Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
30 tháng 12 2017 lúc 5:47

Chọn đáp án: B

Cao Minh Dương
Xem chi tiết
Cô Nguyễn Vân
30 tháng 8 2019 lúc 11:23

Câu (1) liên kết câu (2): phép lặp - Nguyễn Dữ

Câu (4) liên kết câu (5): quan hệ từ - tuy nhiên.

Câu (6) liên kết câu (7): lặp - ông

Phép thế: "ông" thay thế cho "Nguyễn Dữ"

ngoc ngoc
Xem chi tiết
GV Ngữ Văn
15 tháng 8 2018 lúc 15:35

a. Truyền kì mạn lục: là ghi chép tản mạn những chuyện kì lạ vốn được lưu truyền trong dân gian.

b. Các yếu tố kì ảo trong truyện:

- Vũ Nương chết được xuống Thủy Cung.

- Vũ Nương gặp Linh Phi (người cùng làng, nhân nằm mộng và cứu rùa xanh mà được cứu khỏi chết đuối)

- Vũ Nương trở về trong cờ hoa võng lọng, gặp Trương Sinh chốc lát rồi biến mất.

c. Chi tiết kì ảo cuối truyện tưởng như khiến chuyện có kết thúc có hậu nhưng vẫn nhấn mạnh tính bi kịch của truyện:

- Vũ Nương được Trương Sinh lập đàn giải oan, gặp chàng để nói lời tạ từ, nhưng mãi chẳng thể trở về chốn dương gian.

- Bởi chế độ phong kiến hà khắc còn tồn tại, những người độc đoán gia trưởng như Trương Sinh còn đó thì Vũ Nương có sống lại thì cuộc sống gia đình cũng không được hạnh phúc, trọn vẹn.

=> Bởi vậy, mà người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, có công dung ngôn hạnh như Vũ Nương, vốn chỉ mong cuộc sống gia đình êm đềm, hạnh phúc trước sau vẫn chịu kết cục bi thương. Tính bi kịch của câu chuyện không vì những chi tiết cuối truyện mà bị giảm đi. Đó chỉ là chút xót thương, bênh vực của tác giả, thể hiện mong muốn của nhân dân: có oan thì sẽ được giải oan, ngay trong cuộc sống thực, không phải ở cõi khác.

Ngoc
Xem chi tiết
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
24 tháng 5 2017 lúc 2:14

Nét độc đáo trong cách quan sát và diễn tả của tác giả về đề tài miền núi:

- Chi tiết, hình ảnh miêu tả núi rừng đậm chất thơ

- Cách kể chuyện tự nhiên, sinh động. Truyện có kết cấu, bố cục chặt chẽ, cách dẫn dắt lôi cuốn, sự đan cài chi tiết khéo léo

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật bằng nhiều bút pháp khác nhau khắc họa được tính cách, số phận nhân vật: tả tâm lí, ngoại hình gắn với suy nghĩ thầm lặng

- Ngôn ngữ mang âm hưởng núi rừng, giọng điệu trần thuật có sự hòa kết giọng người kể với nhân vật tạo chất trữ tình

Xem chi tiết
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
6 tháng 2 2017 lúc 16:18

Chọn đáp án: B

ngoc ngoc
Xem chi tiết
Cô Nguyễn Vân
22 tháng 8 2018 lúc 14:21

Truyền kì mạn lục - ghi chép tản mạn những chuyện kì lạ được lưu truyền.

Yếu tố kì ảo: Vũ Nương trầm mình tự vẫn, gặp Linh Lang, linh hồn trở về dương thế gặp Trương Sinh

Việc tác giả đưa vào cuối truyện yếu tố kì ảo nói về sự trở về chốc lát của Vũ Nương không làm cho bi kịch tác phẩm mất đi vì người con gái tư dung tốt đẹp, phẩm chất cao đẹp vẫn không được hưởng hạnh phúc thật sự nơi trần thế, tính chất tố cáo xã hội, tố cáo chiến tranh phi nghĩa vẫn đậm nét trong tác phẩm này

Moon
Xem chi tiết
Vũ Trọng Phú
23 tháng 6 2018 lúc 13:37

Có bao giờ ta tự hỏi điều gì làm nên sức sống lâu bền của một tác phẩm văn học trước dòng chảy miên viễn của thời gian? Phải chăng chính nhờ vào sự độc đáo của các hình thức nghệ thuật mà người nghệ sĩ đã sang tạo ra? Hay nhờ vào ý nghĩa tôn vinh con người mà tác phẩm đó đem đến? Có lẽ, sức sống ấy có được là vì một tác phẩm văn học chân chính bao giờ cũng “ tôn vinh con người thông qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”.

Một tác phẩm văn học chân chính luôn luôn chứa đựng trong nó những giá trị cơ bản như: giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo….được biểu hiện thông qua sự phản ánh, phát hiện, khám phá cuộc sống và con người của nhà văn. Bằng cách này, hay cách khác, ngòi bút của những người nghệ sĩ chân chính luôn hướng về con người với những phát hiện rất riêng về vẻ đẹp nhân phẩm của họ. Và suy cho cùng, đó chính là sự “tôn vinh con người” một cách rất chân thực và trân trọng của nhà văn.

Tuy nhiên, nghệ thuật không chỉ là cuộc đời, nghệ thuật còn là nghệ thuật nữa. Vì vậy một tác phẩm văn học chỉ thực sự hay, được bạn đọc đón nhận và có sức sống trong lòng bạn đọc khi nó biểu hiện giá trị nội dung thông qua “những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Hình thức ấy có được là nhờ vào biệt tài, cá tính sang tạo của người cầm bút. Và một tác phẩm văn học muốn được chú ý, trước hết cần có những giá trị nghệ thuật nổi bật. Bởi lẽ, văn học là lĩnh vực của sự sáng tạo, điều làm nên sự khác biệt của văn học so với các bộ môn khoa học khác chính là sự độc đáo của hình thức nghệ thuật. Sự độc đáo ấy gây chú ý đối với công chúng, để họ đón nhận tác phẩm ấy và từ đó mới khám phá ra những giá trị nội dung mà tác phẩm đó chứa đựng. Như vây, sức sống lâu bền mà một tác phẩm văn học có được chính là nhờ vào giá trị nội dung với ý nghĩa tôn vinh con người và giá trị nghệ thuật độc đáo mà nhà văn đã sáng tạo ra. Có thể thấy, hai phạm trù này có mối quan hệ gắn bó hữu cơ không thể tách rời, nếu thiếu một trong hai phạm trù đó thì sẽ không có được tác phẩm văn học đích thực.

Có một nhà lí luận phê bình đã từng nói rằng: “Văn học là nhân học”. Đó là một nhận định cho thấy được vai trò của một tác phẩm văn học đối với con người. Văn học luôn hướng tới con người và giúp con người hướng tới vẻ đẹp của CHÂN – THIỆN – MĨ và ý nghĩa hướng thiện ấy được biểu hiện nhờ vào hình thức nghệ thuật độc đáo. Từ cổ chí kim, văn học thế giới đã cho thấy biết rõ điều đó. Những nhà văn lớn trên thế giới bao giờ cũng mang trong mình tình yêu thương nhân loại vô cùng, luôn nhìn thấy vẻ đẹp tâm hồn con người và cũng luôn có niềm tin vào khả năng vươn dậy của nhân phẩm con người. Khi đến với truyện ngắn “Số phận con người” của nhà văn Nga Sô-lô-khốp là khi ta đến với một áng văn phản ánh rất chân thực lịch sử oai hùng của nước Nga Xô Viết với những trang viết đậm chất hiện thực và tinh thần nhân đạo cao cả. Bằng tài năng và tâm huyết của mình Sô-lô-khốp đã khắc hoạ rất thành công hình tượng nhân vật Xô-cô-lốp thông qua nghệ thuật trần thuật độc đáo. Để từ đó tôn vinh, ca ngợi vẻ đẹp tính cách Nga, con người Nga. Đó là vẻ đẹp của con người cách mạng phải chịu bao đau thương, mất mát vì chiến tranh mà vẫn sống đầy nghị lực và nhân ái vô cùng. Con người đó không bị quật ngã bởi hoàn cảnh mà luôn biết đứng lên, sống một cuộc đời có ý nghĩa, có niềm tin vào tương lai.

Trở lại với nền văn học Việt Nam chúng ta cũng tìm thấy rất nhiều tác phẩm mang ý nghĩa “tôn vinh con người thông qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Và “Vợ nhặt” của Kim lân chính là một tác phẩm như vậy.

Ai đã từng đến với “Vợ nhặt” chắc hẳn không thể quên được hình ảnh chết chóc tang thương trong một xóm ngụ cư nghèo khổ, không thể không bị ám ảnh trước hình ảnh một đám cưới nhỏ của Tràng lọt thỏm giữa một đám ma to của cả xóm ngụ cư. Nhưng cũng sẽ còn mãi trong tâm thức độc giả niềm xúc động trước tấm lòng của những con người bé mọn với nhau, trước khát vọng sống mãnh liệt của những số phận đang chấp chới giữa ranh giới mong manh của sự sống và cái chết. Bởi Kim Lân viết về cái đói nhưng là để nói đến “tình người trong cái đói”. Và nhà văn đã chọn cho mình một tình huống truyện độc đáo để làm nổi bật lên chủ đề của thiên truyện. So sánh với các tác phẩm cùng thời, ta có thể thấy được nét riêng của “Vợ nhặt”. Nam cao viết “Một bữa no” để độc giả thấy được sự khốn cùng đói khổ của nhân dân ta thông qua đó tố cáo xã hội đã đưa đẩy con người đến sự cùng cực của nghèo đói, tủi hổ. Còn Kim Lân cũng viết về cái đói nhưng ông lại tập trung làm nổi bật “tình người trong cái đói”.

Vợ nhặt là một truyện ngắn độc đáo từ nội dung đến nghệ thuật. Nhà văn đã chọn cho tác phẩm của mình một lối kết cấu rất mơí lạ: hiện tại –quá khứ - hiện tại – tương lai. Và một tình huống truyện éo le độc đáo. Tình huống ấy xuất hiện ngay từ nhan đề “Vợ nhặt”. Một nhan đề cho thấy được hiện thực tối tăm hoàn cảnh khốn khó đến mức số phận con người bị rẻ rúng như cây rơm ngọn cỏ. Bởi thế mới có sự kiện Tràng nhặt được vợ - nhặt vợ chứ không phải cưới vợ.

Chuyện Tràng có vợ là một bất ngờ lớn với hết thảy mọi người, với bà cụ Tứ, với chính bản thân Tràng và với mọi độc giả. Có ai ngờ một anh nông dân cục mịch, có phần dở hơi lại nghèo khổ như thế lại có vợ một cách dễ dàng đến vậy! Nhưng éo le thay, Tràng lại lấy vợ vào lúc người ta không thể sống qua ngày vì đói khát. Tràng lấy vợ mà không có lễ ăn hỏi, đón dâu. Tất cả những gì đọng lại trong lòng độc giả về đám cưới đó chỉ là hình ảnh đôi bạn trẻ đi bên nhau lặng lẽ trong một buổi hoàng hôn đầy không khí chết chóc. Éo le bởi chỉ trong hoàn cảnh đó Tràng mới có được vợ. Éo le bởi đó là một cuộc hôn nhân không xuất phát từ tình yêu mà được bắt nguồn từ bản năng sống, khát vọng được sống thôi thúc con người ta phải hướng tới nhau, bấu víu vào nhau. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân đó cũng cho ta thấy được tình thương của con người với con người, thấy được tình yêu cuộc sống của những số phận nhỏ nhoi. “Đám cưới” ấy đã làm thay đổi những người trong gia đình Tràng và thay đổi chính Tràng. Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy Tràng đã cảm nhận được tình yêu gia đình, sự gắn bó với các thành viên, niềm hạnh phúc giản dị mà lớn lao. Vậy đấy, trong nhiều điều mang tên Hạnh Phúc, có những điều thật bình dị nhưng đó là sự bình dị ấm áp. Không những thế, khi Tràng cho thị theo về, chấp nhận thị làm vợ tức là lúc anh đã biết dang rộng vòng tay yêu thương để đón lấy những kiếp đời khốn khổ hơn mình. Đó chẳng phải là một cách tôn vinh con người sao?

Còn thị - một nhận vật cũng có vai trò rất quan trọng đối với thiên truyện, cũng được Kim Lân khắc hoạ bằng những hình thức nghệ thuật rất độc đáo. Thị xuất hiện trong tư thế đang “vân vê tà áo rách như tổ đỉa” với một “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt và hình dạng gầy xọp vì đói khát”. Tính cách, số phận con người ấy dần được hé lộ thông qua cái nhìn của Tràng, bà cụ Tứ, những sự kiện diễn ra theo trình tự thời gian. Thị là một người phụ nữ vô danh, không tên tuổi, không quê hương bản quán, không gia đình…Hoàn cảnh éo le của cuộc sống đã đẩy thị đến bước đường cùng đói khát. Và vì tình yêu cuộc sống mãnh liệt, bản năng ham sống, thị cần tìm cho mình một chỗ dựa. Rồi thị đã bán rẻ cả chút sĩ diện của một con người để bấu víu vào Tràng, liều mình làm dâu nhà người chỉ với bốn bát bánh đúc rẻ mạt. Hôn nhân là chuyện hệ trọng của đời người, với một người con gái thì nó càng có ý nghĩa quan trọng hơn. Thế nhưng, thật trớ trêu thay, đám cưới của thị được cử hành với hai lần gặp gỡ, vài câu bông đùa…Có lẽ đằng sau vẻ “chao chát, chỏng lỏn” kia là bao nỗi niềm xót xa tủi phận mà thị đã xót xa giấu kín. Rồi khi về nhà Tràng, thấy gia cảnh anh cũng nghèo khổ, túng quẫn, thị bỗng “nén một tiếng thở dài”. Trong căn nhà Tràng (hay nói đúng hơn, chỉ là một túp lều tranh) không khí bỗng trở nên trùng xuống. Giống như một chuyện đùa, nhưng họ đã thực sự bước vào một cuộc hôn nhân nghiêm túc. Bây giờ, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Hẳn sẽ có niềm vui nhen nhóm nhưng không biết có sự nuối tiếc, ân hận nào chăng? Và thật bất ngờ sáng hôm sau, thị đã thay đổi hoàn toàn. Không còn vẻ “chao chát, chỏng lỏn” nữa thị trở về đúng nghĩa một người vợ hiền dâu thảo, thực hiện thiên chức của một người phụ nữ trong gia đình: thu vén việc nhà. Thị cũng chính là sợi dây gắn kết Tràng với bà cụ Tứ để tình cảm gia đình thêm gắn bó keo sơn. Là người nhóm lên trong hai mẹ con bà cụ Tứ niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn khi nhắc chuyện “phá kho thóc Nhật ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang”. Có thể nói thị chưa thể là hình tương tiêu biểu cho người phụ nữViệt Nam, nhưng trong con người thị có thấp thoáng bóng dáng người phụ nữ Việt Nam. Kim Lân đã bộc lộ rât rõ ngòi bút nhân đạo của mình khi khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp của tâm hồn con người, nâng niu, trân trọng nó,đặt niềm tin vào sự vươn dậy của ý thức nhân phẩm trong con người,Có lẽ,đó chính là một hình thức “tôn vinh con người” đơn giản,trung thực mà đáng trân trọng.

Nếu như tính cách,số phận của thị được bộc lộ thông qua tình huống truyện độc đáo và sự quan sát, đánh giá của Tràng, bà cụ Tứ; thì vẻ đẹp tâm hồn bà cụ Tứ lại hiện lên nhờ vào nghệ thuât miêu tả tâm lí sắc sảo của Kim Lân.Bà cụ Tứ xuất hiện khi đang trở về nhà với dáng đi lầm lũi âm thầm. Cái dáng đi như hằn in cả cuộc đời lam lũ tủi cực của một số phận bé mọn khi sống dưới đêm đen nô lệ. Người mẹ nghèo khổ ấy không thể đoán được có chuyện gì đang diễn ra trong nhà mà con trai hôm nay lại khác lạ thế. Rồi khi lật đật bước vào nhà, đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, cuối cùng bà cũng hiểu ra mọi chuyện. Khoảnh khắc ngắn ngủi ấy như kéo dài ra bởi những dông tố đang chất chứa trong lòng bà cụ, bởi sự đợichờ trong lo lắng, hồi hộp của đôi trẻ mới nên duyên mà chưa có sự đồng ý của người mẹ. Và khi “bà lão cúi đầu nín lặng” thì chính là lúc “lòng người mẹ nghèo khổ ấy hiểu ra biết bao nhiêu là cơ sự”. Cái “cúi đầu” xót thương cho cả cuộc đời đầy những đắng cay mặn mòi nước mắt của chính bà, xót xa cho số phận con trai và thương xót cho cả người con gái đang ngồi trước mặt bà nữa. Bởi hơn ai hết, bà hiểu gia cảnh nhà mình khốn cùng, cả cuộc đời bà là những mất mát, đau khổ. Bà hiểu chỉ trong hoàn cảnh đói khát như thế, người ta mới đến với con mình và con mình mới có được vợ. Cuối cùng, bà lão cũng lên tiếng: “ Ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. “Ừ”, một sự xác nhận chính thức về mối quan hệ của đôi trẻ. “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”, “U cũng mừng” chứ không phải “U mừng lắm” – một câu nói đủ thấy nỗi mặc cảm thân phận cũng như tấm lòng bao dung của người mẹ già ấy. Rồi bao nhiêu tình thương, sự lo lắng bà dồn cả vào câu nói: “ Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá!”…Bà lão đã khóc, những giọt nước mắt cay đắng, mừng tủi, vui buồn lẫn lộn. Có lẽ, trước khi độc giả rỏ giấu những giọt nước mắt đồng cảm với người mẹ giàu đức hi sinh ấy thì nhà văn cũng đã bao lần khóc cùng nhân vật, mừng tủi với niềm vui và nỗi buồn của nhân vật. Phải sống rất sâu trong thế giới nội tâm nhân vật thì Kim Lân mới có thể miêu tả một cách thành công đến thế diễn biến tâm trạng phức tạp của bà cụ Tứ. Là linh hồn của thiên truyện, bà cụ Tứ chính là biểu tượng tinh thần vững chắc cho đôi trẻ mới bước vào một cuộc hôn nhân, bắt đầu cuộc sống gia đình trong đói khát. Bởi thế mà sáng hôm sau bà nói toàn chuyện tương lai tốt đẹp, “tính chuyện làm ăn” bằng cách nuôi gà và động viên đôi vợ chồng trẻ “ ai giàu ba họ ai khó ba đời hả con”. Và cũng thật cảm động trước hình ảnh người mẹ bưng nồi cháo cám đon đả: “ Chè khoán đấy…ngon đáo để”. Bà lão cười mà sao ta lại thấy có gì đó xót xa quá. Bởi có lẽ, khi càng cố tỏ ra vui vẻ, cố quên đi thực tại đắng cay thì nó càng hiện về một cách rõ rệt hơn cả. Nhưng người mẹ ấy đã cố gắng hết sức để làm cho không khí gia đình trở nên ấm cúng hơn. Ta tìm thấy trong con người cụ bao đức hạnh tốt đẹp của người mẹ Việt Nam nhân ái giàu đức hi sinh âm thầm. Bà cụ Tứ chính là một đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn phụ nữ Việt Nam đôn hậu, chân thành, đáng trân trọng biết bao.

Vối hệ thống nhân vật không nhiều một tình huống truyện éo le, cách kết cấu mới lạ, Kim Lân đã làm sáng lên vẻ đẹp nhân phẩm con người. Bởi nhà văn đã cho ta thấy trong hoàn cảnh trớ trêu nhất, giữa một kiếp sống lay lắt mòn mỏi, con người vẫn không bị đánh gục bởi hoàn cảnh mà luôn khao khát vươn sống, hướng về nhau và hướng về tương lai. Trong không gian xóm ngụ cư nghèo khổ, tối tăm, câu chuyện cảm động về những con người sống dưới đáy cùng của xã hội nhưng quý trọng và tôn trọng nhau đã được bắt đầu. Câu chuyện ấy diễn ra ngày càng rõ nét cụ thể, sinh động trong căn nhà liêu xiêu của mẹ con Tràng. Không gian đã góp phần làm nổi lên hoàn cảnh để câu chuyện diễn ra một cách tự nhiên, chân thực. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà nhà văn lại chọn thời gian bắt đầu câu chuyện là một chiều hoàng hôn, tiếp diễn trong đêm đen dày đặc và kết thúc vào một buổi bình minh rực rỡ. Phải chăng dụng ý của Kim Lân là muốn thể hiện niềm tin vào tương lai, những con người sống có hi vọng sẽ vượt qua nghịch cảnh để có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Ngoài ra, còn một chi tiết nghệ thuật nữa cũng đã góp phần thể hiện sâu sắc ngòi bút nhân đạo của nhà văn: lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong mắt Tràng. Chi tiết nghệ thuật ấy, phải chăng, đã chỉ ra con đường giải phóng những cuộc đời bé mọn đang bị nhấn chìm trong đêm đen nô lệ? Chí Phèo muốn hoàn lương phải trả giá bằng mạng sống của mình. Chị Dậu bỏ chạy trong một “đêm đen tối như chính tiền đồ của chị” mà không thể tìm thấy lối thoát cho kiếp nô lệ bị chà đạp, đè nén đến tận cùng nỗi đau. Còn Tràng, anh được chỉ cho một lối đi là đấu tranh cách mạng để làm chủ cuộc đời mình. Kim Lân đã đi xa hơn những nhà văn trước đó trong điểm này. Chi tiết nghệ thuật ấy chính là một tín hiệu cho thấy sự phát triển của nền văn học sau Cách mạng tháng Tám 1945 so với trước đó.

Thời gian trôi đi và phủ một lớp bụi quên lãng lên vạn vật. Thế nhưng, đã gần nửa thế kỉ qua, “Vợ nhặt” và tên tuổi của “ nhà văn thuần hậu nguyên thuỷ đi về với nông thôn Việt Nam” – Kim Lân vẫn sống cùng tháng năm. Và có lẽ, mãi mai sau, người ta vẫn nhắc tên Kim Lân với “ đứa con tinh thần” của ông một cách trân trọng. Bởi nhà văn đã biết thông qua tác phẩm văn học để “tôn vinh con người bằng những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Ấy là phẩm chất sáng tạo nghệ thuật mà bất kì người nghệ sĩ nào cũng cần có.