don Bosco, mỗi tối bà thường đem các con ra trước sân nhà, giơ tay chỉ lên bầu trời và nói: “Chỉ khi nào màn đêm buông xuống, chúng ta mới có thể nhìn thấy những vì sao lấp lánh trên trời”.

Suốt đời Cha Don Bosco đã ghi nhớ lời khuyên dạy đầy khôn ngoan của mẹ. Đó là những tia sáng hy vọng đã thắp lên, nhờ đó Cha Don Bosco đã trở nên thầy dạy, là nhà giáo dục đức tin cho giới trẻ, nhất là các học sinh nghèo, những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Với tâm hồn lạc quan và tin tưởng, ngài đã huấn luyện các học sinh của ngài cởi bỏ cái nhìn bi quan để khám phá những điều tốt lành chung quanh, tin vào khả năng của mình và hướng nhìn tương lai với niềm hy vọng. Cũng như người thanh niên nọ mỗi sáng vừa thức dậy, anh ta mở toang cửa sổ, hít thở không khí trong lành của ngày mới và mỉm cười cất tiếng hát: “Đây là ngày Thiên Chúa dựng nên, chúng ta hãy vui mừng hoan hỉ”.

Cho dù trước mắt có những tình cảnh éo le và những thảm trạng không ngừng xảy ra, nhưng Thánh Phaolô nói rằng, chúng ta bước đi bằng lòng tin, chứ không phải bằng mắt (x. 2Cor 5, 7). Lòng tin mở ra một chân trời mênh mông cho lẽ sống làm người và làm con cái Thiên Chúa: tin mình được cứu độ, được tha thứ, và được yêu thương vô cùng. Thật vui mừng biết bao!

Thiên Chúa cao cả không phải vì Ngài “toàn năng”, nhưng vì Ngài “toàn ái”. Ngài siêu việt vì Ngài là “Tình yêu tuyệt đối”. Với đức tin, mắt phàm biến thành mắt thần, nghị lực biến thành dũng lực. Người có đức tin trông thấy những điều mà kẻ khác không trông thấy, làm được những cái kẻ khác không thể làm được. Đức tin là điều kiện tiên quyết, cần và đủ để phép lạ xảy ra (x. Lc 7, 50; 8, 48). “Con có tin không?”, đó là câu hỏi của Chúa Giêsu trước khi Ngài làm phép lạ để cứu chữa bệnh nhân, để rồi sau đó Ngài kết thúc bằng câu:“Đức tin con đã cứu con”. Chúa Giêsu không thể làm gì được cho con người khi họ không có lòng tin (x. Mc 6, 5-6).

Thánh Têrêsa cũng đã xác quyết “Chúa Giêsu có thể làm được mọi sự; lòng trông cậy làm được những phép lạ”. Và Thánh nữ cho biết rằng: “Điều xúc phạm đến Chúa Giêsu và khiến Thánh Tâm Ngài phải sầu khổ, đó là lòng thiếu tin tưởng vào Ngài”.

Ngay cả đối với các trọng tội, Têrêsa cũng không hề thất vọng: “Con cảm thấy dù lương tâm con có đầy những tội ác tầy trời con có thể phạm, con cũng không mất lòng cậy trông tin tưởng... Không gì có thể làm con sợ hãi, vì con biết phải xử làm sao với tình yêu và lòng thương xót Chúa. Con biết muôn vàn tội lỗi con sẽ tiêu tan trong nháy mắt như một giọt nước rơi vào giữa lòng than hồng”.

- Vui trong sự phó thác

Lạc quan, tin tưởng gắn liền với tinh thần phó thác. Đó là đỉnh cao của niềm vui. Phó thác theo ý Chúa muốn chứ không theo ý mình muốn. Vì chỉ có Chúa mới thấy những gì tốt đẹp nhất cho cuộc đời mình. Luôn nhớ rằng, mọi công việc ta làm là của Chúa, thành công hay thất bại của ta cũng chính là thành công hay thất bại của Chúa. Chúa chỉ cần ta cố gắng hết mình. Phần còn lại, chính Chúa sẽ hành động, cứ phó thác hết cho Ngài.

Ngay cả anh chị em lương dân cũng biết: mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên. Tài năng cỡ nào đi nữa mà Trời không muốn thì con người cũng đành bó tay. Cho nên người quân tử theo Nho giáo xem ra rất lạc quan, vì luôn sống theo thiên mệnh: làm hết sức, nhưng cũng phó thác hết mình.

Khi ta đã sống tận tình, thì dù cuộc sống có còn nhiều tăm tối, nhiều cái trì trệ, dở dang từ bản thân cho tới cộng đoàn, từ con người cho tới công việc, thì chúng ta cứ hãy an tâm phó thác hoàn toàn cho quyền năng và lòng thương xót Chúa. Cũng có đôi khi Chúa muốn để tình trạng yếu kém như thế là để chúng ta biết dựa vào Chúa, chứ đừng dựa vào mình theo sự khôn ngoan của loài người. Thánh Têrêsa cho đó là một ân ban lớn lao. Điều nguy hiểm khi con người chỉ cậy dựa vào sức mình, đó mới chính là vực thẳm đáng sợ nhất.

Trong sự cậy dựa vào Chúa, qua thư gởi chị Céline, Têrêsa viết : “Quả thực, em không luôn trung tín đâu, nhưng không bao giờ em nản chí, em phó thác mình trong tay Chúa Giêsu. Như hạt sương nhỏ, em chìm sâu vào tận đài ‘Hoa Đồng nội Cực Thánh’, và nơi đó em tìm lại được những gì đã mất, và còn hơn thế nữa”.

Thánh Nữ còn dám quả quyết: “Dù em có thấy lửa tình yêu như tắt lịm trong lòng, em vẫn cố ném vào đống tro tàn những cọng rác nho nhỏ và em tin chắc thế nào rồi lửa cũng bùng cháy lại”.

Quả là một sự tin tưởng và phó thác hết mình, một sự liều lĩnh hoàn toàn trong tình yêu, để Têrêsa có được niềm vui ngay trong mọi hoàn cảnh khốn khó. Phó thác không phải là thái độ nhắm mắt đưa chân, nhưng là can đảm bước qua trong sự liều lĩnh để tiến tới tình yêu. Liều lĩnh trong tình yêu đối với người đời thì quả thật nguy hiểm, nhưng đối với Thiên Chúa lại là một sự an toàn. Trong mọi tình huống, Chúa luôn là niềm vui khôn tả cho cuộc đời chúng ta, chỉ có điều chúng ta có dám phó thác cuộc đời mình cho Chúa đề Ngài hành động?

Người sống trong niềm vui là người luôn biết mở nụ cười. Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ, không chỉ bổ thân xác mà bổ đời sống tinh thần, không chỉ bổ cho mình mà còn bổ cho mọi người chung quanh. “Nụ cười là sức mạnh lớn nhất của thế giới. Ở đâu không có nụ cười, ở đó sự sống kể như đã tắt. Ở đâu có nụ cười, ở đó cuộc sống trở nên phong phú” (Zundel).

Nụ cười chính là sức mạnh của Thiên Chúa trao ban cho những tâm hồn thuần khiết. Hãy cười lên! nụ cười hồn nhiên của trẻ thơ, nụ cười ngọt ngào của tình yêu, nụ cười hân hoan của cuộc sống trong Chúa mỗi ngày.

IV. PHƯƠNG SÁCH ĐỂ DUY TRÌ NIỀM VUI MỌI NGÀY

1. Lời Chúa

Lời Chúa chính là “sách lược” hữu hiệu để người Kitô hữu vẫn giữ được niềm vui khi đối mặt với mọi tình huống. Bởi vậy, “Gặp được lời Chúa, con đã nuốt vào, lời Ngài làm cho con hoan hỉ, làm vui thoả lòng con” (Gr 15,16). Nhờ vậy mà người Kitô hữu có thể:

- Vui trong khốn khó: “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).

- Vui trong thử thách: “Anh em hãy cho mình là chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều (Gc 1,2-3).

- Vui trong yếu đuối: “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10).

- Vui trong thiếu thốn: “Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (Ga 16,24).

- Vui trong bất hạnh: “Tang tóc họ, ta biến thành hoan hỷ, và sau cảnh sầu thương, sẽ cho họ được an ủi vui mừng” (Gr 31,13).

- Vui trong châu lệ: “Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” (Tv 30,6).

- Vui trong đau buồn: “Bây giờ anh em đau buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được” (Ga 16, 22).

- Vui trong phấn đấu: “…vì tên của anh em được ghi trên trời” (Lc 10,20).

- Vui trong Thánh ý Chúa: “Thánh ý Ngài là gia nghiệp con mãi mãi, vì đó là hoan lạc của lòng con… mệnh lệnh của Ngài vẫn làm con vui thỏa” (Tv 119,111-143).

- Vui cả khi bị ngược đãi: “vì Nước trời đã dành cho họ.” (Mt 5, 12).

2. Niềm vui hiến trao

Niềm vui đời Kitô hữu không phải là niềm vui riêng mình, nhưng tự bản chất là niềm vui trao ban, chia sẻ, để mọi người được vui trong niềm vui của Thiên Chúa. Niềm vui trong Chúa chính là niềm vui luôn khơi sâu nới rộng, luôn được dàn trải và vươn xa tới mọi người. Chẳng ai gặp gỡ và đón nhận Đức Giêsu mà có thể ngồi yên trong vị thế của mình, nhưng rất hăng say nhiệt tình để đem lại niềm vui sống cho anh chị em mình.

“Ơn gọi của Giáo Hội là mang lại niềm vui cho thế giới, một thế giới buồn phiền và âu lo trước bao nhiêu hiểm họa và đe dọa của sự dữ, chưa biết đặt niềm tin vào đâu. Vì thế, niềm vui là một chứng từ quan trọng cho vẻ đẹp và tính đáng tin của đức tin Kitô giáo”[Chính niềm vui đời Kitô hữu mở ra cho tình yêu Thiên Chúa được lan tỏa và sống động trong nhân loại.

Đời Kitô hữu không thể hạnh phúc nếu những người xung quanh mình không hạnh phúc. Niềm vui thu vén và hưởng thụ cho cá nhân mình không phải là niềm vui đời Kitô hữu. Chính vì vậy mà chúng ta rất vui khi ra khỏi bản thân của mình để đi đến với tha nhân trong từng cảnh ngộ của họ với tâm tình yêu thương, phục vụ, chỉ cho họ thấy kho tàng quý giá là chính Chúa Giêsu, Đấng chính là niềm vui bất tận trong tâm hồn mỗi người.

Trong ý nghĩa đó, Đức Bênêđictô XVI đã tha kêu gọi chúng ta: “Hãy đến với những ai đang đau khổ, những ai đang tìm kiếm, và mang lại cho họ niềm vui mà Chúa Giêsu muốn trao ban. Hãy mang niềm vui ấy đến cho gia đình các con, trường học của các con, nơi làm việc của các con và cho bạn bè của các con, ở bất cứ nơi đâu các con sống. Các con sẽ thấy niềm vui ấy lan truyền như thế nào. Các con sẽ nhận được gấp trăm: niềm vui cứu độ cho chính các con, niềm vui được thấy Lòng Thương Xót của Thiên Chúa hoạt động nơi các tâm hồn. Và khi các con đến gặp Chúa vào ngày sau hết, các con sẽ nghe Chúa nói: “Tốt lắm, đầy tớ tốt lành và trung tín của Ta, hãy vào hưởng niềm vui cùng chủ ngươi!”(Mt 25,21)

Niềm vui hiến trao của đời Kitô hữu phác họa lại niềm vui của Mẹ Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, tâm trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1,46-47). Mẹ đã tận hiến hoàn toàn cho ý định cứu độ của Thiên Chúa, nên Mẹ chan chứa vui mừng. Mẹ được kêu cầu là “Đức Bà làm cho chúng con vui mừng” vì Mẹ đã ban cho nhân loại chúng ta Chúa Giêsu. Tiếp nối tâm tình và tính cách của Đức Maria, Mẹ chúng ta, người Kitô hữu làm cho thế giới được hân hoan vui mừng trong ơn cứu độ của Thiên Chúa, và đón chờ ngày hoan lạc trong Chúa muôn đời.

Bình luận (2)
Ý Nguyễn
Xem chi tiết
Amee
22 tháng 3 2021 lúc 13:50

I. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận

II. Thân bài:

1. Quan niệm về đất nước qua các triều đại để đi đến giải thích đất nước nhân dân.

- Đất nước – một đề tài lớn, một hình tượng trữ tình rất đẹp trong thơ ca Việt Nam, nhưng ở mỗi giai đoạn văn học, mỗi thời kì lịch sử, mỗi tác giả, tác phẩm thì hình tượng ấy lại mang những tư tưởng riêng, lấp lánh màu sắc thẩm mĩ riêng. Ở thời đại gắn với tư tưởng “trung quân ái quốc” vì quan niệm đất nước gắn liền với công lao của đế vương, của các triều đại:
“Nam quốc sơn hà nam đế cư”
(Lý Thường Kiệt)
hay ” Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
(Nguyễn Trãi)

- Thơ văn yêu nước những năm đầu thế kỉ XX tư tưởng này có một bước tiến mới qua tiếng nói của người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu: “Dân là dân nước, nước là nước dân” nhưng dẫu sao vẫn mang dấu ấn của tư tưởng tư sản.

2. Chứng minh tư tưởng đất nước của nhân dân.

2.1 Đất nước được nhà thơ nhìn nhận và thể hiện qua bề rộng không gian địa lí. (lấy kiến thức đoạn “Đất là nơi anh đến trường….cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ” và ” những người vợ nhớ chồng….Bà Đen, Bà Điểm”)

- Nhà thơ suy tư về “Đất Nước” qua độ rộng của không gian địa lí để khẳng định đất nước của nhân dân. Theo cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm “Đất nước” là không gian vô cùng gần gũi thân thương, là một cõi đầy thơ mộng, ngọt ngào gắn với bao kỉ niệm của tình yêu mỗi chúng ta.

2.2 Đất nước được thể hiện và cảm nhận trong chiều dài lịch sử (tư liệu từ ” Và ở đâu trên khắp ruộng đồng… cho người sau trồng cây hái trái)

2.3 Đất nước được thể hiện ở bề sâu văn hóa dân tộc qua cái nhìn đầy tự hào của thanh niên yêu nước.
Những phát hiện sâu sắc và mới mẻ về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện ở nguồn mạch phong phú của văn hóa dân tộc, văn học dân gian. 

3. Đất nước của ca dao thần thoại

Chứng minh qua nghệ thuật của bài:
– Thơ trữ tình chính luận độc đáo
– Giọng thơ thủ thỉ tâm tình anh-em
– Chất liệu văn hóa dân tộc, văn học dân gian.

III. Kết bài

- Khái quát vấn đề

Xem thêm:

Soạn bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm siêu ngắn
Bài mẫu

Bài tham khảo số 1

BÀI LÀM

     Đất Nước - hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta vừa cao cả, trang trọng, vừa xiết bao bình dị, gần gũi. Hình tượng Đất nước đã khơi nguồn cho biết bao hồn thơ cất cánh. Văn học kháng chiến 1945 - 1975 trong mạch chảy ngầm dạt dào, mãnh liệt của cuộc sống không chỉ bắt được những âm vang náo nức cùa thời đại mà còn khắc tạc nên tượng đài nghệ thuật Đất nước thật nên thơ, cao đẹp. Đất nước hóa thân trong một mảnh hồn quê Kinh Bắc đậm đà màu sắc văn hóa dân gian, tình tứ, dịu dàng mà quằn quại dưới gót giày xâm lược trong thơ Hoàng Cầm; Đất nước tươi đẹp mà đau thương với sức vươn khỏe khoắn “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” sống động hiện hình lên trong thơ Nguyễn Đình Thi.

     Từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm là tiếng ca sôi nổi nhiệt tình cất lên từ trái tim tuổi trẻ xuống đường tranh đấu, trong đó những trang thơ khắc hình Đất nước là những nốt nhạc trong trẻo, xanh tươi nhất, rung động lòng người nhất, được tỏa sáng dưới một cái nhìn mới mẻ đầy tính phát hiện của thi nhân. Xuyên suốt đoạn trích Đất Nước, tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” nhuần nhyễn trong hình thức “Đất Nước của ca dao thần thoại” như một sợi chỉ đỏ tạo nên mạch chảy đằm sâu, tha thiết của cảm xúc nhà thơ.

     Giản dị như một lẽ tự nhiên, một vầng trăng cố tích huyền ảo gợi lên trong thế giới "ngày xửa ngày xưa”, một điệu hồn mềm mại trong sáng vút ngân từ trái tim nồng nàn yêu thương của mẹ trong những lời ru đong đầy vành nôi... tất cả thắm vào tâm hồn mỗi con người tự bao giờ. Dòng nước ngọt ngào của tình mẹ tắm mát hồn ta, ươm lên mảnh đất tâm hồn ta những hạt giống tốt lành đầu tiên để từ đó nảy mầm xanh tươi vươn lên đón nhận nắng gió của cuộc đời. Thế giới tuổi thơ - thế giới của trí tưởng tượng bay bổng ấy, thật kì diệu, gắn bó sâu xa tựa như trở thành hơi thở, thành máu thịt nuôi dưỡng tâm hồn. Và cũng chẳng biết tự bao giờ, tình yêu quê hương đất nước đậm đà, từ vành nôi của mẹ, thành hình trong ta từ trong tiềm thức... Văn học dân gian nói chung, ca dao thần thoại nói riêng chính là linh hồn dân tộc. Có thể nói đây là bộ phận văn học trong sáng, giàu sức sống nhất và cũng biểu hiện rõ nhất điệu hồn dân tộc - một giọng điệu hồn hậu, tươi duyên và đằm thắm không ai khác chính nhân dân - tập thể những người lao động - trong quá trình lao động cải tạo thiên nhiên, là tác giả cùa nền văn học dân gian dồi dào sáng tạo ấy. Với những xúc động chân thành mãnh liệt của một hồn thơ nảy nở từ nguồn sữa dân gian dạt dào, với sự cảm hiểu sâu sắc của một thanh niên trí tuệ có vốn văn hóa sâu rộng, phong phú đang trực tiếp trải nghiệm trong cuộc đấu tranh sôi nổi, quyết liệt của nhân dân dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù Nguyễn Khoa Điềm tìm về với cội nguồn “ca dao, thần thoại” để bật lên ánh sáng tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, vừa độc đáo mới mẻ, vừa thể hiện cái nhìn chính xác, toàn diện, có chiều sâu của nhà thơ về đất nước, về nhân dân. Tư tưởng chủ đạo ấy thấm nhuần từ cảm xúc đến việc sử dụng chi tiết nghệ thuật bài thơ. Đi suốt đoạn trích, ta bắt gặp một thế giới vừa gần gũi, thân quen, vừa kì diệu sâu xa khơi dậy hồn đất nước. Và chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng được tắm đẫm, được bao bọc bởi bầu không khí văn hóa dân gian gắn bó máu thịt với mỗi tâm hồn, trong đó âm hưởng “đất nước của "nhân dân” là nốt nhạc chủ đạo ngân vang suốt bản đàn “đất nước”.

                                          Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

                                          Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”... mẹ thường hay kể

                                          Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

                                         Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

     Những câu thơ mở đầu đoạn trích, thật tự nhiên và sâu lắng, nói với ta bao điều giản dị mà cũng thật thiêng liêng, thật thấm thía. Một thế giới cổ tích, truyền thuyết xưa như ùa về, sống dậy trong tâm hồn người đọc: câu chuyện Trầu Cau với tình người nồng hậu, thủy chung, biểu tượng đạo lí sáng đẹp yêu thương của dân tộc; sự tích Thánh Gióng như khúc anh hùng ca tráng lệ tự hào, biểu tượng sức mạnh thần kì của nhân dân Việt Nam từ buổi bình minh non trẻ dựng nước và giữ nước. Hơi thở trải dài, trầm lắng ngân nga như tiếng lòng đất nước dội về tự thuở nào, gợi dậy quá trình sinh thành và tồn tại của đất nước. Nếu như trong cổ tích, truyền thuyết xưa, nhân dân là những cô Tấm, những chàng Thạch Sanh... hay hóa thân trong vẻ đẹp Thánh Gióng, Sọ Dừa, thì trên trang thơ Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân hiện lên thân thương, gần gũi qua dáng hình của bà, của mẹ, của “dân mình”. Còn đất nước, không phải là một hình người khổng lồ xa lạ, hay là một khái niệm trừu tượng mà là những gì giản dị, thân thiết trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người. Đất nước hiện hình từ câu chuvện cổ tích của mẹ, miếng trầu của bà đến cái kèo, cái cột trong nhà, hạt gạo ta ăn hàng ngày. Tất cả những vật thân quen, bình dị ấy trong dời sống vật chất, cùng với những phong tục tập quán trong đời sông tinh thần của nhân dân: ăn trầu, trồng tre, búi tóc sau đầu, cách đặt tên người..., và cả tình yêu của con người (“cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”) đều làm nên khuôn mặt dân tộc - một dân tộc nghĩa tình, đằm thắm như trong câu ca dao gợi lên trong ta:

                                         Tay nâng chén muối, đĩa gừng

                                         Gừng cay, muối mặn xin đừng quên nhau

     Chất dân gian, hồn dân tộc như thấm vào từng câu từng chữ. Đất nước bắt nguồn từ những cái hàng ngày gần gũi, lại là những cái bền vững sâu xa, đã hình thành và tồn tại từ ngàn xưa trong đời sống dân tộc; từ những phong tục tập quán xa xưa như không có tuổi, lại là sự tiếp nối thiêng liêng, thấm đượm qua nhiều thế hệ. Đó chính là chiều sâu văn hóa - lịch sử của đất nước thể hiện ngay trong cuộc sống gần gũi hàng ngày của nhân dân. Có thể nói, bằng những hình tượng cụ thể, sinh động giàu sức khơi gợi. Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra định nghĩa mới mẽ, độc đáo về đất nước. Những câu thơ mở đầu như khúc dạo thiết tha đưa người đọc vào thế giới nghệ thuật của đoạn thơ, vừa gần gũi, thân quen, vừa huyền ảo, diệu kì tự xa xưa.

     Không những thế, đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm còn gắn với kỉ niệm riêng tư của mỗi con người, biến thành máu thịt của mỗi người. Tách Đất và Nước thành hai yêu tố, nhà thơ soi chiếu mối quan hệ Đất Nước với không gian và thời gian, với lịch sứ và hiện tại. Đất Nước là mảnh đất quen thuộc, gắn bó với mỗi con người:

                                        Đất là nơi anh đến trường

                                        Nước là nơi em tắm.

     Đất Nước còn là núi sông rừng bể bao la, là không gian sinh tồn và phát triển của bao thế hệ người Việt. Và thật thiêng liêng, Đất Nước là chứng nhân ghi dấu kỉ niệm tình yêu:

                                       Đất Nước là nơi ta hò hẹn

                                       Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

     Câu thơ thể hiện ngòi bút tài hoa, tinh tế của thi nhân. Ta như lắng nghe điệu bài ca dao “khăn thương nhớ ai" dìu dặt trong bài thơ. Kỉ niệm đẹp đẽ, xúc động của tình yêu như khơi dậy xôn xao, lấp lánh mỗi dòng thơ, ẩn sau đó là biết bao xao xuyến, bâng khuâng của “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”. Vì thế, ấn tượng về sự gắn bó thân thiết với mỗi cá nhân cùa đất nước càng khắc ghi sâu đậm.

     Những câu thơ sau lại thấm nhuần chất dân gian nhờ cách sử dụng linh hoạt chọn lọc chất liệu văn hóa dân gian:

                                       Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

                                       Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi"

     Theo mạch suy tưởng, tác giả tiếp tục cảm nhận đất nước ở bình diện lịch sử với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ “đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng", truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ. Những câu thơ gợi cảm xúc trang trọng, thiêng liêng khi hướng về nguồn cội cha ông. Những giá trị truyền thống, phong tục, văn hóa bền vững ấy tạo nên mạch ngầm chảy từ quá khứ, nối liền hiện tại và tương lai:

                                      Những ai đã khuất

                                      Những ai bây giờ

                                      Yêu nhau và sinh con đẻ cái

                                      Dặn dò con cháu chuyện mai sau

                                      Hàng năm ăn đâu làm đâu

                                      Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ.

     Cảm nhận đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện mối quan hệ biện giải giữa con người và đất nước, tạo nên sự “hài hòa, nồng thắm”:

                                      Trong anh và em hôm nay đều có một phần đất nước

     Một “Đất Nước của ca dao thần thoại” đi vào tâm hồn con người từ thuở trong nôi, một “Đất Nước của Nhân dân” gắn bó gần gũi, thiêng liêng trong cuộc sống hàng ngày, đất nước đã quấn quyện trong hơi thở, máu thịt mỗi người. Những câu thơ đang từ tính chất độc thoại, hướng nội chuyển sang đối thoại ,đặt ra trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước.

                                     Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

                                    Phải biết gắn bó và san sẻ.

                                    Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

     Làm nên Đất Nước muôn đời. Câu thơ dù là hình thức mệnh lệnh, nhưng với giọng điệu thiết tha, với cảm xúc mãnh liệt bật lên từ trái tim, từ sự cảm hiểu sâu sắc về đất nước, điệu thơ có sức cuốn hút, thôi thúc mạnh mẽ, tác động đến tâm hồn và trí tuệ người đọc. Mỗi con người gắn bó máu thịt với đất nước nên phải biết bảo vệ, giữ gìn đất nước, hơn nữa phải hi sinh vì đất nước khi vận mệnh dân tộc lâm nguy để mảnh đất mãi màu mỡ, xanh tươi những khúc hát tự do như người con gái trong bài thơ.

     Quê hương của Giang Nam: “Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất có một phần xương thịt của em tôi”. Trong hoàn cảnh đất nước đang gồng mình dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, những vần thơ cùa Nguyễn Khoa Điềm càng có sức lay động sâu xa lòng người, khơi dậy trong mỗi người ngọn lửa yêu thương, chiến đấu, hi sinh bởi trách nhiệm với đất nước chính là trách nhiệm với chính bản thân mình, với truyền thống văn hóa ngày xưa của nhân dân. Những câu thơ viết về chính trị mà không khô khan chính vì “phát khởi tự trong lòng'’ thi nhân, thấm nhuần cảm xúc dạt dào hứng khởi và nói với ta biết bao điều thiêng liêng về đất nước, về trách nhiệm bản thân đối với đất nước.

     Đi suốt đoạn thơ và nhập sâu vào cảm xúc nhà thơ, tư tưởng “đất nước của nhân dân” càng sáng lên rạng rỡ. Đất nước được nhìn từ phương diện địa lí, lịch sử văn hóa trở nên trang trọng, đẹp đẽ lạ thường.

     Những câu thơ như trải rộng mãi cùng cái nhìn, toàn cảnh thiên nhiên đất nươc từ Bắc xuống Nam, từ biển lên rừng. Đôi mắt thi nhân tưởng như muốn ôm trọn những cảnh quan mĩ lệ, kì thú của non sông:

                                 Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

                                 Cặp vợ chổng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

                                 Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

                                 Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

                                 Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

                                 Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên

                                 Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

                                 Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.

     Vốn văn hóa dân gian sâu rộng trải ra trên mỗi trang thơ với những phát hiện mới mẻ,sâu sắc và tinh tế của nhà thơ. Những chất liệu dân gian như cổ tích, truyền thuyết... từ sự tích núi Vọng Phu đến hòn Trống Mái, từ chuyện Thánh Gióng đến sự tích chín mươi chín con voi quây quần thuần phục nơi đất Tổ Hùng Vương, từ những sự tích về núi Bút, non Nghiên, thắng cảnh Hạ Long hay những địa danh Nam Bộ... mỗi danh lam thắng cảnh tươi đẹp của đất nước gắn với truyền thuyết riêng, tạo nên một thế giới cố tích huyền diệu. Nhưng có lẽ nét sâu sắc hơn, tài hoa hơn cả chính ở cái nhìn “đất nước của nhân dân” nên mỗi cảnh quan đất nước đều in dấu hình dáng con người: nhưng người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, người học trò nghèo, những người dân,... và cả đến những con vật gần gũi thân quen của cuộc sống con người (con cóc, con gà quê hương) cũng góp phần tô điểm vẻ đẹp dáng hình đất nước, nhân dân không chỉ bằng  những sinh hoạt của mình, cắt nghĩa các truyền thuyết, mà còn sáng tạo ra danh lam thắng cảnh đẹp đẽ, mang hồn thiêng núi sông, dân tộc. Thiên nhiên đất nước hiện lên chính là một phần máu thịt, tâm hồn của nhân dân. Từ đó, tác giả khái quát, nâng lên như một suy tư giàu chất triết luận:

                                Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

                                Chẳng mang một dáng hình một ao ước một lối sống ông cha.

                                Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

                                 Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.

     Vượt qua thời gian đằng đẵng, nhìn xa vào bốn ngàn năm đất nước, có bề lịch sừ hào hùng của đất nước như sống dậy. Ca dao xưa nói về nỗi nhớ quê hương qua những chi tiết thật bình dị của bữa cơm đạm bạc và bóng dáng dầm sương dãi nắng.

     Nhìn lại lịch sứ dài lâu của đất nước, ta thường khắc ghi các triều đại, ngợi ca  những anh hùng ghi danh trong trang sử vàng của dân tộc.

     Những cảm quan “Đất Nước của Nhân dân” như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, chi phối cái nhìn lịch sử của nhà thơ. Nhân dân là người sáng tạo ra đất nước, chiến đấu bảo vệ đất nước. Những cụm từ lấy ra trong ca dao, tục ngữ: “nuôi cái cùng con”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” tạo cho lời thơ sự hòa quyện rất gợi cảm. Nốt nhấn của khúc ca ca ngợi nhân dân chính là điểm sáng ngời trong phẩm chất nhân dân:

                                 Họ đã sống và chết

                                 Giản dị và bình tâm

                                 Không ai nhớ mặt đặt tên

                                 Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.

     Nhân dân trong quan niệm Nguyễn Khoa Điềm, là tập thể những người anh hùng vô danh. Họ sống giản dị, chết bình tâm, chiến đấu không phải để mang tên cho lịch sử mà vì một lẽ thiêng liêng, bình dị và cao cả: bảo vệ đất nước. Câu thơ ngắn, cô đúc nhưng lại chính là sự dồn nén của cảm xúc tác phẩm, ấn chứa biết bao xúc động chân thành trước những hi sinh thầm lặng, những đóng góp lớn lao của những con người vô danh, hiền lành và giản dị.

     Từ cái nhìn đầy tính phát hiện, tác giả nhấn mạnh vai trò của nhân dân. Nhân dân, bằng máu xương của mình đã chiến đấu bảo vệ gìn giữ đất nước, họ là những anh hùng chiến trận. Nhân dân, bằng lao động sáng tạo đã dựng xây đất nước, giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ Việt Nam mọi giá trị văn hóa, phẩm chất tinh thần: từ hạt lúa với nền văn minh lúa nước, ngọn lửa tạo nên bước tiến của loài người đến những của cải tinh thần quý báu như phong tục tập quán, giọng nói cha ông, tên xã, tên làng... họ là những anh hùng văn hóa. Nhân dân đã ấp iu qua nhiều thế hệ nhưng phẩm chất cao đẹp đúc kết trong những câu ca dao, tục ngữ đi vào lòng người, dễ thuộc dễ nhớ. Đó là cái gốc rễ mọi tình cảm đẹp, tình yêu thương, thể hiện trong câu ca dao hóm hỉnh:

                                                      Yêu em từ thuở trong nôi

                                                      Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru

     Đó là sự quý trọng công sức lao độmg:

                                                      Cầm vàng mà lội qua sông

                                                      Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng

      Đó còn là tinh thần bất khuất quật cường và lòng căm thù giặc sâu sắc:

Thù này ắt hẳn còn lâu

 Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què

     Sử dụng linh hoạt sáng tạo chất liệu ca dao của văn học dân gian, dường như có một sự đồng diệu và gặp nhau trong tâm hồn cha ông ngàn xưa và thế hệ hiện tại. Phải thấu hiểu, trân trọng giá trị văn hóa dân tộc thì tác giả mới có cái nhìn sâu sắc, mới mẻ ấy trong quan niệm “Đất Nước của Nhân dân”.

     Cảm hứng thơ dồn dập dâng trào đến đỉnh điểm từ đó bật lên điểm sáng cốt lõi trong quan niệm đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.

                                                      Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

                                                      Đất Nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại.

     Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh dòng sông đưa nước từ những phương trời xa tắm mát tâm hồn ta và vẻ đẹp cùa thiên nhiên, con người đất Việt “gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”. Phải chăng đó cũng chính là dòng sông của truyền thống lịch sử chảy về tự ngàn xưa, từ đó bồi đắp phù sa cho tâm hồn muôn thế hệ? Và lời thơ kết rung động lòng người bởi nó bật lên từ sự xúc động chân thành của trái tim thi sĩ: “Ta nghẹn ngào đất nước Việt Nam ơi!”. Cái “nghẹn ngào” của nhà thơ thật đáng quý, đáng trân trọng, đó là kết tinh của những cảm xúc mãnh liệt và suy tư, chiêm nghiệm sâu sắc về đất nước, về vai trò to lớn và vẻ đẹp cao cả của nhân dân, là tiếng lòng chân thành của cả thế hệ hướng tới nguồn cội dân tộc, tới truyền thông văn hóa, lịch sử vững bền mà nhân dân là người sáng tạo, bảo tồn và truyền lại cho con cháu mai sau.

     Có thể gọi Đất Nước là một tùy bút thơ của Nguyễn Khoa Điềm, trong đó tác giả không đơn thuần viết theo dòng chảy cảm xúc mà còn huy động vào thơ kho hiểu biết dồi dào trong tính tổng hợp về địa lí, lịch sử, văn hóa dân gian mà tâm điểm là văn học dân gian. Đoạn trích được xây dựng theo phương thức luận đề, chất “tư duy lôgic” dễ làm thơ mất đi chất “tươi xanh nhựa sống”, khô khan, chỉ tác động vào lí trí. Hơn nữa với vốn kiến thức phong phú tổng hợp khiến thơ dễ sa vào ước lệ, khô cứng như một bài diễn ca xã hội học. Nhưng không! Viết về đất nước, về một nguồn mạch cảm hứng lớn của thi ca nói chung và thơ cách mạng nói riêng, Nguyễn Khoa Điềm đã chiết xuất chất liệu văn hóa dân gian, đưa vào ngôn ngữ thơ những chi tiết hiện thực gần gũi, phổ biến, không chỉ quen thuộc trong nhận thức mà còn có sức lay động tình cảm sâu xa đối với mọi tâm hồn Việt Nam. Việc sử dụng khá dày, đậm nhưng cũng rất linh hoạt sáng tạo nguồn văn học dân gian tạo nên thế giới thơ bình dị, gắn bó máu thịt với tâm hồn người đọc và dễ đi vào lòng người bởi ngôn ngữ dân gian hồn hậu, trong sáng. Chính sách sử dụng ngôn ngữ này tạo sắc điệu thẩm mĩ và không khí riêng cho đoạn thơ, đồng thời thể hiện rõ nét tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” bởi nhân dân đã sáng tạo ra nền văn học dân gian giàu sức sống, thân quen gần gũi với mỗi người dân đất Việt.

     Mặt khác, chính cám xúc chân thành, mãnh liệt của thi nhân mang lại cho nhà thơ âm hưởng tha thiết, ngân vang, với nhiều giọng điệu lúc thì nồng nhiệt say mê, khi lại trầm lắng như trò chuyện, tâm tình về những nhận thức, cảm xúc về đất nước, nhân dân. Mỗi chi tiết, hình ảnh đưa ra đều thấm nhuần tâm hồn nhà thơ, khi thì là cảm nhận riêng tư, lúc lại chứa chan cảm xúc như hồi ức, một kỉ niệm. Sự kết. hợp hài hòa chất trữ tình và giọng chính luận cho đoạn thơ vẻ đẹp riêng độc đáo, thơ không xa lạ mà đi vào lòng người tiếng nói tình cảm xúc động chân thành mà vẫn thế hiện chất trí tuệ. Chúng ta trải nghiệm bản thân của một nhà thơ - chiến sĩ lăn mình trong khói lửa chiến tranh cùng với vốn văn hóa sâu rộng và tình cảm yêu thương đất nước, trân trọng, ca ngợi nhân dân đã tỏa sáng tư tưởng, tâm hồn thi nhân.

     Cũng viết về đề tài đất nước, thơ ta chống Mĩ không chỉ kế tục truyền thống yêu nước từ văn học giai đoạn trước và trực tiếp nhất là thơ ca chống Pháp mà còn có đóng góp làm phong phú, sâu sắc thêm nguồn cảm hứng dạt dào này. Nguyễn Trãi trước kia từng thấy được vai trò “lật thuyền mới biết dân như nước”, Phan Bội Châu từng viết “dân là dân nước, nước là nước dân”, nhưng phải đến Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” mới thể hiện rõ nét và được nâng lên thành cảm hứng nghệ thuật của thơ ca chống mỹ. Bằng những khám phá, phát hiện về chiều sâu văn hóa - lịch sử đất nước, sự gắn bó giữa truyền thống quá khứ và hiện tại, với con đường đi riêng: con đường của văn học dân gian gần gũi, kì diệu, tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm thấm vào từng hình tượng, ngôn ngữ với mối liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo và thông minh. Có thế nói đây là phần tinh túy nhất, sâu sắc nhất trong trường ca Mặt dường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm.

     Văn học chống Mĩ cũng có những cảm nhận sâu sắc về nhân dân, đặt nền tảng cho lòng yêu nước: Nguyễn Duy suy nghĩ về nhân dân qua một Hơi ấm ổ rơm- hay hình tượng Tre Việt Nam, còn Thanh Thảo trong trường ca Những người đi tới biển đã viết lên những lời ca xúc động nhất, về nhân dân:

                                                   Và cứ thế nhân dân thường ít nói

                                                   Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời

                                                   Và cứ thế nhân dân cao vời vợi

                                                   Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời

     Nhưng có lẽ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm với nhạc điệu “Đất Nước của thần thoại” để sáng lên tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” rất độc đáo là nốt nhạc ngân vang trong bản hòa điệu của thơ ca kháng chiến, thể hiện tâm  hồn cảm xúc thi nhân trước vẻ đẹp văn hóa dân tộc, tư tưởng ấy đến nay còn tươi nguyên giá trị của nó bởi trách nhiệm “hóa thân cho dáng hình xứ sở" là vấn đề muôn đời của thơ ca và cuộc sống.

 

 

Bình luận (0)