Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
gay phan
Xem chi tiết
Windy
27 tháng 9 2017 lúc 22:08

1.

Hồi kí là một thể loại thuộc loại hình kí kể lại những biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hoặc chứng kiến… Người viết hồi kí chỉ tiếp nhận và ghi chép phần hiện thức mà tác giả nhìn rõ hơn cả dựa trên cơ sở những ấn tượng và hồi ức riêng trực tiếp của mình. Hơn nữa, bản thân người viết hồi kí luôn luôn được mô tả trình bày ở bình diện thứ nhất.

Windy
27 tháng 9 2017 lúc 22:09

2.

Chất trữ tình của một tác phẩm thường được toát lên từ các phương diện: đối tượng, nội dung và phương thức thể hiện. Có thể phân tích chất trữ tình của đoạn trích Trong lòng mẹ qua những mặt cụ thể sau:

- Đối tượng, nội dung thể hiện:

+ Tình huống và nội dung câu chuyện.

+ Dòng cảm xúc phong phú của chú bé Hồng. Trong quá trình diễn biến này, mọi cảm xúc (nỗi xót xa tủi nhục, lòng căm giận sâu sắc, quyết liệt, tình yêu thương nồng nàn, thắm thiết) đều bị dồn nén rồi được đẩy lên ngày một cao và đến cực điểm.

- Phương thức thể hiện:

+ Kết hợp nhuần nhuyễn giữa kể với bộc lộ cảm xúc.

+ Các hình ảnh thể hiện tâm trạng: các so sánh đều gây ấn tượng và giàu sức gợi cảm.

+ Lời văn giàu cảm xúc; nhiều khi mê say khác thường.

Nguyễn Thị Thủy
8 tháng 12 2017 lúc 20:18

mk nghi la ban nen thu suy nghi xem va mk cug ko biet lamleuleu

tran viet duc
Xem chi tiết

trich trong van bản bài học đường đời đầu tiên tác giả là Tô Hoài

phương thức biểu đạt là tự sự

thuộc thể loại truyện ngắn

xem lại đề bài câu D,E

tran viet duc
Xem chi tiết
Nguyễn Vũ Gia Hân
17 tháng 3 2021 lúc 21:48

Đoạn trích đâu ạ

Nguyen Ha Phuong
Xem chi tiết
Lưu Hạ Vy
6 tháng 2 2017 lúc 19:44

Lúc hoàng hôn, khi vầng thái dương sắp khuất sau ngọn núi, dòng sông của em mang một màu đỏ sẫm, rất đẹp. Những đàn cá cung vội vã trở về "nhà" bơi thật nhanh làm xao động cả mặt nước. Còn buổi tối cũng thật là đẹp, nhất là vào các đêm trăng sáng. Trăng sáng ngời, tròn vành vạnh như một chiếc đĩa vàng, soi bóng xuống dòng sông. Dòng sông nhận được ánh sáng dìu dịu của trăng trở nên bàng bạc, lấp lánh. Gió thổi lồng lộng, mát mẻ vô cùng. Em ngồi đó, say mê nhìn sông, nhìn dòng sông yêu dấu của em.

tran viet duc
Xem chi tiết
Dương Thị Hồng Nhung
Xem chi tiết
Chibi Usa
16 tháng 10 2017 lúc 15:01

Ngay từ khi mới xuất hiện trên văn đàn nước ta vào những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945, nhà văn Nguyên Hồng đã được bạn đọc yêu quý. Bởi vì, ngay từ những tác phẩm đầu tay, nhà văn đã hướng ngòi bút về những người cùng khổ, gần gũi mà ông yêu thương với trái tim thắm thiết của mình. Đọc văn Nguyên Hồng, chúng ta bắt gặp bao nhiêu người cùng khổ đáng cảm thông, đáng yêu thương và trân trọng. Trong đó, nổi bật là những người bà, người mẹ, người chị, những cô bé, cậu bé,… Có nhà nghiên cứu đã nhận định : Nguyên Hồng là nhà văn của phụ nữ và nhi đồng. Đọc đoạn trích Trong lòng mẹ – chương IV – hồi kí Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, chúng ta bắt gặp hai người phụ nữ và một thiếu niên. Cả ba nhân vật đều được nhà văn khắc hoạ bằng một ngòi bút chận thực, với một trái tim nhạy cảm. Tinh cảm bao trùm toàn bộ đoạn văn là lòng mẹ dịu êm, tình con cháy bỏng, đầy ấn tượng.

Tuy chỉ là một chương thuộc phần giữa của thiên hồi kí chín chương, nhưng đoạn trích được bỗ cục khá chật chẽ, rành mạch, tương đương một truyện ngắn. Phần mở bài (từ đầu đến "… sống bằng cách đó"), nêu cảnh ngộ éo le của chú bé Hồng : cha vừa mất, mẹ bỏ nhà đi tha hương cầu thực. Phần thân bài (từ "Một hôm…" đến "… thơm tho lạ thường") kể câu chuyện : mặc dù bị người cô châm chọc, khích bác, Hồng vẫn tin yêu mẹ, nên cuối cùng đã được gặp lại mẹ, được sống trong lòng mẹ dịu êm, chứa chan hạnh phúc. Đoạn kết bài ("Phải bé lại… không mảy may nghĩ ngợi gì nữa") nhấn mạnh niềm hạnh phúc của tình mẫu tử. Lần theo câu chuyện về một chặng đời thơ ấu của Nguyên Hồng – cũng là cuộc đời của biết bao em bé khổ đau trong xã hội bấy giờ – chúng ta thấy nổi bật lên hai tình huống truyện, gắn với tâm trạng tính cách ba nhân vật : nhân vật bà cô, nhân vật bé Hổng và nhân vật người mẹ.

Qua cuộc đối thoại giữa hai cô cháu ở phần thứ nhất của thân bài, nhân vật bà cô hiện lên là một người phụ nữ mang tâm địa độc ác. Mở đầu câu chuyện, bà cô gọi bé Hồng, cười hỏi : "Mày có muốn vào Thanh Hoá chơi với mẹ mày không ?". Sao lại cười hỏi mà không phải là lo lắng hỏi, nghiêm trang hỏi, hoặc âu yếm hỏi,… ? Nụ cười nửa miệng và câu hỏi thăm dò kia tưởng đã chạm tới nỗi nhớ và tình thương mẹ của chú bé khốn khổ. Nhưng không, chỉ trong giây lát, Hồng đã "nhận ra những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch kia". Điều đó nghĩa là bề ngoài, bà cô ra vẻ quan tâm đến tình cảm mẹ con của đứa cháu côi cút, thực chất bên trong bà ta chỉ gieo rắc vào đầu đứa trẻ nỗi hoài nghi, rồi ruồng rẫy người mẹ đang phải tha hương cầu thực. Sau khi nghe cháu đáp : "Không ! Cháu không muốn vào. Cuối năm thế nào mợ cháu cũng về.", một lời đáp cứng cỏi, đầy niềm tin đối với mẹ, thì bà cô hỏi luôn, giọng ngọt, kèm theo cái nhìn bằng đôi mắt long lanh, chằm chặp : "Sao lại không vào ? Mợ mày phát tài lắm, có như dạo trước đâu !". Nói câu này, bà cô như ngầm báo với Hồng rằng mẹ của chú bé đã thay lòng đổi dạ, không thương con, không gắn bó với gia đình như trước nữa. Khi thấy cháu im lặng, cúi đầu xuống đất, bà cô hẳn biết rằng lòng cháu đang thắt lại. Nhưng bà vẫn chưa tha, tiếp tục cười mà nói : "Mày… cứ vào đi, tao chạy cho tiền tàu. Vào mà bắt mợ mày may vá sắm sửa cho và thăm em bé chứ". Cái cử chỉ vỗ vai, cái nụ cười và lời nói ấy mới giả dối, độc ác làm sao ! Điêu này chứng tỏ bà ta cố ý lôi đứa cháu đáng thương vào một trò chơi cay độc của người lớn. Đến đây, bà cô không chỉ cay độc, mà còn châm chọc, nhục mạ cháu. Thật cay đắng biết bao khi niềm tin và tình mẫu tử bị người khác – lại chính là cô mình, người gắn bó với mình bằng tình máu mủ – cứ săm soi hành hạ. Nguyên Hồng đã kể lại vô cùng chân thực nỗi đau của đứa trẻ bị hành hạ bàng một giọng văn trĩu nặng tình đời : "Nước mất tôi ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và ở cổ. Hai tiếng em bé mà cô tôi ngân dài ra thật ngọt, thật rõ, quả nhiên đã xoắn chặt lấy tâm can tôi như ý cô tôi muốn". Cái ý định nói xấu người mẹ, chia rẽ tình mẹ con của nhân vật bà cô như vậy đã đến đích. Song bà ta vẫn chưa thoả lòng. Cả đến khi chú bé phẫn uất, nức nở cười dài trong tiếng khóc, bà cô vẫn không mảy may xúc động. Bà ta như vô cảm, lạnh lùng và có phần thích thú trước nỗi đắng cay như bị xát muối trong lòng của đứa cháu. Bà ta cứ tươi cười kể các chuyện… Tinh cảnh túng quẫn, hình ảnh gầy guộc, rách rưới của người mẹ chú bé được bà cô miêu tả một cách tỉ mỉ với vẻ thích thú rõ rệt. Cho đến khi nhìn thấy đứa cháu nghẹn lời, khóc không ra tiếng, bà cô mới đổi giọng nghiêm nghị và vỗ vai an ủi cháu, tỏ một chút xót thương người anh trai vừa khuất, thương hại người chị dâu khổ sở, nói tới ngày giỗ anh, nói tới việc nhắn chị dâu về, nói tới cái sĩ diện của đứa cháu,… Vài lời vớuvát cuối cùng ấy tuy làm dịu đi đôi phần nỗi đau tình mẫu tử trong tâm hồn chú bé Hồng, nhưng không xoá nổi những nét bản chất trong tính cách nhân vật bà cô. Đó là một người phụ nữ lạnh lùng, độc ác, thâm hiểm. Khắc hoạ nhân vật một bà cô như thế, nhà văn Nguyên Hồng đã chân thành và mạnh dạn phê phán những người sống tàn nhẫn, khô héo cả tình máu mủ, ruột rà trong xã hội thực dân nửa phong kiến bấy giờ. Câu tục ngữ cổ xưa của cha ông ta "Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng" dường như đã ứng nghiệm trong nhân vật bà cô ở đoạn trích này. Đọc văn Nguyên Hồng, suy ngẫm về lời cha ông, chúng ta mong rằng những bà cô của chúng ta ngày nay sẽ khác những bà cô ngày xưa…

Trái ngược với hình ảnh nhân vật bà cô là hình ảnh người mẹ (cũng là một phụ nữ) và nhân vật "tôi", bé Hồng, một thiếu nhi. Cả hai đều rất đáng thông cảm và mến thương. Trước hết chúng ta hãy ngắm nhìn và suy ngẫm về hình ảnh người mẹ. Không đợi con trai viết thư và chắc cũng chẳng cần cô em chồng nhờ người nhắn gọi về, mẹ của Hồng đã trở về nhà vào đúng "ngày giỗ đầu thầy tôi", nghĩa là người phụ nữ ấy không quên tình nghĩa và trách nhiệm đối với con, với chồng và gia đình chồng. "Mẹ tôi về một mình đem rất nhiều quà bánh… Xe chạy chầm chậm. Mẹ tôi cầm nón vẫy tôi… Mẹ tôi vừa kéo tay tôi… xoa đầu tôi… Mợ đã về với các con rồi mà… Mẹ thấm nước mắt cho tôi rồi xốc nách tôi lên xe…". Tư thế ấy, những cử chỉ ấy và lời nói ấy mới đàng hoàng làm sao, đẹp đẽ làm sao. Đẹp hơn nữa là hình hài của mẹ, sự ân cần, âu yếm mà mẹ dành cho con. Nhà văn đã dành những lời đẹp nhất miêu tả người mẹ : "… Mẹ tôi không còm cõi xơ xác quá như cô tôi nhắc lại lời người họ nội của tôi. Gương mặt mẹ tôi vẫn tươi sáng với đôi mất trong và nước da mịn, làm nổi bật màu hồng của hai gò má…". Trên quãng đường ngắn, ngồi xe tay bên đứa con trai bé bỏng côi cút, được ôm ấp cái hình hài máu mủ của mình, người mẹ đã trẻ lại, tươi đẹp như thuở nào. Và người mẹ ấy đã truyền cho đứa con bao nhiêu là niềm vui, hạnh phúc, thật… êm dịu vô cùng, đúng như lời kể của nhà văn. Rõ ràng, hình ảnh và tấm lòng người mẹ ấy hoàn toàn không như những lời xúc xiểm, những ý nghĩ cay độc, thành kiến của bà cô. Sau nhân vật bà cô, khắc hoạ chỉ bằng vài nét chấm phá giản dị nhân vật người mẹ như thế, phải chăng nhà văn muốn gợi cho người đọc sự đối sánh về chân dung những người phụ nữ Việt Nam thời bấy giờ. Và cũng từ đó, nhà văn bày tỏ thái độ yêu ghét rõ ràng mà chủ yếu là nỗi đau và tình thương, thương những lầm lỡ của con người, thương kiếp người gặp nhiều gian truân, tủi cực.

Bên cạnh nhân vật người mẹ mang nhiều nét đẹp, nhân vật chú bé Hồng hiện lên với biết bao suy nghĩ và cảm xúc, cũng thật là đẹp, đáng chia sẻ, đáng trân trọng. Qua nhân vật này, chúng ta không chỉ cảm nhận những cung bậc tâm trạng của một chú bé rất mực tin yêu mẹ mà còn hiểu cụ thể, sâu sắc những nét đặc trưng của thể văn hồi kí, một thể văn đậm chất trữ tình. Chất trữ tình thống thiết của ngòi bút Nguyên Hồng thể hiện bằng lời kể của nhân vật "tôi" (tức bé Hồng) với những diễn biến tâm trạng theo trình tự thời gian trong hai mối quan hệ : quan hệ với bà cô và quan hộ với người mẹ, rất cụ thể.

Khi nói chuyện với bà cô, bé Hồng chịu bao nhiêu đau đớn, uất ức, nhưng vẫn một lòng tin yêu mẹ. Nghe lời nói thứ nhất của bà cô, lập tức trong kí ức chú bé sống dậy hình ảnh người mẹ ở nơi xa, cơ cực, vất vả. Từ cử chỉ "cúi đầu không đáp" đến lúc cười và đáp lại : "cuối năm thế nào mợ cháu cũng về" là một phản ứng thông minh xuất phát từ sự nhạy cảm và lòng tin yêu mẹ của chú bé. Chú đã nhanh chóng nhận ra ý nghĩa cay độc trong lời bà cô và cố gắng giữ vững tình thương yêu và lòng kính mến mẹ. Nhưng vì tuổi thơ non nớt, nên đến lời nói thứ hai, thứ ba của bà cô, lòng chú bé "càng thất lại, .khoé mắt đã cay cay", rồi "nước mắt ròng ròng, rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và ở cổ…". Nỗi đau, sự day dứt đã lên đến đỉnh cao. Trong tâm hồn non nớt ấy, diễn ra một mâu thuẫn : "Tôi thương mẹ tôi và căm tức sao mẹ tôi lại vì sợ hãi những thành kiến tàn ác mà xa lìa anh em tôi, để sinh nở một cách giấu giếm…". Tinh thương, niềm tin yêu và một chút ngờ vực đối với người mẹ như dang nổi bão, giằng xé trong lòng chú bé. Nhưng chú vẫn cố kìm nén để giữ vững tình yêu và niềm tin. Vì thế, bé Hồng đã "cười dài trong tiếng khóc" hỏi lại bà cô về cái tin sét đánh kia. Nỗi uất ức và đau đớn như chuyển sang trạng thái chai lì, bướng bỉnh. Khi nghe bà cô tươi cười kể lể tình cảnh khốn khổ của mẹ mình thì "cổ họng tôi đã nghẹn ứ khóc không ra tiếng". Và một ý nghĩ táo tợn bất cần, đầy phẫn nộ đã trào sôi như cơn dông tố trong lòng chú bé : "Giá những cổ tục đã đày đoạ mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thuỷ tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi". Một câu văn biểu cảm và một hình ảnh so sánh đặc sắc! Nguyên Hồng đã sử dụng các từ cắn, nhai, nghiến,… nằm trong rnột trường nghĩa đặc tả tâm trạng uất ức, căm giận của nhân vật. Đến đây, tình thương và niềm tin đối với mẹ đã xui khiến người con hiếu đễ ấy suy nghĩ sâu hơn, xúc cảm rộng hơn. Từ cảnh ngộ riêng của người mẹ, từ những lời nói kích động của người cô, bé

Hồng nghĩ tới những "cổ tục", căm giận cái xã hội cũ kĩ đầy đố kị, thành kiến độc ác đối với những người phụ nữ gặp hoàn cảnh éo le. Từ câu chuyện riêng của đời mình, Nguyên Hồng đã truyền tới người đọc những nội dung mang ý nghĩa xã hội bằng những dòng văn giàu cảm xúc và có hình ảnh, rất ấn tượng. Qua cuộc đối thoại và những cung bậc cảm xúc của bé Hồng trước bà cô, chúng ta thông cảm với những nỗi đau thấm thìa, đồng thời rất trân trọng một bản lĩnh cứng cỏi, một tấm lòng thiết tha của người con rất mực thương và tin yêu mẹ. ;

Nhờ tình thương và niềm tin ấy, đến khi gặp mẹ, bé Hồng đã nhận được niềm sung sướng, hạnh phúc lớn lao. Như trên ta đã biết, người mẹ của bé Hồng trở về đúng thời điểm quan trọng nhất, đã xua tan mọi đau đớn, dằn vặt trong tâm hồn chú bé. Mới chỉ thoáng thấy một bóng người giống mẹ, chú bé Hồng đã vội vã, bối rối, vừa chạy theo vừa gọi mẹ. Được ngồi lên xe cùng mẹ, chú bé "oà lên khóc rồi cứ thế nức nở" khiến cho người mẹ cũng "sụt sùi theo". Ba từ oà, nức nở, sụt sùi cùng trường nghĩa, nối nhau miêu tả các dạng thức đặc biệt của tiếng khóc, của những dòng lệ. Đây là âm thanh, là nước mắt của biết bao nỗi niềm, tâm trạng hai mẹ con : tủi hận, tự hào, bàng hoàng, sung sướng,… Cảm giác sung sướng của đứa con khi được ngồi kề bên mẹ, được ôm ấp trong lòng mẹ cứ dâng lên từng giây, từng phút. Trước hết, chú được tận mắt nhìn thấy mẹ, "nhận ra mẹ tôi không còm cõi xơ xác quá… Gương mặt mẹ tôi vẫn tươi sáng với đôi mắt trong và nước da mịn, làm nổi bật màu hồng của hai gò má…". Có được một người mẹ như thế, chú bé nào chẳng vui sướng, tự hào, huống chi là bé Hồng, đứa trẻ côi cút từng mong gặp lại mẹ đến cháy lòng, cháy ruột, từng phải dấu tranh với người khác cố ý nói xấu mẹ mình, chia rẽ tình mẹ con. Tiếp sau, chú bé được mẹ ôm ấp "đùi áp đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi,… hơi quần áo mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm tho lạ thường…". Chỉ một đoạn văn ngắn mà nhà văn đã sử dụng dồn dập bao động từ, tính từ, nhất là những danh từ cùng trường nghĩa : ỹương mặt, đôi mắt, nước da, gò má, đùi, đầu, cánh tay, da thịt, khuôn miệng,… miêu tả vô cùng sinh động niềm hạnh phúc lớn lao tưởng như tới đỉnh điểm của tình mẫu tử. Đây thực sự là những cảm giác "mơn man" ngây ngất, đắm say mà vô cùng êm dịu của tình máu mủ, ruột thịt mà những đứa trẻ bất hạnh không dễ gì có được. Nhà văn đã dựng lại một bức tranh tràn ngập ánh sáng, đường nét rõ ràng, hài hoà, trong đó là những sắc màu tươi tắn, thoang thoảng hương thơm. Đó là một hình ảnh về một thế giới đang bừng nở, hồi sinh, một thế giới dịu dàng kỉ niệm, ãm ắp tình.



dam thu a
Xem chi tiết
hoàng thị thu hương
14 tháng 9 2018 lúc 18:03

cha mẹ là người yêu ta nhất,bổn p của con cái:

-yêu mến cha mẹ,bt vâng lời.

ko cãi ngang cãi dọc khi mk sai

lm cho cha mẹ vui,đửng lúc nào cx game lm cha mẹ buồn

Hami Vu
Xem chi tiết
Suzanna Dezaki
18 tháng 3 2021 lúc 18:36

Ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình.Ông yêu quí và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng. Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng, theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu .

Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách. Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật. Đó là tin làng chợ Dầu lập tề theo giặc. Từ phòng thông tin ra, đang phấn chấn, náo nức vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư,nghe nhắc đến tên làng, ông Hai quay phắt lại, lắp bắp hỏi, hy vọng được nghe những tin tốt lành, nào ngờ biết tin dữ: "Cả làng Việt gian theo Tây ". Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông bàng hoàng, đau đớn : "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân ,ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ. Ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi "nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là sự thật. Trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư,ông tìm cách lảng về. Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái :"cha mẹ tiên sư nhà chúng nó, đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương, cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát".

Về đến nhà ông chán chường "nằm vật ra giường", nhìn đàn con nước mắt ông cứ giàn ra " chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?". Ông căm thù những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: "chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này ". Niềm tin, nỗi ngờ giằng xé trong ông. Ông kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả "có đời nào lại cam tâm làm cái điều nhục nhã ấy ". Ông đau xót nghĩ đến cảnh "người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước".Suốt mấy ngày liền ông chẳng dám đi đâu,"chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình", lúc nào cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý, đang bàn tán đến cái chuyện làng mình. Nỗi ám ảnh, day dứt, nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông. Ông đau đớn, tủi hổ như chính ông là người có lỗi...

Tình thế của ông càng trở nên bế tắc, tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của làng Việt gian. Trong lúc tưởng tuyệt đường sinh sống ấy,ông thoáng có ý nghĩ quay về làng nhưng rồi lại gạt phắt ngay bởi "về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ là "cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây".

 

Tình yêu làng lúc này đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu, niềm tin và tự hào về làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin và Cụ Hồ và cuộc kháng chiến không hề phai nhạt. Ông Hai đã lựa chọn một cách đau đớn và dứt khoát: "Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!". Dù đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình đối với quê hương. Bởì thế mà ông càng xót xa,đau đớn...

Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn biết tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với đứa con trai nhỏ. Nói với con mà thực ra là đang trút nỗi lòng mình. Ông hỏi con những điều đã biết trước câu trả lời:"Thế nhà con ở đâu?", "thế con ủng hộ ai ?". Lời đứa con vang lên trong ông thiêng liêng mà giản dị:"Nhà ta ở làng Chợ Dầu","ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm !". Những điều ấy ông đã biết, vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm. Ông mong "anh em đồng chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy,có bao giờ dám đơn sai,chết thì chết có bao giờ dám đơn sai ". Những suy nghĩ của ông như những lời nguyện thề son sắt. Ông xúc động, nước mắt "chảy ròng ròng trên hai má". Tấm lòng của ông với làng,với nước thật sâu nặng,thiêng liêng. Dẫu cả làng Việt gian thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng chiến,với Cụ Hồ .

May thay, tin đồn thất thiệt về làng Chợ Dầu được cải chính. Ông Hai sung sướng như được sống lại. Ông đóng khăn áo chỉnh tề đi với người báo tin và khi trở về "cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên ". Ông mua cho con bánh rán đường rồi vội vã,lật đật đi khoe với mọi người. Đến đâu cũng chỉ mấy câu"Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ !Đốt sạch !Đốt nhẵn ! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính. Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo Tây ấy mà. Láo!Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả." "Ông cứ múa tay lên mà khoe với mọi người". Ông khoe nhà mình bị đốt sạch, đốt nhẵn như là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc, thậm chí còn rất sung sướng,hạnh phúc. Bởi lẽ,trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là sự hồi sinh về danh dự của làng chợ Dầu anh dũng kháng chiến. Đó là một niềm vui kỳ lạ,thể hiện một cách đau xót và cảm động tình yêu làng, yêu nước, tinh thần hy sinh vì cách mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.

Cách miêu tả chân thực, sinh động, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng, tự nhiên như cuộc sống cùng với những mâu thuẫn căng thẳng, dồn đẩy, bức bối đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.

Qua nhân vật ông Hai ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến. Có lẽ vì thế mà tác phẩm "Làng " xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.

 

hien nguyen thi
Xem chi tiết
Thời Sênh
7 tháng 12 2018 lúc 19:47

Lòng yêu nước được hình thành trên cơ sở những biểu hiện hết sức cụ thể, từ những việc làm nhỏ nhặt nhất.

Hình ảnh so sánh: “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Von-ga, con sông Von-ga đi ra biển” cũng giống như “lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu tổ quốc”.

Con người sinh ra, lớn lên trong môi trường rất cụ thể (gia đình, làng xóm, khu phố,...). Đó là những con người những cảnh vật gần gũi nhất, thân thuộc nhất. Không có tình yêu đối với những con người đã có công sinh đẻ và nuôi dưỡng mình khôn lớn thì không thể có tình yêu nhân dân rộng lớn. Không có tình yêu đối với những cảnh vật gắn bó với mình suốt tuổi ấu thơ và trong cả cuộc đời thì không thể có tình yêu đất nước (Dẫn chứng một vài biểu hiện cụ thể của con người thực hoặc các nhân vật trong tác phẩm văn chương).

Nói yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê là yêu tổ quốc còn ý nghĩa đả phá một thứ “lòng yêu nước” mơ hồ, trừu tượng, chỉ nói “yêu nước” chung chung, rỗng tuếch mà không thấy cần biểu hiện bằng những tình cảm, những việc làm hết sức cụ thể, gần gũi (Nêu một vài dẫn chứng phản diện mà em có thể biết)

Đất nước ta còn nghèo, gặp muôn vàn khó khăn trên bước đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chiến tranh kéo dài gây bao tổn thất về người và của. Nhiều mặt tiêu cực chưa được khắc phục đã hạn chế thành quả chung. Xác định trách nhiệm của bản thân.

Rất tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc. Tin tưởng ở sự quvết tâm đổi mới của Đảng hiện nay đểđưa đất nước tiến lên.

Yêu thương những con người gần gũi nhất: ông, bà, cha mẹ, anh chị em, chú bác, thầy giáo, cô giáo, bạn bè... Yêu thương phải biểu hiện cụ thể bằng thái độ chăm sóc, giúp đỡ, vâng lời, lễ độ... Tóm lại phải biết sống vì mọi người, không thể chỉ đòi hỏi mọi người phải quan tâm chăm sóc đến mình. (Liên hệ với những sai sót đã mắc, nêu suy nghĩ mới).

Yêu quý và có ý thức giữ gìn những vật bình thường nhất, gần gũi nhất trong đời sống: Đồ dùng trong nhà, tài sản nơi công cộng, khu phố, làng xóm mình sống... (Liên hệ cụ thểnhững sai sót trước đây, nêu phương hướng sửa chữa).

Khi còn ngồi trên ghếnhà trường phải biểu hiện cụ thể bằng những việc làm thiết thực như chăm học, chăm lao động rèn luyện mình trở thành người công dân tốt, tham gia tích cực vào mọi hoạt động công ích do nhà trường và địa phương tổ chức...

Trên cơ sở đó, mở rộng ra tình yêu nhân dân, đất nước nói chung, nhận thức rõ lòng yêu nước ngày nay không thể tách rời với tình yêu chủ nghĩa xã hội, ý thức góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cao hơn nữa: tình yêu quốc tế vô sản

hien nguyen thi
7 tháng 12 2018 lúc 19:44

lam nhanh nha mai minh nop roi con may tieng thoi cau xin cac ban dokhocroi

Thảo Phương
8 tháng 12 2018 lúc 20:25

Mở đầu là đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của đảo Cô Tô sau cơn bão. Cô Tô hiện lên thật trong sáng, tinh khôi trong buổi sáng đẹp trời: Bầu trời trong sáng, cây thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc, đậm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa. Ngỡ như đất trời biển Cô Tô được rửa sạch, được tái tạo để hoá thành một cảnh sắc trong sáng tuyệt vời. Để “vẽ” được bức tranh toàn cảnh của đảo Cô Tô sau cơn bão, tác giả phải công phu lắm mới chọn được những hình ảnh tiêu biểu: Bầu trời, nước biển, cây trên đảo, bãi cát, và đi với những hình ảnh ấy là một loạt tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng: bầu trời thì trong trẻo, sáng sủa, cây trên biển thì xanh mượt, nước biển lam biếc, cát lại vàng giòn. Có được cảnh sắc đẹp như vậy là do nhà văn đã chọn được vị trí quan sát từ trên điểm cao trên nóc đồn để nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng, quay gót 180 độ mà ngắm, toàn cảnh đảo Cô Tô... mà càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng để ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây. Sau cơn bão, thiên nhiên ở đảo Cô Tô hiện lên thật là đẹp. Phải chăng bức tranh đảo Cô Tô đẹp bởi có tình người của Nguyễn Tuân.