Cảm nhận của em về bài Tỏ lòng
Cảm ngĩ của em về bài thơ tỏ lòng
Nêu cảm nhận về câu thơ đầu của bài Tỏ lòng "Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu"
Bài Tỏ lòng gợi cho em cảm nhận được điều gì?
A. Lý tưởng của người trai trẻ thời Trần.
B. Ý chí sắt đá của con người thời Trần.
C. Ước mơ công hầu, khanh tướng của con người thời Trần.
D. Ý nguyện về sự hy sinh của con người thời Trần.
Viết 6-8 câu nêu cảm nhận về vẻ đạp của con người thời Trần qua bài thơ Tỏ lòng
Trình bày cảm nhận của em về bài ca dao sau và cho biết em sẽ làm gì để bày tỏ tấm lòng đối với cha mẹ:
Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi
Viết kết bài cho đề bài sau ''Ca dao thiên về tình cảm và biểu hiện lòng người .Ca dao là tiếng tơ đàn muôn điệu cảu tâm hồn quần chúng .Dựa vào hiểu biết của mình về ca dao em hãy làm sáng tỏ nhận định trên."
tham khảo
Yêu quê hương còn biểu hiện cao hơn trong tình yêu nước, tự hào về đất nước: “Nực cười châu chấu đá xe. Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng”.Chính là cái tình yêu quê hương tha thiết mặn nồng từ xa xưa ấy đã tạo nên một nét rất đẹp trong truyền thống của người Việt Nam, đã là chất mem nên thơ nên nhạc, là động lực chủ yếu để dân tộc tồn tại trước bao lần ngoại xâm và nội chiến.
Chép thuộc lòng bài ca dao nói về tình cảm gia đình và nêu cảm nhận của em về bài thơ ấy
Kho tàng văn học dân gian với những câu ca dao, dân ca chỉ các thể loại trữ tình, dân gian, kết hợp lời và nhạc, diễn tả đời sống của con người. Bài những câu hát về tình cảm gia đình trong sách văn lớp 7 là một trong những bài thuộc thể loại đó.
"Công cha như núi ngất trời
Nghĩ mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!"
Tình cảm của bài ca dao trêm là tình cảm của cha mẹ dành cho con, nhắc nhở con cái phải luôn hiếu thảo với cha mẹ - một truyền thống quý báu của dân tộc ta. Bài ca dao này còn sử dụng hình ảnh so sánh giữa "công cha" với "núi cao" và "nghĩa mẹ" với "biển rộng". Và chúng ta sẽ cảm nhận rõ được tình cảm ấy qua câu "Cù lao chín chữ" nói về chín chữ nêu cao công lao cha mẹ nuôi con vất vả trăm bề.
Người cha đóng vai trò trụ cột trong gia đình, là chỗ dựa đáng tin cậy cho vợ con. Còn người mẹ là người sinh thành và nuôi em khôn lớn. Mẹ luôn là người mẹ dịu dàng nhưng cũng rất nghiêm khắc. Mẹ luôn dõi theo từng bước đi, hành động, những suy nghĩ ngay ngô của em, cho em những lời khuyên bổ ích, hướng dẫn em đi trên con đường đúng đắn.
Hằng ngày, mẹ chẳng quản vất vả, nhọc nhằn, lo lắng cho các con từ bát cơm, tấm áo... Ngoài những thứ đó ra mẹ còn dạy dỗ, truyền đạt các kiến thức và kinh nghiệm sống mà mình đã đánh đổi bằng mồ hôi nước mắt, để em học được những bài học cần thiết khi bước vào đời.
Với âm điệu khoan thai, chậm rãi, thiết tha, sâu lắng... từng dòng thơ như đi sâu vào tâm trí người đọc, rót từng giọt vào tai người nghe. Bài thơ đã giúp em hiểu được rằng đạo làm con của mỗi con người là trách nhiệm, bổn phận vô cùng thiêng liêng, cao cả.Nếu một ngày nào đó chúng ta mất cha hoặc mẹ hoặc cả hai thì ngày đó chắc chắn là ngày buồn thảm nhất trong cuộc đời.
Ai bưng bầu rượu đến đó phải chịu khó bưng về
Em đang ở hầu thầy mẹ cho trọn bề hiếu trung
177 người thích Thích
Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc,
Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe không.
38 người thích Thích
- Ai đi bờ đất một mình,
Phất phơ chéo áo giống hình trò Ba?
Trò Ba đi học trường xa,
Cơm canh ai nấu, cửa nhà ai lo?
- Cửa nhà đã có con Ba,
Cơm canh con Bốn, rượu trà con Năm,
Một trăm chìa khóa con Sáu cầm,
Giang sơn con Bảy giữ, tảo tần con Tám lo…
16 người thích Thích
Ai làm cho chuối không cành,
Cho anh không vợ cắn quanh mẹ già.
Mẹ già như mẹ người ta,
Thì anh có vợ trong nhà đã lâu.
Mẹ anh ác nghiệt cơ cầu,
Cho nên anh chịu âu sầu đến nay.
18 người thích Thích
Ai ơi chồng dữ thì lo,
Mẹ chồng mà dữ mổ bò ăn khao.
149 người thích Thích
Ai ơi giữ chí cho bền,
Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai.
Xin đừng làm, nói đơn sai,
Tin mình đừng sợ những lời dèm pha.
Anh em một họ một nhà,
Thương nhau chân thật đường xa cũng gần.
117 người thích Thích
Ai về tôi gửi đôi giày,
Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi.
9 người thích Thích
Anh đi làm mướn nuôi ai,
Cho áo anh rách, cho vai anh mòn?
Anh đi làm mướn nuôi con,
Áo rách mặc áo, vai mòn mặc vai.
128 người thích Thích
Anh em chín họ mười đời,
Hai người cùng có, chẳng rời nhau ra.
Chị em cùng khúc ruột rà,
Kẻ giàu, người khó, họ xa tám đời.
123 người thích Thích
Anh em cốt nhục đồng bào,
Vợ chồng là nghĩa lẽ nào không thương.
110 người thích Thích
Anh em hiền thật là hiền,
Bởi một đồng tiền làm mất lòng nhau.
123 người thích Thích
Anh em nào phải người xa,
Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân.
Yêu nhau như thể tay chân,
Anh em hoà thuận, hai thân vui vầy.
161 người thích Thích
Anh em như chân như tay,
Vợ chồng như áo cởi ngay nên lìa.
105 người thích Thích
Anh ơi! em bảo anh này,
Công cha nghĩa mẹ cao dày chớ quên.
12 người thích Thích
Anh về Bình Định thăm cha,
Phú Yên thăm mẹ, Khánh Hoà thăm em.
3 người thích Thích
Ba bà đi chợ với nhau
Một bà đi trước kể chuyện nàng dâu
Một bà đi sau tu tu lên khóc
Nhà bà có phúc cưới được dâu hiền,
Nhà tôi vô duyên cưới cô dâu dại
Việc làm thì rái, chỉ tưởng những ăn
Hễ bảo quét sân đánh chết ba gà
Bảo đi quét nhà, đánh chết ba cho
Có mâm giỗ, họ miếng ra miếng vào
Rửa bát cầu ao liếm dĩa quèn quẹt
Đi chợ quên thúng quên quan tiền
Về nhà quên ngõ đâm xiêng vào chùa
Vo chùa thấy hai ông Hộ Pháp mới tô
Nó nghĩ khách tới đầy nhà nhà tôi
Trở ra nó mỉm miệng nó cười
Thằng chồng nó đánh một hồi cẳng chân
Bà đi giữa nghe chuyện phân vân
Rằng dâu tôi cũng không đần không khôn
Mẹ chồng có nói đến con
Thì con tôi chỉ cười dòn nói đưa!
6 người thích Thích
Bao giờ cá lý hóa long,
Đền ơn cha mẹ ẵm bồng xưa nay.
108 người thích Thích
Bảo vâng, gọi dạ, con ơi,
Vâng lời sau trước, con thời chớ quên.
Công cha, nghĩa mẹ, khôn đền,
Vào thưa, ra gửi, mới nên con người.
17 người thích Thích
Bồng bềnh giữa chốn giang tân,
Bên tình bên nghĩa biết phân bên nào.
Em ơi, nhất lê nhì lựu tam đào,
Bên tình bên nghĩa, bên nào cũng thương.
87 người thích Thích
Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp mật, như đường mía lau.
150 người thích Thích
Cá không ăn muối cá ươn,
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.
128 người thích Thích
Cái ngủ, mày ngủ cho lâu,
Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về.
Bắt được con giếc, con trê,
Cầm cổ lôi về cho cái ngủ ăn.
91 người thích Thích
Cha mẹ để của bằng non,
Không bằng để đức cho con ở đời.
6 người thích Thích
Cha mẹ là biển là trời,
Nói sao hay vậy, đâu dám cãi lời mẹ cha.
23 người thích Thích
Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng,
Con nuôi cha mẹ con tính tháng tính ngày.
119 người thích Thích
Chăn tằm rồi mới ươm tơ,
Làm dâu rồi mới được như mẹ chồng.
14 người thích Thích
Chàng ơi! Ơn cha ba năm cúc dục
Nghĩa mẹ chín tháng cù lao
Ai đền ơn cho thiếp mà nhủ thiếp trao ân tình?
10 người thích Thích
Chẻ tre lựa cật đan nia,
Có chồng con một khỏi chia gia tài.
21 người thích Thích
Chồng dữ thì em mới lo,
Mẹ chồng mà dữ mổ bò ăn khao.
102 người thích Thích
Chồng dữ thì em mới rầu,
Mẹ chồng mà dữ giết trâu ăn mừng.
116 người thích Thích
Có cha, có mẹ có hơn,
Không cha, không mẹ như đàn không dây.
Mẹ cha như nước, như mây,
Làm con phải ở cho tầy lòng con.
24 người thích Thích
Có con hơn của anh ơi,
Của như buổi chợ họp rồi lại tan.
24 người thích Thích
Cơm cha cơm mẹ đã từng,
Con đi làm mướn kiếm lưng cơm người.
Cơm người khổ lắm mẹ ơi!
Chả như cơm mẹ, vừa ngồi vừa ăn.
21 người thích Thích
Con cò bay bổng bay la,
Bay từ của miếu bay ra cánh đồng.
Cha sinh mẹ đẻ tay không,
Cho nên bay khắp tây đông kiếm mồi.
Trước là nuôi cái thân tôi,
Sau nuôi đàn trẻ nuôi đời cò con.
8 người thích Thích
Con cò lặn lội bờ sông,
Mẹ đi tưới nước cho bông có đài.
Trông trời, trông nước, trông mây,
Trông cho lúa chín, hột sây nặng nhành,
Trông cho rau muống mau xanh,
Để mẹ nấu một bát canh đậm đà,
Mát lòng sau bữa rau cà,
Cho con mau lớn, việc nhà con lo.
6 người thích Thích
Con dâu bắt chí mẹ chồng,
Ngó ra ngoài đồng thấy ổ le le.
7 người thích Thích
Con dẫu lớn vẫn là con của mẹ,
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con.
8 người thích Thích
Con lên ba con chửi mẹ cười,
Con lên mười con chửi mẹ khóc.
15 người thích Thích
Con ơi ghi nhớ lời này
Công cha, nghĩa mẹ, công thầy chớ quên.
173 người thích Thích
Con tài, lo láo, lo kiêu,
Con ngu thì lại lo sao kịp người.
114 người thích Thích
Con thơ tay ẫm tay bồng,
Tay dắt mẹ chồng đầu bạc như bông.
5 người thích Thích
Công cha ba năm tình thâm lai láng,
Nghĩa mẹ đậm đà chín tháng cưu mang,
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn,
Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn,
Hai đứa mình lên non lấy đá xây lăng phụng thờ.
9 người thích Thích
Công cha đức mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ.
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ song thân.
263 người thích Thích
Công cha nghĩa mẹ ai đền,
Mà em ông áo ôm mền theo anh?
4 người thích Thích
Công cha nghĩa mẹ chưa đền,
Hiếu trung chưa trả sao em ôm mùng mền theo trai?
6 người thích Thích
Công cha nghĩa mẹ khó quên,
Vào thưa ra gửi mới nên con người.
5 người thích Thích
Công cha nghĩa mẹ ơn thầy,
Ngày sau khôn lớn ơn dày biển sâu.
6 người thích Thích
Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Công cha nghĩa mẹ ghi lòng con ơi.
9 người thích Thích
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
245 người thích Thích
Công thầy, nghĩa mẹ chưa đền,
Sao con lại dám kéo mền đắp chung.
Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/ca-dao/tinh-cam-gia-dinh © TuDienDanhNgon.vn
cảm nhận của em về tình cảm tấm lòng của người chiến sĩ trong bài thơ Mẹ của Bằng Việt
Viết dàn bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ
Đề 1 : Trình bày cảm nhận của em về tấm lòng thành kính thiêng liêng của tác giả Viễn Phương qua khổ 1,2
Đề 2 : Trình bày cảm nhận của em về khổ 2,3 trong bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương
Viết đoạn văn cảm nhận nỗi lòng của tác giả qua hai câu cuối bài thơ Tỏ lòng
Tham Khảo:
Triều đại nhà Trần (1126-1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, nhà Trần đã ghi vào lịch sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.
Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ca ngợi là "Hào khí Đông A". Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Toản, "Thuật hoài" (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão, "Bạch Đằng giang phú" của Trương Hán Siêu,… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.
Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: "Thuật hoài" và "Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương".
Bài thơ "Tỏ lòng" thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự họa của danh tướng Phạm Ngũ Lão.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ "Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu" là một câu thơ có hình tượng kỳ vỹ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang san) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỉ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở "bình Nguyên" ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.
Đội quân "Sát Thát" ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo "tỳ hổ" quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. "Khí thôn Ngưu" nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu: ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: "Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu". Hình ảnh ẩn dụ so sánh: "Tam quân tì hổ…" trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân "sát thát" đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:
"Thuyền bè muôn đội
Tinh kỳ phấp phới
Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…"
(Bạch Đằng giang phú)
Người chiến sĩ "bình Nguyên" mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! "Phá cường địch, báo hoàng ân" (Trần Quốc Toản) – "Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo" (Trần Thủ Độ). "…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng" (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:
"Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu".
"Công danh" mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, được tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ "công danh" tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm. Không chỉ "Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu", mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu "Khiến cho người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…" để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: "Non sông nghìn thuở vững âu vàng" (Trần Nhân Tông).
"Thuật hoài" được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kì vỹ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời "hào khí Đông A".