Nêu suy nghĩ của em về nghệ thuật châm biếm đả kích của Nguyễn Aí Quốc qua văn bản : Thuế máu
Phân tích nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả trong văn bản “Thuế máu” thể hiện qua cách xây dựng hình ảnh, qua giọng điệu.
Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả thể hiện chủ yếu qua các phương diện sau :
- Xây dựng, đưa vào những hình ảnh chân thực phản ánh chính xác thực trạng, có sức tố cáo mạnh mẽ.
- Sự đồng cảm trước tình cảm khốn cùng thảm thương của người dân thuộc địa.
- Dùng câu hỏi tu từ với mục đích đập tan luận điệu xảo trá đến trơ trẽn của chính quyền Đông Dương.
- Giọng điệu trào phúng, châm biếm, mỉa mai để nói lên bản chất bọn thực dân: “Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa “con yêu”, những người “bạn hiền” của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu...”, đùng một cái... được phong cho cái danh hiệu tối cao là “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”
Nghệ thuật châm biếm, đả kích trong truyện ngắn Vi hành của Nguyễn Ái Quốc.
Lập dàn ý
Mở bài
Giới thiệu truyện ngắn “Vi hành” của Nguyễn Ái Quốc thực chất châm biếm, đả kích sự bất tài, bù nhìn của vua Khải Định và bản chất bọn mật thám Pháp trong chuyến công du của vua Khải Định
Thân bài
- Châm biếm, đả kích tập trung vào các phương diện:
+ Khải Định là thành một tên hề có mày da khác lạ, ăn mặc kệch cỡm
+ Vua mà có hành động như kẻ gian, lén lút, đáng ngờ
+ Mật thám Pháp thành người “phục vụ tạn tụy” (bám lấy đế giày) với cái nhìn hồ đồ, lẫn lộn
- Cách sử dụng ngôn ngữ của Người có sự châm biếm, đả kích sâu cay trong đó
+ Xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại, và miêu tả
Kết bài: Truyện ngắn Vi hành thành công khi lột trần được bản chất của kẻ bán nước và cướp nước bằng giọng mỉa mai, châm biếm
Đả kích thói bịp bợm, lố lăng của Khải Định và những tên tay sai thực dân
Nhận xét về trình tự bố cục các phần trong chương. Phân tích nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả thể hiện qua cách xây dựng hình ảnh, qua giọng điệu.
Bố cục của các phần trong chương được kết cấu theo:
+ Trình tự thời gian: trước, trong, và sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
+ Các chương tập trung tố cáo tội ác của việc bắt lính phục vị chiến tranh, tố cáo sự lừa bịp trơ trẽn, dã man của bọn thống trị.
+ Làm nổi bật sự mâu thuẫn, dối trá của bọn thực dân giữa lời nói và việc làm.
+ Thảm cảnh chết oan thê thảm của người dân "bản xứ".
- Nghệ thuật: châm biếm, đả kích sắc xảo của tác giả thể hiện chủ yếu qua:
+ Đưa vào những hình ảnh chân thực phản ánh chính xác thực trạng, có sức tố cáo mạnh mẽ.
+ Ngôn từ của tác giả sâu sắc khi châm biếm, đả kích chính sách và giọng điệu lừa bịp của bọn thực dân: ngôn ngữ có sức gợi hình.
+ Sự đồng cảm trước tình cảm khốn cùng thảm thương của người dân thuộc địa.
+ Dùng câu hỏi tu từ với mục đích đập tan luận điệu xảo trá đến trơ trẽn của chính quyền Đông Dương.
→ Nghệ thuật văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc ngắn gọn, xúc tích, bằng chứng thuyết phục, đa dạng về cách nói. Văn chính luận mà hàm chứa tình cảm, giàu hình ảnh.
Nêu suy nghĩ của em về nghệ thuật châm biếm đả kích sâu sắc của tác giả
Bác Hồ không chỉ là một vị lãnh tụ tài ba, Bác còn là một nhà thơ một nhà văn hóa lớn đầy bản lĩnh cũng như là tấm lòng nhân ái biết bao. Bên cạnh thơ ca thì bác cũng viết nhiều truyện và truyện ngắn “Vi hành” là một trong những truyện ngắn châm biếm sâu cay đả kích vua bù nhìn Khải Đinh trong một chuyến thăm Pháp năm 1922
Truyện ngắn “Vi hành” đã như kể về chuyến xe điện ngầm đôi trai gái người Pháp nhìn thấy nhân vật tôi chính là người kể chuyện, và đó chính là một người An Nam nên tưởng đó là vua Khải Định và dường như đã coi hắn như một trò giải trí rẻ tiền. Có thể thấy đôi trai gái xuống tàu người kể chuyện nhớ về ngày ấu thơ về câu chuyện của các ông vua rồi như đã liên hệ về cuộc vi hành mờ ám vì mục đích riêng của vua Khải định. Ta có thể thấy chính tác giả cũng kể về sự nhầm lẫn của người Pháp của chính quyền thực dân . Tác phẩm đặc sắc “Vi hành” như cũng đã châm biếm và đả kích sâu sắc chuyến Vi hành này của tác giả . Đó có thể chính là nội dung chủ yếu của cốt truyện Vi hành.
Dường như ta thấu nghệ thuật châm biếm đả kích được thể hiện ngay từ đầu tác phẩm khi tác giả tạo tình hống gây nhầm lẫn. Và đó là việc một đôi nam nữ Pháp trên tàu điện ngầm ở Pa-ri tưởng tác giả hay đó còn chính là nhân vật tôi trong truyện là vua Khải Định. Có lẽ đôi trai gái tưởng nhầm Bác là Khải Định , tất cả người dân Pháp lúc này cúng đã tưởng tất cả những người da vàng trên đất nước Pháp đều là ông vua bù nhìn vua Khải Định và một điều nực cười hơn nữa đó chính là mời vua Khải Định sang Pháp nhưng cũng không biết đâu là vua Khải Định nữa. Có lẽ chính cái sự nhầm lẫn mà tác giả nói đến trong truyện cũng không thể nói là không có cơ sở của nó được khi mà đã được họ khó mà phân biệt được những khuân mặt khác nhau của chúng ta. Và vẫn cái nước da vàng vẫn cái mũi tẹt và vẫn cái mắt sếch vẫn cái mặt bủng beo và khô như vỏ chanh ấy thì để nhận diện một người nước Nam dường như là một điều thật khó cho họ . Nhưng dường như ta có điều cái sự nhầm lẫn của đôi trai gái ấy khiến cho Bác đã thấy thú vị khi được nghe câu chuyện của đôi trai gái ấy và câu chuyện nói đến vua Khải Định và cũng đã khiến cho hình tượng nhân vật Khải Định tuy không trực tiếp xuất hiện nhưng dường như cũng khiến cho người đọc thấy được chân dung con người hắn. Có thể thấy được rằng chính tình huống nhầm lẫn ở đây như muốn nói lên rằng đó chính là người Pháp họ nói và nghĩ về Khải Định đấy chứ. Nhưng thực chất hình thức viết thư cũng lại muốn khẳng định rằng họ đã nói thật là đúng và “tôi” còn thấy tên vua kia tồi tệ hom, đáng khinh hơn nhiều nữa. Có lẽ ở đây ta thấy được tạo tình huống gây nhầm lẫn đó chính là biện pháp nghệ thuật cơ bản nhất của truyện ngắn “Vi hành”.
Ta có thể nhận thấy chính tình huống truyện như vậy thật độc đáo đẩy câu chuyện lên mức hài hước hơn bao giờ hết và còn rất giàu kịch tính và tạo được hiệu quả châm biếm đả kích sâu sắc. Có thể như không cần cho nhân vật Khải Định xuất hiện tác giả chỉ ghi lại cuộc trò truyện của đôi nam nữ ở Pháp nhưng như chân dung của vui Khải Định lại hiện lên rất rõ nét. Đó chính là một ông vua bù nhìn một kẻ ló bịch một con rối một kẻ rẻ tiền. Và bên cạnh đó tác giả cũng châm biếm một cách nhẹ nhàng và hóm hỉnh thói tò mò và cả những tính hiếu kì của thị dân Pa-ri . Và nếu như mà ta chỉ nhìn bề mặt câu chữ thì có vẻ cười cợt nhẹ nhàng nhưng ẩn đăng sau nó còn chính là những đòn đả kích sâu cay mãnh liệt, đó còn là thái độ xem thường, khinh bi đối với kẻ thù. Dường như cũng “Đúng lúc đó thì có một anh vua đến với chúng ta”hoặc là “Thế em còn nhớ buổi dạ hội thuộc địa ở nhà hát ca vũ đấy chứ? Và như cũng phải trả gần rưỡi phrặng để xem vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên…” “ hôm nay cũng đã chứng mình có mất tí tiền nào đâu mà được xem vua đang ngay cạnh. Và khi nghe nói ông bầu nhà hát múa rối dang định ki giao kèo thuê đấy…. ” Tưởng như những câu văn nói về sự lố bịch, nực cười của Khải Định, và nó như không chỉ nhằm mục đích vạch trần sự ngu dốt mỏng muội của hắn mà còn thể hiện một sức khái quát đến sắc sảo trong nghệ thuật châm biếm của Nguyễn Ái Quốc.
Có thể nhận thấy chính nghệ thuật châm biếm đả kích sâu sắc cũng được thể hiện rất rõ nét khi tác giả sử dụng hình thức thư tín. Tác phẩm “Vi hành” dường như đã được Nguyễn Ái Quốc tài tình khi đã viết dưới hình thức một bức thư gửi cô em họ ớ quê nhà. Và việc viết truyện ngắn dưới hình thức một bức thư có thể nói không có gì độc đáo, mới mẻ nhưng khi được đặt trong hoàn cảnh cụ thể này thì bức thư vi hành dạt được hiệu quá nghệ thuật đặc biệt. Ta như đã biết thư chính là một lối văn tự do phóng túng có thể chuyển cảnh, chuyên đổi giọng điệu một cách linh hoạt. Và dường như trong thư người ta cỏ thể trao đổi thông tin, cũng có thể bộc lộ tư tưởng, tình cảm, những tâm tư suy nghĩ của người viết. Đó còn chính là một hình thức tương đối tự do khi viết thư, và chính điều này mà có thể liên hệ tạt ngang một cách phóng túng cũng như đã có những điều kiện để phát huy sự phán đoán trí tưởng tượng phong phú kia. Ta cũng như đã thấy được những nét đặc điểm tích chất của thư từ cho nên vì vậy mà cùng một lúc tác giả đã phán đoán suy luận về thực chất chuyến vi hành của Khải Định. Ta như thấy được chính thái độ của chính quyền thực dân để đả kích chính phủ Pháp cũng như là ông vua bù nhìn Khải Định.
Dưới hình thức viết thư thì thêm một lần nữa ta có thể thấy được tính cách của Khải Định lại được khắc họa rõ nét đó hiện lên là một ông vua ăn chơi chác tán. Nhà văn thật đã tài tình khi đã mỉa mai châm biếm bản chất tính cách này của vị hoàng đế An Nam. Và cũng ngoài vi hành phải chăng vì đã chán cuộc đời ông vua to muốn nếm thử cuộc đời công tử bé, ngài cũng để hết hành lý ở hiệu cầm đồ không mang theo tùy tùng để có thể xuất hiện những nơi không lấy gì làm cao thượng. Và chính cái bản chất làm tay sai bán nước của ông vua bù nhìn này được gợi qua một loại những câu hỏi phán đoán suy luận như “ngài vi hành phải chăng ngài muốn được xem người dân Pháp có uống nhiều rượu cồn và thuốc phiện như người dân An Nam dưới quyền cai trị của ngài”.
Xét về ngôn ngữ của tác phẩm thì lại đã mang ý nghĩa châm biếm sắc sảo giọng mỉa mai châm biếm bất ngờ. Truyện ngắn ‘Vi hành’ dường như có đủ các lợi điểm nhằm chế giễu phê phán tính chất bù nhìn của vua Khải Định. Mặt khác, ta như có thể thấy được chính qua hình thức một bức thư riêng gửi cô em họ tác giả đả kích tố cáo chính sánh thuộc địa giả dối của Pháp cũng như chính chế độ ngu dân nặng nề chế độ thuế khóa cao và ngay cả kế mật thám ở ngay trên chính quốc.
Chính vì lối viết tinh tế, sắc sảo truyện ngắn ‘Vi hành” là truyện ngắn tiêu biểu cho hình thức viết truyện kí nhiều sáng tác của Bác, có thể nhận thấy có nhiều sáng tạo lời ít ý nhiều giàu chất trí tuệ và nghệ thuật châm biếm sâu sắc.
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là một nhà văn đa phong cách từ làm thơ đến viết truyện ký…các tác phẩm của Người vừa cổ điển vừa hiện đại dù ở mảng nghệ thuật nào Người đều để lại những thành tựu xuất sắc. Trong những tác phẩm được viết bằng chữ Pháp, truyện ngắn “ Vi hành” là một trong những sáng tác độc đáo nhằm châm biếm đả kích chuyến thăm Pháp của Khải Định vào những năm 20 của thế kỷ 20.
Câu chuyện bắt đầu khi một đôi trai gái người Pháp đã nhìn nhầm nhân vật tôi thành vua Khải Định và coi hắn như một thú vui rẻ tiền. Từ điều này, nhân vật tôi đã nhớ đến những chuyện vi hành của các ông vua ngày xưa rồi liên hệ với những hành vi mờ ám với nhiều mục đích riêng của vua Khải Định. Với giọng văn sâu cay, sắc sảo cùng nghệ thuật châm biếm đả kích sắc biến Vi hành đã lộ rõ bộ mặt thật của ông vua xấu xa bù nhìn đã làm nhục quốc thể.
Nghệ thuật châm biếm đả kích được Bác thể hiện ngay từ cái tên của tác phẩm “ Vi hành” với hàm ý giễu cợt, châm biếm nhẹ nhàng mà sâu cay. Vi hành trước nay được hiểu là những cuộc đi kín đáo của bậc vua chúa ngày xưa muốn tìm hiểu thêm về cuộc sống của người dân. Họ mặc thường phục cải trang thành dân nghèo để hiểu hơn về cuộc sống của người dân để có được những chính sách cai trị tốt hơn. Nhưng ở đây Bác đã lồng cho “ Vi hành” một ý nghĩa hoàn toàn khác. Kẻ đang vi hành là không phải là một minh quân mà chỉ là một kẻ tay sai ngoại bang. Hành động của hắn lén lút, bất chính, cốt là để thỏa mãn những lạc thú cá nhân mà thôi.
Để câu chuyện trở nên hấp dẫn bác đã sử dụng tình huống nhầm lẫn của một đôi nam nữ trên tàu điện ngầm ở Pa – ri. Đôi nam nữ đã nhầm Bác là vua Khải Định, những người dân Pháp đều tưởng những người da vàng trên đất Pháp đều là vua Khải Định. Thật là nực cười thay khi mời vua một nước sang mà chẳng ai biết đây là ai. Đúng là thật khó cho người nước ngoài có thể phân biệt được người da vàng. Nhưng cái sự nhầm lẫn này đã khiến Bác thấy thú vị khi nghe cuộc đối thoại của họ, và cũng từ câu chuyện này nhân vật vua Khải Định đã được hiện ra dưới mắt độc giả với những nét thật tức cười: “vẫn cái mũi tẹt ấy, vẫn đôi mắt xếch ấy, vẫn cái mặt bủng như vỏ chanh”, “cả cái chụp đèn chụp lên cái đầu quấn khăn, các ngón tay thì đeo đầy những nhẫn”.
Sự xuất hiện của Khải Định thật là mạt hạng “ một anh vua đến” , thậm chí họ còn so sánh sự xuất hiện của Khải Định như một trò đấu xảo “một cách rất khôi hài”, “phải trả những nghìn rưởi phơ-răng để xem”, “hôm nay thì chúng mình có mất tí tiền nào đâu mà được xem vua đang ngay cạnh ?”
Mục đích của Bác khi tạo nên tình huống nhầm lẫn này chính là để nói lên ý nghĩ : Đấy, nhân dân Pháp họ nghĩ, nói về ông vua nước Nam như vậy đấy.
Kết hợp với đó là hình thức chuyện dưới dạng một bức thư đã giúp thể hiện rằng chuyện họ đang nói là đúng thậm trí nhân vật “ tôi” còn thấy tên vua này đáng khinh hơn thế. Và sự nhầm lần này cũng là nghệ thuật trào phúng cơ bản xuyên suốt câu chuyện.
Để tác phẩm đạt hiệu quả châm biếm cao nhất, Nguyễn Ái Quốc đã xen kẽ những cuộc đối thoại của đôi nam nữ với những đoạn kể chuyện cho cô em họ nghe. Ngòi bút của tác giả đã tung hùng từ chuyện vua Thuấn nước Tàu đến vủa Pi-e nước Nga đi vi hành người thì cải trang thành dân cày, người thì đi làm thợ… tạo nên những nét tưởng phản để vạch rõ bộ mặt đê tiện của tên vua bù nhìn nước Nam.
Phải chăng Khải Định vi hành là ngài “Phải chǎng là ngài muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là Alếchxǎng đệ nhất có được sung sướng, có được uống nhiều rượu, và được hút nhiều thuốc phiện bằng dân Nam, dưới quyền ngự trị của ngài, hay không?”
Hay Khải định muốn “chán cảnh làm một ông vua to, bây giờ ngài lại muốn nếm thử cuộc đời của các cậu công tử bé” . Cảnh ăn chơi xa xỉ của tên vua bù nhìn đã bị Bác nhìn thấu và miêu tả một cách sâu cay. Lối viết ấy mang tính “ tiểu phẩm”, rất hiểm một một mĩ tên bắn ra trúng hai đích .
`Lối viết hóm hỉnh nhẹ nhàng những nhiều ý nghĩa, Bác đã bóng gió xa gần đả kích chính quyền Pháp miếng thì nói khai hóa Đông Dương nhưng thực chất là kìm kẹp, áp bức “tất cả những ai ở Đông Dương có màu da trắng đều là những bậc khai hoá, thì bây giờ đến lượt tất cả những ai có màu da vàng đều trở thành hoàng đế ở Pháp.” “Chính phủ bèn đối đãi với tất cả mọi người An Nam vào hàng vua chúa và phái tuỳ tùng đi hộ giá tuốt! Đó là những người phục vụ thầm kín, rụt rè, vô tư và hết sức tận tụy.”
Chất hài hước của truyện vừa mang tính sôi nổi phương Tây, vừa mang tính thâm trầm, sâu sắc của phương Đông. Vẻ đẹp của hai nền văn hóa Đông – Tây đã được kết tinh và thể hiện một cách vô cùng độc trong truyện ngắn “ Vi Hành” . Truyện cũng là một minh chứng hùng hồn cho tính chiến đấu sắc bén của ngòi bút nghệ thuật đầy sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc.
Phân tích hình ảnh quan sứ, bà đầm và sức mạnh châm biếm, đả kích của biện pháp nghệ thuật đối ở hai câu 5,6.
- Hình ảnh:
+ Quan sứ: Viên quan người Pháp đứng đầu bộ máy cái trị của tỉnh Nam Định được tiếp đón trọng thể.
+ Mụ đầm: vợ quan sứ, ăn mặc diêm dúa, điệu đà.
⇒ Sự phô trương, hình thức, không đúng nghi lễ của một kì thi.
- Nghệ thuật đối: Lọng >< váy, trời >< đất, quan sứ >< mụ đầm → Thái độ mỉa mai, châm biếm hạ nhục bọn quan lại, thực dân.
⇒ Tất cả báo hiệu về một sự sa sút về chất lượng thi cử, bản chất của xã hội thực dân phong kiến.
viết đoạn văn ngắn từ 7 đến 10 câu nêu suy nghĩ của em về nham đề nghệ thuật trào phúng được biểu hiện qua văn bản"thuế máu" trích trong bài bản án chế độ thực dân pháp của nguyễn ái quốc
giúp mình với
Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc là một tác phẩm giàu ý nghĩa về mặt chính trị và lịch sử. Một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm chính là nghệ thuật châm biếm trào phúng sắc sảo.
Nghệ thuật trào phúng và ngòi bút châm biếm sắc sảo đã được thể hiện ở ngay cách tác giả đặt tiêu đề: Thuế máu. Bên cạnh những thứ thuế như thuế rượu, thuế muối, thuế gạo, nhân dân ta thời kì ấy còn phải gánh chịu một thứ thuế kinh khủng, tàn nhẫn hơn, đó là thuế được trả bằng máu. Như vậy, qua tiêu đề vô cùng súc tích, ngắn gọn, người đọc đã hình dung được phần nào về tình cảnh khốn khổ, tội nghiệp của nhân dân ta khi Pháp xâm lược và cai trị. Đồng thời, nhan đề ấy cũng bao hàm lòng căm phẫn, thái độ mỉa mai đối với tội ác ghê tởm của chính quyền thực dân.
Nghệ thuật châm biếm và trào phúng tiếp tục được tô đậm hơn nữa khi tác giả vạch trần những thủ đoạn, mánh khóe của bọn thực dân đối với người dân thuộc địa. Trước chiến tranh, họ bị coi là giống người hạ đẳng, là “An- Nam- mít da đen bẩn thỉu”, chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của quan cai trị, bị đối xử đánh đập như súc vật. Rồi khi chiến tranh vui tươi bùng nổ, các quan cai trị lập tức đổi thái độ, gọi người bản xứ là: con yêu, bạn hiền, chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do. Chiến tranh kết thúc, họ lại trở về là thân phận nô lệ ban đầu. Sự tương phản đau đớn ấy đã được thể hiện bằng giọng điệu mỉa mai, châm biếm sự giả dối, thâm độc của chính quyền thực dân. “Chế độ lính tình nguyện” mang sắc thái trào phúng tự nhiên, ở đây là bắt buộc, cưỡng bức chứ không hề do người dân thuộc địa sẵn sàng, phấn khởi lên đường. Với sự ra đời của chế độ này, chính quyền thực dân tiến hành lùng ráp, vây bắt, cưỡng bức người ta phải đi lính. Lợi dụng chuyện bắt lính mà dọa nạt, xoay xở kiếm tiền đối với những nhà giàu, sẵn sàng trói, xích nhốt người ta như nhốt súc vật, đàn áp dã man nếu như có chống đối. Thực tế này hoàn toàn trái ngược với luận điệu của chính quyền thực dân: hứa hậu đãi sau chiến tranh, rêu rao về sự tình nguyện đầu quân của người dân thuộc địa. Đó là những chiêu trò lừa dối, mị dân, đểu cáng để che đậy bản chất tàn ác, dã man của chính quyền thực dân khi biến những người dân bản xứ thành vật hy sinh. Bằng lập luận phản bác, mâu thuẫn, trào phúng và câu hỏi tu từ, điệp từ, tác giả tiếp tục lột cái mặt nạ vô nhân đạo, tráo trở, tàn nhẫn của thực dân Pháp. Những người dân thuộc địa sau khi trở về từ chiến tranh bị tước đoạt hết của cải, bị đối xử, đánh đập thô bỉ như súc vật. Họ lại trở về vị trí hèn hạ ban đầu: giống người hạ đẳng và bẩn thỉu, bị lừa dối, áp bức và rơi vào tình cảnh cùng quẫn, trở thành nạn nhân của chính sách cai trị tàn bạo, nham hiểm của Pháp. Sự tráo trở, tàn nhẫn, độc ác đó không chỉ đối với người dân bản xứ mà còn với ngay cả những người Pháp lương thiện. Bằng việc cấp môn bài bán lẽ thuốc phiện, chính quyền thực dân đã đầu độc con người và lôi kéo nạn nhân đáng thương vào tội ác.
Nghệ thuật châm biếm đả kích sâu cay của tác phẩm đã được thể hiện qua những hình ảnh xác thực, sinh động, giàu ý nghĩa biểu cảm và có ý nghĩa tố cáo. Qua nghệ thuật châm biếm và giọng điệu trào phúng sâu sắc, mỉa mai, ta đã có một cái nhìn cụ thể về bộ mặt độc ác, giả nhân giả nghĩa của thực dân Pháp số phận bi thảm của những người dân thuộc địa bị bóc lột “thuế máu”.
Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc là một tác phẩm giàu ý nghĩa về mặt chính trị và lịch sử. Một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm chính là nghệ thuật châm biếm trào phúng sắc sảo.
Nghệ thuật trào phúng và ngòi bút châm biếm sắc sảo đã được thể hiện ở ngay cách tác giả đặt tiêu đề: Thuế máu. Bên cạnh những thứ thuế như thuế rượu, thuế muối, thuế gạo, nhân dân ta thời kì ấy còn phải gánh chịu một thứ thuế kinh khủng, tàn nhẫn hơn, đó là thuế được trả bằng máu. Như vậy, qua tiêu đề vô cùng súc tích, ngắn gọn, người đọc đã hình dung được phần nào về tình cảnh khốn khổ, tội nghiệp của nhân dân ta khi Pháp xâm lược và cai trị. Đồng thời, nhan đề ấy cũng bao hàm lòng căm phẫn, thái độ mỉa mai đối với tội ác ghê tởm của chính quyền thực dân.
Nghệ thuật châm biếm và trào phúng tiếp tục được tô đậm hơn nữa khi tác giả vạch trần những thủ đoạn, mánh khóe của bọn thực dân đối với người dân thuộc địa. Trước chiến tranh, họ bị coi là giống người hạ đẳng, là “An- Nam- mít da đen bẩn thỉu”, chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của quan cai trị, bị đối xử đánh đập như súc vật. Rồi khi chiến tranh vui tươi bùng nổ, các quan cai trị lập tức đổi thái độ, gọi người bản xứ là: con yêu, bạn hiền, chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do. Chiến tranh kết thúc, họ lại trở về là thân phận nô lệ ban đầu. Sự tương phản đau đớn ấy đã được thể hiện bằng giọng điệu mỉa mai, châm biếm sự giả dối, thâm độc của chính quyền thực dân. “Chế độ lính tình nguyện” mang sắc thái trào phúng tự nhiên, ở đây là bắt buộc, cưỡng bức chứ không hề do người dân thuộc địa sẵn sàng, phấn khởi lên đường. Với sự ra đời của chế độ này, chính quyền thực dân tiến hành lùng ráp, vây bắt, cưỡng bức người ta phải đi lính. Lợi dụng chuyện bắt lính mà dọa nạt, xoay xở kiếm tiền đối với những nhà giàu, sẵn sàng trói, xích nhốt người ta như nhốt súc vật, đàn áp dã man nếu như có chống đối. Thực tế này hoàn toàn trái ngược với luận điệu của chính quyền thực dân: hứa hậu đãi sau chiến tranh, rêu rao về sự tình nguyện đầu quân của người dân thuộc địa. Đó là những chiêu trò lừa dối, mị dân, đểu cáng để che đậy bản chất tàn ác, dã man của chính quyền thực dân khi biến những người dân bản xứ thành vật hy sinh. Bằng lập luận phản bác, mâu thuẫn, trào phúng và câu hỏi tu từ, điệp từ, tác giả tiếp tục lột cái mặt nạ vô nhân đạo, tráo trở, tàn nhẫn của thực dân Pháp. Những người dân thuộc địa sau khi trở về từ chiến tranh bị tước đoạt hết của cải, bị đối xử, đánh đập thô bỉ như súc vật. Họ lại trở về vị trí hèn hạ ban đầu: giống người hạ đẳng và bẩn thỉu, bị lừa dối, áp bức và rơi vào tình cảnh cùng quẫn, trở thành nạn nhân của chính sách cai trị tàn bạo, nham hiểm của Pháp. Sự tráo trở, tàn nhẫn, độc ác đó không chỉ đối với người dân bản xứ mà còn với ngay cả những người Pháp lương thiện. Bằng việc cấp môn bài bán lẽ thuốc phiện, chính quyền thực dân đã đầu độc con người và lôi kéo nạn nhân đáng thương vào tội ác.
Nghệ thuật châm biếm đả kích sâu cay của tác phẩm đã được thể hiện qua những hình ảnh xác thực, sinh động, giàu ý nghĩa biểu cảm và có ý nghĩa tố cáo. Qua nghệ thuật châm biếm và giọng điệu trào phúng sâu sắc, mỉa mai, ta đã có một cái nhìn cụ thể về bộ mặt độc ác, giả nhân giả nghĩa của thực dân Pháp số phận bi thảm của những người dân thuộc địa bị bóc lột “thuế máu”.
Cái tên Thuế máu bao hàm nhiều ý nghĩa. Nó gợi lên số phận bi thảm của người dân thuộc địa, đồng thời biểu lộ thái độ căm phẫn trước tội ác ghê tởm của chính quyền thực dân. Người dân thuộc địa phải gánh chịu nhiều thứ thuế bất công, vô lí, song có lẽ một trong những thứ thuế tàn ác, dã man nhất là thứ thuế thu bằng xương máu và tính mạng của họ.
Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương Thuế máu cũng hàm ý bóc trần các chính sách lừa bịp để bóc lột người dân thuộc địa đến tận xương tủy của chính quyền thực dân cai trị. Từ Chiến tranh và người bản xứ đến Chế độ lính tình nguyện rồi Kết quả của sự hi sinh, qua các phần tiếp nối nhau như thế, Nguyễn Ái Quốc đã từng bước phơi bày bản chất "ăn thịt người" của bè lũ thực dân.
Tiếng cười trào phúng nhằm giễu cợt, mỉa mai, châm biếm, đả kích những cái chưa hay, chưa đẹp hoặc những cái tiêu cực xấu xa trong cuộc sống nhằm mục đích cao nhất là hướng con người đến những điều tốt đẹp.
Em hãy nêu những suy nghĩ của mình về ý kiến trên.
giúp mình với mình cần gấp
Qua 4 văn bản ca dao châm biếm được học trong sách Ngữ văn 7, em thấy các bài ca dao châm biếm thường sử dụng thủ pháp nghệ thuật gì?
BPNT: Ẩn dụ
Lấy hình ảnh con vật để nói về con người (người nông dân trong xã hội cũ)
nghệ thuật trào phúng đặc sắc của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện như thế nào qua văn bản Thuế Máu
Theo nhiều công trình nghiên cứu về giọng điệu văn chương trong mấy năm gần đây thì biểu hiện của giọng điệu trong một tác phẩm trước hết là ở cách xưng hô, gọi tên. Đối chiếu trong Vi hành ta thấy ngay giọng điệu chủ đạo của tác phẩm này là giọng mỉa mai bởi đại từ hắn chỉ Khải Định xuất hiện tới 12 lần. Khải Định là vua của một nước đến thăm một nước khác thế mà lại bị người dân nước này gọi là hắn thì thật nhục nhã. Cách gọi này đã vượt qua ranh giới cuối cùng của phép lịch sự ngoại giao tối thiểu để đến với sự khinh miệt. Nếu có gọi là vua thì họ cũng gọi mỉa mai, xách mé là anh vua chứ không gọi một cách trang trọng là vị vua, nhà vua, đức vua và cũng chẳng gọi một cách bình thường, "trung tính" là ông vua. Đáng chú ý là cách gọi ấy không chỉ ở một người, hai người mà ở rất nhiều người: "Những tiếng "hắn đấy!" hay "xem hắn kìa!" là những lời chào mừng kín đáo và kính trọng mà chúng ta thường gặp dọc đường". "Thường gặp dọc đường" nghĩa là ở nhiều nơi và gặp nhiều người chứ không phải chỉ ở một hai địa điểm, gặp một số ít người. Điều này chứng tỏ, trong cái nhìn của người dân Pháp, Khải Định không phải là một vị khách mời của nước Pháp, mà ngược lại chỉ là một vật để "xem" cho vui, để chế giễu, để mỉa mai mà thôi.
Nước Pháp lúc bấy giờ (1923) đã sang thời dân chủ với Tổng thống đương nhiệm là Alếchxăng Milơrăng. Thế mà vị Tổng thống này lại bị người kể chuyện (Nguyễn Ái Quốc) gọi một cách cạnh khóe là "Alếchxăng đệ nhất". "Đệ nhất" là danh hiệu dùng để chỉ vua chúa thời phong kiến quân chủ nhưng lại được Nguyễn Ái Quốc dùng để gọi một vị Tổng thống thời dân chủ, có nghĩa là đã coi cả một thể chế dân chủ kia chỉ là giả hiệu, thực chất vẫn chỉ là quân chủ, vẫn là phong kiến chẳng có gì là dân chủ cả. Chỉ bằng hai con chữ tác giả đã hạ bệ, đã vạch trần, đã xé toang bức màn chính trị giả dối để trơ ra bộ mặt không hề dân chủ trơ trẽn giả tạo, không phải chỉ của một người (Tổng thống Pháp) mà còn là của cả một chế độ, một nhà nước (thực dân Pháp). Người ta nói sức mạnh của ngôn từ có khi sánh ngang với một đạo quân lớn. Điều ấy phải chăng đúng với trường hợp này!
Rõ ràng đối tượng trào phúng mà tác phẩm hướng đến là Khải Định và chính quyền thực dân Pháp, tất nhiên, Khải Định vẫn là kẻ bị hứng chịu nhiều nhất những làn roi đả kích quất thẳng vào hắn. Vi hành được viết bằng tiếng Pháp, viết cho người Pháp đọc, dĩ nhiên nó phải mang dấu ấn văn hóa Pháp. Chúng tôi tìm thấy biểu hiện của văn hóa trào phúng dân gian rất phổ biến ở châu Âu trong Vi hành. Đó là văn hóa trào phúng cácnavan. M.Bakhtin đã đưa ra bốn đặc điểm nổi bật của cácnavan: sự xúc tiếp tự do suồng sã giữa người với người; tạo ra những hình tượng "kỳ quặc nực cười", xây dựng những cặp mâu thuẫn trào phúng; và cuối cùng là sự báng bổ, hạ bệ cái đáng cười.
Trong Vi hành các nhân vật đều quan hệ với nhau theo nguyên tắc suồng sã: đôi trai gái - Khải Định (tôi); "tôi" - Khải Định; "tôi" - Tổng thống Pháp, hay thân mật: đôi trai gái; "tôi" - cô em họ. Đôi trai gái nhầm "tôi" là Khải Định nên tha hồ nói về Khải Định rất chi là "suồng sã". Người ta không thể suồng sã với nhau nơi tôn nghiêm mà chỉ có thể ở một nơi, một môi trường có thể suồng sã, cái nơi mà M.Bakhtin gọi là không gian "quảng trường cácnavan". ở một không gian mang tính cộng đồng, "quảng trường" này con người mới dễ dàng tiếp xúc, dễ dàng cười cợt và cũng dễ dàng "báng bổ" nếu có thể. Nguyễn Ái Quốc đã cho Khải Định xuất hiện (trong sự nhầm lẫn của người Pháp) ở những nơi như vậy để người dân Pháp tha hồ mà "suồng sã" với một "anh vua": tiệm cầm đồ, xe điện ngầm, trường đua, nhà hát múa rối, kho hành lý nhà ga... Cácnavan luôn tạo ra những hình tượng "kỳ quặc nực cười", và Khải Định hoàn toàn "xứng đáng" có "bộ mặt nực cười" với "cái mũi tẹt", "đôi mắt xếch", "cái mặt bủng như vỏ chanh". Trong cácnavan, để tạo ra các hình tượng "kỳ quặc nực cười" người ta tạo ra "việc dùng ngược các đồ vật". Ở phương diện này, Khải Định còn "xứng đáng" hơn với "có cả cái chụp đèn chụp lên cái đầu quấn khăn" hay dùng đồ vật không đúng lúc, đúng chỗ "các ngón tay thì đeo đầy những nhẫn", "đeo lên người... đủ cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm". Khải Định cũng thuộc loại hình tượng phỏng nhại, chúng tôi gọi là hình tượng "phỏng nhại hành vi". Các vị vua yêu nước yêu dân như vua Thuấn hay vua Pie "vi hành" để tìm ra con đường làm giàu cho dân cho nước, còn Khải Định cũng "vi hành" nhưng là ngược lại (bị nhại lại) để ăn chơi bừa bãi…
Vẫn theo M.Bakhtin, "rất tiêu biểu cho tư duy cácnavan là những hình tượng cặp đôi, được nhóm lại theo sự tương phản (…) và sự tương đồng (…)". Chúng ta thấy trong Vi hành có những "cặp đôi" sau: đôi trai gái; "tôi" và Khải Định; Khải Định và chính quyền Pháp; "tôi" và "cô em họ", "tôi" và những kẻ theo dõi "bám lấy đế giày tôi, dính chặt với tôi như hình với bóng". Trong đó "cặp", "tôi" và Khải Định vừa tương phản vừa tương đồng, tương đồng ở chỗ người dân Pháp (và cả chính quyền Pháp hết sức quan liêu) lẫn lộn "tôi" và Khải Định (vì giống nhau - đều là người An Nam). Tương phản thì bạn đọc dễ nhận ra: một "anh vua" bán nước và một người dân yêu nước đang đi tìm đường cứu nước; một kẻ ăn chơi đàng điếm ngu ngốc (Khải Định không biết về văn hóa Pháp) và một trí tuệ lớn ("tôi" rất giỏi tiếng Pháp, am hiểu sâu sắc lịch sử, văn hóa Pháp…).
Từ sự phân tích trên chúng ta thấy toát lên các cặp mâu thuẫn trào phúng sau: cái thiêng liêng (vua Thuấn, vua Pie vi hành) với cái thấp hèn (việc Khải Định "vi hành"); sự sang trọng tôn nghiêm (danh hiệu vua) với sự cười đùa, cợt nhả (Khải Định như thằng hề); trí tuệ sắc sảo (của "tôi") với sự ngu dốt (của Khải Định); sự nghiêm túc, lịch sự (nhà vua một nước sang thăm nước khác) với cái phàm tục (Khải Định "vi hành" lén lút)… Đây cũng chính là những cặp mâu thuẫn trào phúng cơ bản của cácnavan.
Sự báng bổ cácnavan được biểu hiện cụ thể trong Vi hành là ở lời văn mỉa mai. Trong tác phẩm đầy những sự nói mỉa, nói ngược, chơi chữ, so sánh, tương phản, nói vòng… với mục đích trào phúng. Nói mỉa để châm chọc. Lời văn hướng tới đả kích nhiều đối tượng. Trong 3 câu văn ngắn sau: "Và thế là cái kho giải trí của chúng ta sắp cạn ráo như B.Đ.D. Nhật báo chẳng còn gì để bôi bác lên giấy cả. Đúng lúc đó thì...", ít nhất có mấy đối tượng sau bị đưa ra để nhạo báng, cười cợt: xã hội Pháp (lúc bấy giờ) thật nhạt nhẽo, vô vị (kho giải trí sắp cạn ráo…); Nhà băng Đông Dương thật nghèo túng (sắp cạn ráo như B.Đ.D); báo chí "bôi bác" (nhật báo chẳng còn gì để bôi bác lên giấy); và Khải Định thì như một trò giải trí, trò tiêu khiển… Thậm chí chỉ trong một mệnh đề của câu văn dài: "Cái vui nhất là ngay đến Chính phủ cũng chẳng nhận ra được khách thật của mình..." thì chân tướng của cả "chính phủ" và khách bị lột trần: khách chẳng ra gì và "chủ nhà" cũng thật chẳng ra gì! Câu văn giằng co trong thế mâu thuẫn, tương phản: "... có được sung sướng, có được quyền uống nhiều rượu và được hút nhiều thuốc phiện..."; "Những tiếng "hắn đấy!" hay "xem hắn kìa!" là những lời chào mừng kín đáo và kính trọng…". Và chơi chữ: "Hay là, chán cảnh làm một ông vua to, bây giờ ngài lại muốn nếm thử cuộc đời của các cậu công tử bé?". Theo chúng tôi bản dịch của Phạm Huy Thông đã truyền được cái thần thái trào phúng từ bản phiên âm tới bạn đọc. Nhiều người giỏi tiếng Pháp đều công nhận giữa hai bản phiên âm và bản dịch, tinh thần trào phúng không xa nhau bao nhiêu. (Có lẽ nên coi đây là một trong những bản dịch mang tính mẫu mực về đảm bảo ba tiêu chuẩn: tín, đạt, nhã trong dịch thuật). Trong câu văn tương phản trên được cấu trúc rất tinh tế với chữ "ngài" được đặt giữa câu văn như bị co kéo giữa hai tình huống đối lập: làm một ông vua to và nếm thử cuộc đời các cậu công tử bé, đã bật ra ý mỉa mai, nói theo một phương ngữ người Việt, "no cơm ấm cật, giậm giật mọi nơi". Trong câu văn còn thể hiện một cách chơi chữ tinh quái với danh từ "công tử bé" (petit duc) bởi danh từ này làm bạn đọc liên tưởng đến danh từ "đại công tước" (grand duc). Mà "đại công tước (grand duc) trong tiếng Pháp cũng có nghĩa là những kẻ ăn chơi bừa bãi. Ý vị hài hước dí dỏm toát ra: Khải Định đã là một ông vua to rồi, chẳng muốn làm những kẻ ăn chơi "to" nữa, thôi thì "nếm thử cuộc đời" của những kẻ ăn chơi "bé" vậy! Rồi cách nói vòng, trong đoạn gần cuối: "Cái vui nhất là ngay đến Chính phủ... khi được đối đãi như thế?" là sử dụng cách nói vòng rất hay gặp trong truyện cười dân gian Việt Nam. Nếu nói thẳng ra: Chính phủ bèn phái mật thám đi theo dõi gắt gao mọi người An Nam, thì chất muối hài trào phúng sẽ không còn. Phải cho câu văn "vòng vèo" để tác giả "chêm" vào những lời nói mỉa: "Chính phủ bèn đối đãi tất cả mọi người An Nam vào hàng vua chúa...". "Các vị bám lấy đế giày tôi...". Cách nói vòng đã mang hiệu quả nghệ thuật lưỡng tính: vừa tránh nói sự thật (nhưng người đọc vẫn hiểu sự thật) để lôi cuốn, hấp dẫn bạn đọc "tò mò" đi theo mạch văn "vòng vèo" này; vừa tạo ra khoảng trống để nhà trào phúng "cài" vào đấy những tiếng cười ngộ nghĩnh khác. Và so sánh:
"- Đâu có! Thế em còn nhớ buổi dạ hội thuộc địa ở Nhà hát Ca vũ đấy chứ? Phải trả những nghìn rưởi phrăng để xem vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên, xem tụi làm trò leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ Công gô; hôm nay chúng mình có mất ít tiền nào đâu mà được xem vua đang ngay cạnh? Nghe nói ông bầu Nhà hát Múa rối có định ký giao kèo thuê đấy...".
So sánh "vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên", "tụi làm trò leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ Công gô" với "vua" thì có nghĩa là đã "đánh đồng", đã "cào bằng" "vua" cũng chỉ ngang hàng với bọn "vợ lẽ nàng hầu..." và "tụi làm trò..." kia mà thôi. Thậm chí "giá trị" của "vua" còn rẻ mạt hơn bởi xem "vợ lẽ nàng hầu..." và "tụi làm trò..." còn mất "những nghìn rưởi phrăng", còn xem "vua" thì chẳng "mất tí tiền nào". Chính vì thế mà câu văn "Nghe ông bầu Nhà hát Múa rối có định ký giao kèo thuê đấy..." có mặt một cách thật lô gích, tự nhiên, hợp lý. Đã gọi là "ông bầu" thì bao giờ cũng phải sành sỏi thương trường và thị hiếu công chúng. "Ông bầu Nhà hát Múa rối" đã nhận ra ngay một cơ hội kiếm tiền vừa "thuê" rẻ một con rối, con hề là Khải Định vừa làm thỏa mãn trí tò mò của công chúng Pháp. Chỉ bằng mấy câu văn có sử dụng phép so sánh đối chiếu mà con người Khải Định hiện ra thật thê thảm. Phép so sánh như một luồng gió mạnh thổi tắt, thổi bay những ánh hào quang từ những nào là vương miện, long bào rồi hoàng bào… của vị "hoàng đế An Nam" để chỉ còn trơ ra chân dung một… con rối "vua" ngờ nghệch, lố bịch. Chúng tôi gọi đó là cách so sánh "lột mặt nạ"!
Chúng tôi cho rằng tiếng cười trào phúng trong Vi hành mang một tầm phổ quát, dân chủ và sâu sắc, nhạo báng, đả kích sâu cay Khải Định và thực dân Pháp. Vi hành ra đời đúng vào dịp vua Khải Định được Chính phủ Pháp đưa sang dự cuộc đấu xảo thuộc địa tổ chức ở Mácxây. Tác phẩm mượn các đặc điểm của lễ hội cácnavan để xây dựng nên một câu chuyện "vi hành" (đây có lẽ là hiện tượng mà M.Bakhtin gọi là các cácnavan hóa - carnavalizacija), mà cácnavan tức là lễ hội cải trang, lễ hội trá hình, thế có nghĩa là tác giả đã coi cả một cuộc đấu xảo thuộc địa rầm rộ kia cũng chỉ là một lễ hội cácnavan cải trang, trá hình mà thôi. Bộ mặt thật của chính quyền Pháp bị Nguyễn ái Quốc lật tẩy: đó chỉ là một chính phủ mị dân, một chính phủ lừa dối.
Để cười được cái đáng cười, người cười bao giờ cũng phải đứng ở tầm cao hơn cái đáng cười. Nguyễn Ái Quốc đã thực sự ở một vị thế cao hơn rất nhiều cái thể chế chính trị thực dân Pháp và "bề tôi" Khải Định để mà cười, một cái cười của chính nghĩa cao cả của trí tuệ siêu việt cười vào sự phi nghĩa, giả dối, sự ngu ngốc thảm hại. Xét riêng ở góc độ trào phúng, Vi hành xứng đáng là một tác phẩm "vô tiền khoáng hậu" độc đáo, đặc sắc, mẫu mực về sự kết hợp tinh hoa trào phúng phương Đông và phương Tây