Đền Tiên La là gì ? Hãy kể lại sự tích đền Tiên La .
kể lại sự tích đền Tiên La
Đền Tiên La là di tích lịch sử tâm linh, ngôi đền thờ Bát Nạn Tướng Quân (Tướng quân phá nạn cho dân - có nơi gọi là Bát Nàn hay Bát Não) Vũ Thị Thục sinh năm 17, mất năm 43, một nữ danh tướng trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng có công đánh Tô Định, được phong: “Đông Nhung Đại Tướng Quân” có từ gần hai ngàn năm nay. Đền tọa lạc giữa thôn Tiên La (trước đây là gò Kim Quy), xã Đoan Hùng - huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình trên diện tích khoảng 6000 m2. Mặt trước đền hướng ra con sông Tiên Hưng gần ngã ba đổ ra sông Luộc, là nơi tương truyền Bà đã tuẫn tiết.
Trải qua nhiều lần tu bổ, đến nay đền có quy mô lớn và đẹp, bao gồm nhiều công trình như hệ thống cổng đền, tòa tiền tế, tòa trung tế, thượng điện và hệ thống sân đền, giếng ngọc…. Toàn bộ ngôi đền làm theo cấu trúc “Tiền nhất – Hậu đinh” đúng cấu trúc, theo đúng dáng vóc kiểu cổ từ cột, kèo đến đao mái uốn cong và mang dáng hình con rồng bay lên hoặc Lưỡng Long Chầu Nguyệt, có ba tòa điện chính là: Đại Bái (Tiền tế), Trung tế và Hậu điện hay còn gọi là Hậu Cung. Qua cổng (Tam quan ngoại), vào sân đền là Tam quan nội và hai bên có Lầu Cô, Lầu Cậu. Bước lên tòa Tiền Tế gồm năm gian, du khách sẽ bắt gặp những bức đại tự với các câu đối cổ ca ngợi triều Trưng Vương và phẩm hạnh, tài sắc của nữ tướng Bát Nàn. Tòa điện Bái đường và thượng điện của đền được kiến trúc bằng vật liệu gỗ tứ thiết, nội thất được chạm trổ long- lân- quy- phượng xen lẫn với thông- cúc- trúc- mai rất tinh xảo.
Tòa điện Trung tế là công trình kiến trúc đặc sắc được xây dựng theo kiểu phương đình, kiến trúc theo lối “Chồng diêm cố các”. Điều đặc biệt là toàn bộ vật liệu xây dựng ở tòa bái đường đều được làm bằng đá như hệ thống cột đá, xà đá, kèo đá…tòa điện được xây bằng mười sáu cột đá lớn, tám xà đá và tám kèo đá. Hệ thống cột, kèo, xà đá đều được chạm khắc rất công phu và kỹ xảo. Bốn cột cái chạm tứ linh, mười hai cột quân chạm long vân, tám xà chạm thông- cúc- trúc- mai xen lẫn long- ly- quy- phượng..
Tòa cuối của đền là Hậu cung gồm ba gian nằm sâu bên trong, tương truyền đây là nơi có mộ của Bà. Trên nóc hiện còn bức đại tự rất quý đề bốn chữ: “Anh Linh Vạn Cổ” bằng chữ Hán. Gian giữa Hậu cung đặt một ban thờ, trên có ngai và tượng Bát Nạn tướng quân Vũ Thị Thục, xung quanh thờ các tướng sỹ và quân lính của bà. Gian bên tráI thờ thân phụ, gian bên phải thờ thân mẫu của Bà. Các ngai thờ và tượng thờ đều có từ lâu đời, theo các nhà nghiên cứu về chữ và cách chạm khắc thì có từ thời Tiền Lê, một số thuộc thời Trần và Hậu Lê. Ngoài ra, đền còn lưu giữ được nhiều đồ tế khí có giá trị thẩm mỹ niên đại từ thời Lê, các tài liệu như thần tích và sắc phong thần từ thời Lê đến thời Nguyễn, các bia đá, minh chuông…
Bát Nàn công chúa (Có sách chép là Bát Nạn hay Bát Não) theo các truyền thuyết và thần tích cũ của làng Tiên La, Hưng Hà, Thái Bình, thần tích Đền Rẫy, Đền Buộm xã Tân Tiến – Hưng hà - Thái Bình cùng thần tích thờ thần miếu ở xã Phượng Lâu, huyện Phù Ninh, (Thần tích do danh thần thời Hậu Lê là Hàn Lâm đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn) nay thuộc Vĩnh Phúc. Thục Nương sinh ra tại quê ngoại vùng Hương Đa Cương (Nay thuộc xã Tân Tiến – Hưng Hà - Thái Bình), lớn lên tại quê cha (Phượng Lâu – Vĩnh Phúc), là người con gái xinh đẹp đoan trang có lòng yêu nước, thương nòi lại ưa binh đao, võ nghệ, cha là Võ Công Chất và mẹ là Hoàng Thị Mầu. Thân phụ là Hào trưởng ở Phượng Lâu nên khi bà chào đời cha mẹ đặt tên là Thục. Về sau bà nổi tiếng tài sắc, nên tục gọi là Thục Nương. Cha mẹ bà có đính hôn ước bà với Phạm Danh Hương (Có sách chép là vị Lạc hầu Trương Quán) quê ở Đức Bác (tức Liệp Trang – huyện Lập Thạch), vợ chồng bà đều có lòng yêu nước, ngầm lo việc cứu nước giúp dân.
Bấy giờ, nước ta đang bị nhà Hán cai trị, nước ta gồm các Quận Giao Chỉ, Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố. Với âm mưu đồng hóa nên nhà Hán cho Thái Thú Tô Định cai quản và lập hệ thống Lạc hầu, hào mục từ trung ương xuống các địa phương, mua chuộc các tên gian tham làm tay sai cho chúng. Nơi Bà sinh sống có tên hào mục là Trần, vì căm tức không cưới được Thục Nương, nên đã ngầm thông mưu với Thái Thú Tô Định, vu cho Phạm Danh Hương làm phản. Năm Kỷ Hợi 39, khi Đặng Thi Sách (chồng Bà Trưng Trắc) bị giết ở Châu Diên thì chồng bà cũng bị giết ở Diên Hà. Khi đó, quân Tô Định vây chặt dinh trại, chồng bà bị hại, nửa đêm bà cầm song đao, mở đường máu chạy đến làng Tiên La, vào chùa ẩn thân. Từ ấy, nặng nợ nước thù nhà bà quyết chí báo phục, đêm ngày chiêu tập hào kiệt dựng cờ khởi nghĩa.
Tháng ba năm Canh Tý (năm 40 sau Công nguyên). Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, Bà theo về giúp và cùng nữ tướng Lê Chân (quê Hải Phòng); nữ tướng Xuân Nương (quê Tam Nông-Phú Thọ) thống lãnh quân tiên phong.
Nghĩa quân của Thục Nương đã sát cánh với các cánh quân khác, tả xung hữu đột chiến thắng giòn giã. Năm 41, đất nước hoàn toàn giải phóng. Hai Bà Trưng lên ngôi vua đóng đô tại Mê Linh – Vĩnh Phúc, đất nước vang tiếng khải hoàn ca. Trong đó có công lao to lớn của bà. Trưng Vương phong Bà làm Bát Nạn đại tướng quân, Trinh Thục Công Chúa, Uy viễn đại tướng quân, Đông Nhung đại tướng quân. Bà từ chối tước lộc, chỉ xin đem đầu giặc tế chồng. Tế xong, bà cởi bỏ nhung trang trở về chùa làng Tiên La, lập trang ấp sinh sống.
Để phục thù, năm Quý Mão 43, nhà Hán sai Phục Ba Mã Viện, một viên tướng già lão luyện và gian ngoan trong chiến trận, đem 20 vạn quân sang phục thù, Bà đem đội nghĩa binh của mình đến chi viện cùng nghĩa quân của Hai Bà Trưng anh dũng chiến đấu, nhưng vì lực lượng yếu hơn, Hai Bà Trưng đã anh dũng tuẫn tiết hy sinh trên dòng sông Hát trong ngày 6 tháng 2. Còn cánh quân của Đông Nhung đại tướng quân, vì lực lượng quân địch đông và hung bạo, bọn giặc lại gian ngoan, thấy đội nữ binh của bà, chúng bảo nhau dùng kế khoả thân bao vây để bắt sống bà nộp cho chủ tướng giặc. Bà cùng một số nghĩa binh mở đường máu thoát vây chạy về trú ngụ tại chùa Tiên La tính kế lâu dài. Song bọn giặc đã đuổi tới. Bà chiến đấu anh dũng, rồi rút gươm tự vẫn, không chịu để quân giặc làm nhục. Hôm đó là ngày 16/3 năm Quý Mão. Theo truyền thuyết kể lại: Khi bà tuẫn tiết, bọn giặc đã lập trại trông xác bà bên gốc quế để hôm sau chúng treo xác bà để thị uy, nhưng chỉ 1 đêm đến sáng hôm sau bên cạnh gốc cây quế có 1 đống đất do mối xông phủ hết xác bà. Khi quân giặc quay lại tìm thấy đống đất mối xông như hình người, biết bà linh hiển, chúng không dám đụng chạm tới xác bà nữa. Từ đó người dân Tiên La gom góp vật liệu xây dựng ngôi đền nhỏ thờ Bà và hương khói, hàng ngàn năm nay không bao giờ tắt và tổ chức mở hội để ghi nhớ công đức của Bà vẫn theo nếp: mở cổng đền vào ngày mồng 10 và 3 ngày hội chính là 15, 16, 17 tháng 3 âm lịch hàng năm.
Vì khi cầm binh khí đuổi giặc, từ cửa sông Đáy về ngã ba sông Nông, Bà thường cai quản 18 cửa ngàn, nên tục gọi Bà là chúa Thượng ngàn. Và ngôi chùa Bà ở tu khi xưa, sách chép là chùa Nam Liên ở trên núi, nên sách cũ cũng có chép Bà là sư nữ Nam Liên.
Các triều đại sau đều có truy phong Bà làm thần:
+ Đời vua Lê Thánh Tông, sắc phong: ý Đức Đoan Trang Thục công chúa.
+ Đời vua Minh Mạng (Nhà Nguyễn) sắc phong: Dực Bảo Trung Hưng linh phù chi thần.
+ Đời vua Khải Định sắc phong: Dực Bảo Trung Hưng linh phù Thượng đẳng thần.
Lễ hội đền Tiên La để tưởng nhớ công ơn Bát Nạn Tướng Quân trước đây được tổ chức vào 15 đến 17 tháng ba âm lịch hàng năm. Ngày nay để phục vụ đông đảo du khách về dự, Ban tổ chức lễ hội đã mở hội từ đầu tháng ba, chính hội tổ chức vào ngày 17 âm lịch, trùng ngày hy sinh của Bà (ngày 17 tháng 3 năm Quý Mão).
Trong phần hội có các trò chơi dân gian như chọi gà, đấu vật, múa rồng, múa sư tử… Đặc biệt là phần rước kiệu, rước nước và một số trò chơi dân gian khác như đánh đáo, thổi sáo trúc… đậm đà bản sắc dân tộc. Ngoài ra, vào các dịp lễ hội còn có nhiều đoàn văn hóa nghệ thuật của tỉnh Thái Bình và các tỉnh lân cận về biểu diễn các tiếp mục văn hóa đặc sắc như các vở chèo: Quan âm Thị Kính; Lưu Bình- Dương Lễ; Phạm Trân- Cúc Hoa…
Đền Tiên La là di tích lịch sử tâm linh, ngôi đền thờ Bát Nạn Tướng Quân (Tướng quân phá nạn cho dân - có nơi gọi là Bát Nàn hay Bát Não) Vũ Thị Thục sinh năm 17, mất năm 43, một nữ danh tướng trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng có công đánh Tô Định, được phong: “Đông Nhung Đại Tướng Quân” có từ gần hai ngàn năm nay. Đền tọa lạc giữa thôn Tiên La (trước đây là gò Kim Quy), xã Đoan Hùng - huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình trên diện tích khoảng 6000 m2. Mặt trước đền hướng ra con sông Tiên Hưng gần ngã ba đổ ra sông Luộc, là nơi tương truyền Bà đã tuẫn tiết. Trải qua nhiều lần tu bổ, đến nay đền có quy mô lớn và đẹp, bao gồm nhiều công trình như hệ thống cổng đền, tòa tiền tế, tòa trung tế, thượng điện và hệ thống sân đền, giếng ngọc…. Toàn bộ ngôi đền làm theo cấu trúc “Tiền nhất – Hậu đinh” đúng cấu trúc, theo đúng dáng vóc kiểu cổ từ cột, kèo đến đao mái uốn cong và mang dáng hình con rồng bay lên hoặc Lưỡng Long Chầu Nguyệt, có ba tòa điện chính là: Đại Bái (Tiền tế), Trung tế và Hậu điện hay còn gọi là Hậu Cung. Qua cổng (Tam quan ngoại), vào sân đền là Tam quan nội và hai bên có Lầu Cô, Lầu Cậu. Bước lên tòa Tiền Tế gồm năm gian, du khách sẽ bắt gặp những bức đại tự với các câu đối cổ ca ngợi triều Trưng Vương và phẩm hạnh, tài sắc của nữ tướng Bát Nàn. Tòa điện Bái đường và thượng điện của đền được kiến trúc bằng vật liệu gỗ tứ thiết, nội thất được chạm trổ long- lân- quy- phượng xen lẫn với thông- cúc- trúc- mai rất tinh xảo.Tòa điện Trung tế là công trình kiến trúc đặc sắc được xây dựng theo kiểu phương đình, kiến trúc theo lối “Chồng diêm cố các”. Điều đặc biệt là toàn bộ vật liệu xây dựng ở tòa bái đường đều được làm bằng đá như hệ thống cột đá, xà đá, kèo đá…tòa điện được xây bằng mười sáu cột đá lớn, tám xà đá và tám kèo đá. Hệ thống cột, kèo, xà đá đều được chạm khắc rất công phu và kỹ xảo. Bốn cột cái chạm tứ linh, mười hai cột quân chạm long vân, tám xà chạm thông- cúc- trúc- mai xen lẫn long- ly- quy- phượng..Tòa cuối của đền là Hậu cung gồm ba gian nằm sâu bên trong, tương truyền đây là nơi có mộ của Bà. Trên nóc hiện còn bức đại tự rất quý đề bốn chữ: “Anh Linh Vạn Cổ” bằng chữ Hán. Gian giữa Hậu cung đặt một ban thờ, trên có ngai và tượng Bát Nạn tướng quân Vũ Thị Thục, xung quanh thờ các tướng sỹ và quân lính của bà. Gian bên tráI thờ thân phụ, gian bên phải thờ thân mẫu của Bà. Các ngai thờ và tượng thờ đều có từ lâu đời, theo các nhà nghiên cứu về chữ và cách chạm khắc thì có từ thời Tiền Lê, một số thuộc thời Trần và Hậu Lê. Ngoài ra, đền còn lưu giữ được nhiều đồ tế khí có giá trị thẩm mỹ niên đại từ thời Lê, các tài liệu như thần tích và sắc phong thần từ thời Lê đến thời Nguyễn, các bia đá, minh chuông… Bát Nàn công chúa (Có sách chép là Bát Nạn hay Bát Não) theo các truyền thuyết và thần tích cũ của làng Tiên La, Hưng Hà, Thái Bình, thần tích Đền Rẫy, Đền Buộm xã Tân Tiến – Hưng hà - Thái Bình cùng thần tích thờ thần miếu ở xã Phượng Lâu, huyện Phù Ninh, (Thần tích do danh thần thời Hậu Lê là Hàn Lâm đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn) nay thuộc Vĩnh Phúc. Thục Nương sinh ra tại quê ngoại vùng Hương Đa Cương (Nay thuộc xã Tân Tiến – Hưng Hà - Thái Bình), lớn lên tại quê cha (Phượng Lâu – Vĩnh Phúc), là người con gái xinh đẹp đoan trang có lòng yêu nước, thương nòi lại ưa binh đao, võ nghệ, cha là Võ Công Chất và mẹ là Hoàng Thị Mầu. Thân phụ là Hào trưởng ở Phượng Lâu nên khi bà chào đời cha mẹ đặt tên là Thục. Về sau bà nổi tiếng tài sắc, nên tục gọi là Thục Nương. Cha mẹ bà có đính hôn ước bà với Phạm Danh Hương (Có sách chép là vị Lạc hầu Trương Quán) quê ở Đức Bác (tức Liệp Trang – huyện Lập Thạch), vợ chồng bà đều có lòng yêu nước, ngầm lo việc cứu nước giúp dân. Bấy giờ, nước ta đang bị nhà Hán cai trị, nước ta gồm các Quận Giao Chỉ, Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố. Với âm mưu đồng hóa nên nhà Hán cho Thái Thú Tô Định cai quản và lập hệ thống Lạc hầu, hào mục từ trung ương xuống các địa phương, mua chuộc các tên gian tham làm tay sai cho chúng. Nơi Bà sinh sống có tên hào mục là Trần, vì căm tức không cưới được Thục Nương, nên đã ngầm thông mưu với Thái Thú Tô Định, vu cho Phạm Danh Hương làm phản. Năm Kỷ Hợi 39, khi Đặng Thi Sách (chồng Bà Trưng Trắc) bị giết ở Châu Diên thì chồng bà cũng bị giết ở Diên Hà. Khi đó, quân Tô Định vây chặt dinh trại, chồng bà bị hại, nửa đêm bà cầm song đao, mở đường máu chạy đến làng Tiên La, vào chùa ẩn thân. Từ ấy, nặng nợ nước thù nhà bà quyết chí báo phục, đêm ngày chiêu tập hào kiệt dựng cờ khởi nghĩa. Tháng ba năm Canh Tý (năm 40 sau Công nguyên). Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, Bà theo về giúp và cùng nữ tướng Lê Chân (quê Hải Phòng); nữ tướng Xuân Nương (quê Tam Nông-Phú Thọ) thống lãnh quân tiên phong.Nghĩa quân của Thục Nương đã sát cánh với các cánh quân khác, tả xung hữu đột chiến thắng giòn giã. Năm 41, đất nước hoàn toàn giải phóng. Hai Bà Trưng lên ngôi vua đóng đô tại Mê Linh – Vĩnh Phúc, đất nước vang tiếng khải hoàn ca. Trong đó có công lao to lớn của bà. Trưng Vương phong Bà làm Bát Nạn đại tướng quân, Trinh Thục Công Chúa, Uy viễn đại tướng quân, Đông Nhung đại tướng quân. Bà từ chối tước lộc, chỉ xin đem đầu giặc tế chồng. Tế xong, bà cởi bỏ nhung trang trở về chùa làng Tiên La, lập trang ấp sinh sống. Để phục thù, năm Quý Mão 43, nhà Hán sai Phục Ba Mã Viện, một viên tướng già lão luyện và gian ngoan trong chiến trận, đem 20 vạn quân sang phục thù, Bà đem đội nghĩa binh của mình đến chi viện cùng nghĩa quân của Hai Bà Trưng anh dũng chiến đấu, nhưng vì lực lượng yếu hơn, Hai Bà Trưng đã anh dũng tuẫn tiết hy sinh trên dòng sông Hát trong ngày 6 tháng 2. Còn cánh quân của Đông Nhung đại tướng quân, vì lực lượng quân địch đông và hung bạo, bọn giặc lại gian ngoan, thấy đội nữ binh của bà, chúng bảo nhau dùng kế khoả thân bao vây để bắt sống bà nộp cho chủ tướng giặc. Bà cùng một số nghĩa binh mở đường máu thoát vây chạy về trú ngụ tại chùa Tiên La tính kế lâu dài. Song bọn giặc đã đuổi tới. Bà chiến đấu anh dũng, rồi rút gươm tự vẫn, không chịu để quân giặc làm nhục. Hôm đó là ngày 16/3 năm Quý Mão. Theo truyền thuyết kể lại: Khi bà tuẫn tiết, bọn giặc đã lập trại trông xác bà bên gốc quế để hôm sau chúng treo xác bà để thị uy, nhưng chỉ 1 đêm đến sáng hôm sau bên cạnh gốc cây quế có 1 đống đất do mối xông phủ hết xác bà. Khi quân giặc quay lại tìm thấy đống đất mối xông như hình người, biết bà linh hiển, chúng không dám đụng chạm tới xác bà nữa. Từ đó người dân Tiên La gom góp vật liệu xây dựng ngôi đền nhỏ thờ Bà và hương khói, hàng ngàn năm nay không bao giờ tắt và tổ chức mở hội để ghi nhớ công đức của Bà vẫn theo nếp: mở cổng đền vào ngày mồng 10 và 3 ngày hội chính là 15, 16, 17 tháng 3 âm lịch hàng năm. Vì khi cầm binh khí đuổi giặc, từ cửa sông Đáy về ngã ba sông Nông, Bà thường cai quản 18 cửa ngàn, nên tục gọi Bà là chúa Thượng ngàn. Và ngôi chùa Bà ở tu khi xưa, sách chép là chùa Nam Liên ở trên núi, nên sách cũ cũng có chép Bà là sư nữ Nam Liên.Các triều đại sau đều có truy phong Bà làm thần:
+ Đời vua Lê Thánh Tông, sắc phong: ý Đức Đoan Trang Thục công chúa.
+ Đời vua Minh Mạng (Nhà Nguyễn) sắc phong: Dực Bảo Trung Hưng linh phù chi thần.
+ Đời vua Khải Định sắc phong: Dực Bảo Trung Hưng linh phù Thượng đẳng thần.
Lễ hội đền Tiên La để tưởng nhớ công ơn Bát Nạn Tướng Quân trước đây được tổ chức vào 15 đến 17 tháng ba âm lịch hàng năm. Ngày nay để phục vụ đông đảo du khách về dự, Ban tổ chức lễ hội đã mở hội từ đầu tháng ba, chính hội tổ chức vào ngày 17 âm lịch, trùng ngày hy sinh của Bà (ngày 17 tháng 3 năm Quý Mão) Trong phần hội có các trò chơi dân gian như chọi gà, đấu vật, múa rồng, múa sư tử… Đặc biệt là phần rước kiệu, rước nước và một số trò chơi dân gian khác như đánh đáo, thổi sáo trúc… đậm đà bản sắc dân tộc. Ngoài ra, vào các dịp lễ hội còn có nhiều đoàn văn hóa nghệ thuật của tỉnh Thái Bình và các tỉnh lân cận về biểu diễn các tiếp mục văn hóa đặc sắc như các vở chèo: Quan âm Thị Kính; Lưu Bình- Dương Lễ; Phạm Trân- Cúc Hoa…
Đền Tiên La là di tích lịch sử tâm linh, ngôi đền thờ Bát Nạn Tướng Quân (Tướng quân phá nạn cho dân - có nơi gọi là Bát Nàn hay Bát Não) Vũ Thị Thục sinh năm 17, mất năm 43, một nữ danh tướng trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng có công đánh Tô Định, được phong: “Đông Nhung Đại Tướng Quân” có từ gần hai ngàn năm nay. Đền tọa lạc giữa thôn Tiên La (trước đây là gò Kim Quy), xã Đoan Hùng - huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình trên diện tích khoảng 6000 m2. Mặt trước đền hướng ra con sông Tiên Hưng gần ngã ba đổ ra sông Luộc, là nơi tương truyền Bà đã tuẫn tiết.Trải qua nhiều lần tu bổ, đến nay đền có quy mô lớn và đẹp, bao gồm nhiều công trình như hệ thống cổng đền, tòa tiền tế, tòa trung tế, thượng điện và hệ thống sân đền, giếng ngọc…. Toàn bộ ngôi đền làm theo cấu trúc “Tiền nhất – Hậu đinh” đúng cấu trúc, theo đúng dáng vóc kiểu cổ từ cột, kèo đến đao mái uốn cong và mang dáng hình con rồng bay lên hoặc Lưỡng Long Chầu Nguyệt, có ba tòa điện chính là: Đại Bái (Tiền tế), Trung tế và Hậu điện hay còn gọi là Hậu Cung. Qua cổng (Tam quan ngoại), vào sân đền là Tam quan nội và hai bên có Lầu Cô, Lầu Cậu. Bước lên tòa Tiền Tế gồm năm gian, du khách sẽ bắt gặp những bức đại tự với các câu đối cổ ca ngợi triều Trưng Vương và phẩm hạnh, tài sắc của nữ tướng Bát Nàn. Tòa điện Bái đường và thượng điện của đền được kiến trúc bằng vật liệu gỗ tứ thiết, nội thất được chạm trổ long- lân- quy- phượng xen lẫn với thông- cúc- trúc- mai rất tinh xảo.Tòa điện Trung tế là công trình kiến trúc đặc sắc được xây dựng theo kiểu phương đình, kiến trúc theo lối “Chồng diêm cố các”. Điều đặc biệt là toàn bộ vật liệu xây dựng ở tòa bái đường đều được làm bằng đá như hệ thống cột đá, xà đá, kèo đá…tòa điện được xây bằng mười sáu cột đá lớn, tám xà đá và tám kèo đá. Hệ thống cột, kèo, xà đá đều được chạm khắc rất công phu và kỹ xảo. Bốn cột cái chạm tứ linh, mười hai cột quân chạm long vân, tám xà chạm thông- cúc- trúc- mai xen lẫn long- ly- quy- phượng..Tòa cuối của đền là Hậu cung gồm ba gian nằm sâu bên trong, tương truyền đây là nơi có mộ của Bà. Trên nóc hiện còn bức đại tự rất quý đề bốn chữ: “Anh Linh Vạn Cổ” bằng chữ Hán. Gian giữa Hậu cung đặt một ban thờ, trên có ngai và tượng Bát Nạn tướng quân Vũ Thị Thục, xung quanh thờ các tướng sỹ và quân lính của bà. Gian bên tráI thờ thân phụ, gian bên phải thờ thân mẫu của Bà. Các ngai thờ và tượng thờ đều có từ lâu đời, theo các nhà nghiên cứu về chữ và cách chạm khắc thì có từ thời Tiền Lê, một số thuộc thời Trần và Hậu Lê. Ngoài ra, đền còn lưu giữ được nhiều đồ tế khí có giá trị thẩm mỹ niên đại từ thời Lê, các tài liệu như thần tích và sắc phong thần từ thời Lê đến thời Nguyễn, các bia đá, minh chuông…Bát Nàn công chúa (Có sách chép là Bát Nạn hay Bát Não) theo các truyền thuyết và thần tích cũ của làng Tiên La, Hưng Hà, Thái Bình, thần tích Đền Rẫy, Đền Buộm xã Tân Tiến – Hưng hà - Thái Bình cùng thần tích thờ thần miếu ở xã Phượng Lâu, huyện Phù Ninh, (Thần tích do danh thần thời Hậu Lê là Hàn Lâm đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn) nay thuộc Vĩnh Phúc. Thục Nương sinh ra tại quê ngoại vùng Hương Đa Cương (Nay thuộc xã Tân Tiến – Hưng Hà - Thái Bình), lớn lên tại quê cha (Phượng Lâu – Vĩnh Phúc), là người con gái xinh đẹp đoan trang có lòng yêu nước, thương nòi lại ưa binh đao, võ nghệ, cha là Võ Công Chất và mẹ là Hoàng Thị Mầu. Thân phụ là Hào trưởng ở Phượng Lâu nên khi bà chào đời cha mẹ đặt tên là Thục. Về sau bà nổi tiếng tài sắc, nên tục gọi là Thục Nương. Cha mẹ bà có đính hôn ước bà với Phạm Danh Hương (Có sách chép là vị Lạc hầu Trương Quán) quê ở Đức Bác (tức Liệp Trang – huyện Lập Thạch), vợ chồng bà đều có lòng yêu nước, ngầm lo việc cứu nước giúp dân.Bấy giờ, nước ta đang bị nhà Hán cai trị, nước ta gồm các Quận Giao Chỉ, Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố. Với âm mưu đồng hóa nên nhà Hán cho Thái Thú Tô Định cai quản và lập hệ thống Lạc hầu, hào mục từ trung ương xuống các địa phương, mua chuộc các tên gian tham làm tay sai cho chúng. Nơi Bà sinh sống có tên hào mục là Trần, vì căm tức không cưới được Thục Nương, nên đã ngầm thông mưu với Thái Thú Tô Định, vu cho Phạm Danh Hương làm phản. Năm Kỷ Hợi 39, khi Đặng Thi Sách (chồng Bà Trưng Trắc) bị giết ở Châu Diên thì chồng bà cũng bị giết ở Diên Hà. Khi đó, quân Tô Định vây chặt dinh trại, chồng bà bị hại, nửa đêm bà cầm song đao, mở đường máu chạy đến làng Tiên La, vào chùa ẩn thân. Từ ấy, nặng nợ nước thù nhà bà quyết chí báo phục, đêm ngày chiêu tập hào kiệt dựng cờ khởi nghĩa.Tháng ba năm Canh Tý (năm 40 sau Công nguyên). Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, Bà theo về giúp và cùng nữ tướng Lê Chân (quê Hải Phòng); nữ tướng Xuân Nương (quê Tam Nông-Phú Thọ) thống lãnh quân tiên phong.Nghĩa quân của Thục Nương đã sát cánh với các cánh quân khác, tả xung hữu đột chiến thắng giòn giã. Năm 41, đất nước hoàn toàn giải phóng. Hai Bà Trưng lên ngôi vua đóng đô tại Mê Linh – Vĩnh Phúc, đất nước vang tiếng khải hoàn ca. Trong đó có công lao to lớn của bà. Trưng Vương phong Bà làm Bát Nạn đại tướng quân, Trinh Thục Công Chúa, Uy viễn đại tướng quân, Đông Nhung đại tướng quân. Bà từ chối tước lộc, chỉ xin đem đầu giặc tế chồng. Tế xong, bà cởi bỏ nhung trang trở về chùa làng Tiên La, lập trang ấp sinh sống.Để phục thù, năm Quý Mão 43, nhà Hán sai Phục Ba Mã Viện, một viên tướng già lão luyện và gian ngoan trong chiến trận, đem 20 vạn quân sang phục thù, Bà đem đội nghĩa binh của mình đến chi viện cùng nghĩa quân của Hai Bà Trưng anh dũng chiến đấu, nhưng vì lực lượng yếu hơn, Hai Bà Trưng đã anh dũng tuẫn tiết hy sinh trên dòng sông Hát trong ngày 6 tháng 2. Còn cánh quân của Đông Nhung đại tướng quân, vì lực lượng quân địch đông và hung bạo, bọn giặc lại gian ngoan, thấy đội nữ binh của bà, chúng bảo nhau dùng kế khoả thân bao vây để bắt sống bà nộp cho chủ tướng giặc. Bà cùng một số nghĩa binh mở đường máu thoát vây chạy về trú ngụ tại chùa Tiên La tính kế lâu dài. Song bọn giặc đã đuổi tới. Bà chiến đấu anh dũng, rồi rút gươm tự vẫn, không chịu để quân giặc làm nhục. Hôm đó là ngày 16/3 năm Quý Mão. Theo truyền thuyết kể lại: Khi bà tuẫn tiết, bọn giặc đã lập trại trông xác bà bên gốc quế để hôm sau chúng treo xác bà để thị uy, nhưng chỉ 1 đêm đến sáng hôm sau bên cạnh gốc cây quế có 1 đống đất do mối xông phủ hết xác bà. Khi quân giặc quay lại tìm thấy đống đất mối xông như hình người, biết bà linh hiển, chúng không dám đụng chạm tới xác bà nữa. Từ đó người dân Tiên La gom góp vật liệu xây dựng ngôi đền nhỏ thờ Bà và hương khói, hàng ngàn năm nay không bao giờ tắt và tổ chức mở hội để ghi nhớ công đức của Bà vẫn theo nếp: mở cổng đền vào ngày mồng 10 và 3 ngày hội chính là 15, 16, 17 tháng 3 âm lịch hàng năm. Vì khi cầm binh khí đuổi giặc, từ cửa sông Đáy về ngã ba sông Nông, Bà thường cai quản 18 cửa ngàn, nên tục gọi Bà là chúa Thượng ngàn. Và ngôi chùa Bà ở tu khi xưa, sách chép là chùa Nam Liên ở trên núi, nên sách cũ cũng có chép Bà là sư nữ Nam Liên.Các triều đại sau đều có truy phong Bà làm thần:
+ Đời vua Lê Thánh Tông, sắc phong: ý Đức Đoan Trang Thục công chúa.
+ Đời vua Minh Mạng (Nhà Nguyễn) sắc phong: Dực Bảo Trung Hưng linh phù chi thần.
+ Đời vua Khải Định sắc phong: Dực Bảo Trung Hưng linh phù Thượng đẳng thần.
Lễ hội đền Tiên La để tưởng nhớ công ơn Bát Nạn Tướng Quân trước đây được tổ chức vào 15 đến 17 tháng ba âm lịch hàng năm. Ngày nay để phục vụ đông đảo du khách về dự, Ban tổ chức lễ hội đã mở hội từ đầu tháng ba, chính hội tổ chức vào ngày 17 âm lịch, trùng ngày hy sinh của Bà (ngày 17 tháng 3 năm Quý Mão).Trong phần hội có các trò chơi dân gian như chọi gà, đấu vật, múa rồng, múa sư tử… Đặc biệt là phần rước kiệu, rước nước và một số trò chơi dân gian khác như đánh đáo, thổi sáo trúc… đậm đà bản sắc dân tộc. Ngoài ra, vào các dịp lễ hội còn có nhiều đoàn văn hóa nghệ thuật của tỉnh Thái Bình và các tỉnh lân cận về biểu diễn các tiếp mục văn hóa đặc sắc như các vở chèo: Quan âm Thị Kính; Lưu Bình- Dương Lễ; Phạm Trân- Cúc Hoa…
kể lại truyện Sự tích đền Tiên La
Đóng vai Bát Nạn tướng quân kể lại truyện "Sự tích đền Tiên La"
Hãy viết một đoạn văn khoảng 6 đến 8 câu nêu cảm nghĩ của em về nhân vật Vũ Thục Nương trong sự tích đền Tiên La
Sau khi đọc trong sự tích đền Tiên La, em đặc biệt ấn tượng với nhân vật Vũ Thục Nương. Nàng sinh ra trong gia đình bốc thuốc cứu người, vừa đẹp người đẹp nết, văn võ song toàn đã làm quận trưởng Phạm Danh Hương si mê. Đôi trai tài gái sắc ấy ngỡ sẽ có một cuộc sống viên mãn nhưng sóng gió lại ập tới khiến Thục Nương tan cửa nát nhà. Nhưng cô gái ấy vẫn giữ cho mình nghị lực sống kiên cường nhất định phải trả nợ nước thù nhà. Thục Nương đã chiêu tập binh mã, dựng cờ khởi nghĩa, lập đàn tế trời dấy binh chống lại quân xâm lược phương Bác - điều mà một người phụ nữ sống trong thời đại phong kiến không mấy ai có đủ dũng cảm và tài chí để làm được như nàng. Nhưng đáng tiếc tài chí của người con gái ấy không gặp thời, thế giặc rất mạnh không đủ sức chống trả nên nàng đã hi sinh cùng quân sỹ của mình tại Kim Quy. Thời gian đã trôi qua hàng nghìn năm song câu chuyện về Vũ Thục Nương - người con gái dũng cảm và tài năng ấy chưa bao giờ bị lãng quên mà luôn sống mãi cùng đất nước muôn đời.
Viết đoạn văn miêu tả đền Tiên La ( thái bình ) nha! help me
Đền Tiên La là ngôi đền thờ Bát Nàn tướng quân (tướng quân phá nạn cho dân, có nơi gọi là "bát nạn" hay "bát não") Vũ Thị Thục (sinh năm 17, mất năm 43), một nữ tướng của Hai Bà Trưng có công đánh Tô Định.
Đền Tiên La tọa lạc tại thôn Tiên La, xã Đoan Hùng (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) trên một diện tích khoảng 4000 m². Mặt trước đền hướng ra phía con sông Tiên Hưng.
Trải qua nhiều lần tu bổ, đến nay đền có quy mô lớn và đẹp, bao gồm nhiều công trình như hệ thống cổng đền, tòa tiền tế, tòa trung tế, thượng điện và hệ thống sân đền... Tòa điện bái đường và thượng điện của đền được kiến trúc bằng vật liệu gỗ tứ thiết, nội thất được chạm trổ long - lân - quy - phượng, đan xen với thông - trúc - cúc - mai.
Tòa điện trung tế là công trình kiến trúc đặc sắc được xây dựng theo kiểu phương đình, kiến trúc theo lối "chồng diêm cổ các". Điều đặc biệt là toàn bộ vật liệu xây dựng ở tòa bái đường đều làm bằng đá như hệ thống cột, xà, kèo... Tất cả đều được chạm trổ công phu. Ngoài ra, đền Tiên La còn lưu giữ được nhiều đồ tế khí có giá trị thẩm mỹ niên đại từ thời Lê, các tài liệu như thần tích và sắc phong thần thời Lê đến thời Nguyễn, bia đá, minh chuông.
Lễ hội đền Tiên La để tưởng nhớ công ơn Bát Nạn Tướng Quân, được tổ chức vào các ngày 15 đến 17 tháng 3 âm lịch. Ngày nay để phục vụ đông đảo du khách về dự hội ban tổ chức lễ hội đã mở hội từ ngày 10 đến 20 tháng 3 âm lịch. Chính hội là ngày 17, trùng ngày hy sinh của bà tướng là ngày 17 tháng 3 năm Quý Mão (năm 43)[1]. Phần hội có trò chọi gà, đấu vật, múa rồng, múa sư tử, đặc biệt là phần rước kiệu và một số trò chơi dân gian khác như đánh đáo, trọi gà, thổi sáo trúc.Ngoài ra, vào dịp lễ hội còn có nhiều đoàn văn hoá nghệ thuật của tỉnh Thái Bình và các tỉnh lân cận cũng đến biểu diễn các tiết mục văn hoá đặc sắc như các vở chèo: Quan âm Thị Kính; Lưu Bình - Dương Lễ, Phạm Tải - Ngọc Hoa...
viết đoạn văn giới thiệu đền tiên la
mong các bạn giúp
mk chua di lan nao thong cam nha -_-
Đền Tiên La là ngôi đền thờ Bát Nàn tướng quân (tướng quân phá nạn cho dân, có nơi gọi là "bát nạn" hay "bát não") Vũ Thị Thục (sinh năm 17, mất năm 43), một nữ tướng của Hai Bà Trưng có công đánh Tô Định.
Đền Tiên La tọa lạc tại thôn Tiên La, xã Đoan Hùng (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) trên một diện tích khoảng 4000 m². Mặt trước đền hướng ra phía con sông Tiên Hưng.
Trải qua nhiều lần tu bổ, đến nay đền có quy mô lớn và đẹp, bao gồm nhiều công trình như hệ thống cổng đền, tòa tiền tế, tòa trung tế, thượng điện và hệ thống sân đền... Tòa điện bái đường và thượng điện của đền được kiến trúc bằng vật liệu gỗ tứ thiết, nội thất được chạm trổ long - lân - quy - phượng, đan xen với thông - trúc - cúc - mai.
Tòa điện trung tế là công trình kiến trúc đặc sắc được xây dựng theo kiểu phương đình, kiến trúc theo lối "chồng diêm cổ các". Điều đặc biệt là toàn bộ vật liệu xây dựng ở tòa bái đường đều làm bằng đá như hệ thống cột, xà, kèo... Tất cả đều được chạm trổ công phu. Ngoài ra, đền Tiên La còn lưu giữ được nhiều đồ tế khí có giá trị thẩm mỹ niên đại từ thời Lê, các tài liệu như thần tích và sắc phong thần thời Lê đến thời Nguyễn, bia đá, minh chuông.
Lễ hội đền Tiên La để tưởng nhớ công ơn Bát Nạn Tướng Quân, được tổ chức vào các ngày 15 đến 17 tháng 3 âm lịch. Ngày nay để phục vụ đông đảo du khách về dự hội ban tổ chức lễ hội đã mở hội từ ngày 10 đến 20 tháng 3 âm lịch. Chính hội là ngày 17, trùng ngày hy sinh của bà tướng là ngày 17 tháng 3 năm Quý Mão (năm 43)[1]. Phần hội có trò chọi gà, đấu vật, múa rồng, múa sư tử, đặc biệt là phần rước kiệu và một số trò chơi dân gian khác như đánh đáo, trọi gà, thổi sáo trúc.Ngoài ra, vào dịp lễ hội còn có nhiều đoàn văn hoá nghệ thuật của tỉnh Thái Bình và các tỉnh lân cận cũng đến biểu diễn các tiết mục văn hoá đặc sắc như các vở chèo: Quan âm Thị Kính; Lưu Bình - Dương Lễ, Phạm Tải - Ngọc Hoa...
Trải qua nhiều lần tu bổ, đến nay đền có quy mô lớn và đẹp, bao gồm nhiều công trình như hệ thống cổng đền, tòa tiền tế, tòa trung tế, thượng điện và hệ thống sân đền, giếng ngọc…. Toàn bộ ngôi đền làm theo cấu trúc “Tiền nhất – Hậu đinh” đúng cấu trúc, theo đúng dáng vóc kiểu cổ từ cột, kèo đến đao mái uốn cong và mang dáng hình con rồng bay lên hoặc Lưỡng Long Chầu Nguyệt, có ba tòa điện chính là: Đại Bái (Tiền tế), Trung tế và Hậu điện hay còn gọi là Hậu Cung. Qua cổng (Tam quan ngoại), vào sân đền là Tam quan nội và hai bên có Lầu Cô, Lầu Cậu. Bước lên tòa Tiền Tế gồm năm gian, du khách sẽ bắt gặp những bức đại tự với các câu đối cổ ca ngợi triều Trưng Vương và phẩm hạnh, tài sắc của nữ tướng Bát Nàn. Tòa điện Bái đường và thượng điện của đền được kiến trúc bằng vật liệu gỗ tứ thiết, nội thất được chạm trổ long- lân- quy- phượng xen lẫn với thông- cúc- trúc- mai rất tinh xảo.Tòa điện Trung tế là công trình kiến trúc đặc sắc được xây dựng theo kiểu phương đình, kiến trúc theo lối “Chồng diêm cố các”. Điều đặc biệt là toàn bộ vật liệu xây dựng ở tòa bái đường đều được làm bằng đá như hệ thống cột đá, xà đá, kèo đá…tòa điện được xây bằng mười sáu cột đá lớn, tám xà đá và tám kèo đá. Hệ thống cột, kèo, xà đá đều được chạm khắc rất công phu và kỹ xảo. Bốn cột cái chạm tứ linh, mười hai cột quân chạm long vân, tám xà chạm thông- cúc- trúc- mai xen lẫn long- ly- quy- phượng..Tòa cuối của đền là Hậu cung gồm ba gian nằm sâu bên trong, tương truyền đây là nơi có mộ của Bà. Trên nóc hiện còn bức đại tự rất quý đề bốn chữ: “Anh Linh Vạn Cổ” bằng chữ Hán. Gian giữa Hậu cung đặt một ban thờ, trên có ngai và tượng Bát Nạn tướng quân Vũ Thị Thục, xung quanh thờ các tướng sỹ và quân lính của bà. Gian bên tráI thờ thân phụ, gian bên phải thờ thân mẫu của Bà. Các ngai thờ và tượng thờ đều có từ lâu đời, theo các nhà nghiên cứu về chữ và cách chạm khắc thì có từ thời Tiền Lê, một số thuộc thời Trần và Hậu Lê. Ngoài ra, đền còn lưu giữ được nhiều đồ tế khí có giá trị thẩm mỹ niên đại từ thời Lê, các tài liệu như thần tích và sắc phong thần từ thời Lê đến thời Nguyễn, các bia đá, minh chuông…
viết bài văn về chuyến thăm quan đền tiên la ở thái bình
giúp lẹ với !
Bài tham khảo:
Một ngày đẹp trời, tôi cùng gia đình quyết định thực hiện một chuyến thăm quan đến Đền Tiên La ở Thái Bình. Đây là một điểm đến lịch sử với những giá trị văn hóa đặc biệt, nơi mà chúng ta có thể khám phá và tìm hiểu về quá khứ huy hoàng của đất nước.
Đến Đền Tiên La, tôi không khỏi ngạc nhiên trước vẻ đẹp tráng lệ và tinh tế của kiến trúc cổ kính. Đền được xây dựng từ thời kỳ Tiên Lãng, một thời kỳ lịch sử quan trọng của đất nước. Các công trình kiến trúc ở đây được xây dựng với sự tinh tế và sự chăm chỉ của những người thợ xây dựng thời đó. Từ cổng chào đón đến các ngôi đền và đình, mọi thứ đều mang đậm dấu ấn của nền văn hóa truyền thống. Điểm đặc biệt của Đền Tiên La chính là sự kết hợp giữa kiến trúc và thiên nhiên. Đền được xây dựng trên một ngọn đồi nhỏ, tạo nên một khung cảnh hài hòa và thanh bình. Từ đây, chúng tôi có thể ngắm nhìn toàn cảnh của vùng đất Thái Bình, với những cánh đồng lúa bát ngát và những con sông êm đềm chảy qua. Cảm giác yên bình và thư thái tràn đầy trong lòng tôi khi đứng trên đỉnh đồi, ngắm nhìn cảnh quan tuyệt đẹp này. Ngoài việc khám phá kiến trúc và thiên nhiên, chúng tôi cũng được tìm hiểu về lịch sử và truyền thống của Đền Tiên La. Hướng dẫn viên tận tâm đã giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về những câu chuyện và truyền thống lâu đời của đền. Chúng tôi được nghe về những vị thần và anh hùng trong lịch sử, những câu chuyện hào hùng và những giá trị văn hóa truyền thống mà Đền Tiên La mang lại.
Chuyến thăm quan Đền Tiên La ở Thái Bình đã để lại trong tôi những ấn tượng sâu sắc. Tôi không chỉ được tận hưởng vẻ đẹp của kiến trúc cổ kính và thiên nhiên tuyệt vời, mà còn hiểu thêm về lịch sử và văn hóa của đất nước. Đây là một trải nghiệm tuyệt vời và tôi mong rằng mọi người cũng có cơ hội khám phá và tìm hiểu về Đền Tiên La ở Thái Bình.
viết một bài văn kể về di tích nhà tù sơn la hoặc di tích đền thờ vua lê thánh tông sơn là bằng tiếng anh
viết một bài văn kể về di tích nhà tù sơn la hoặc di tích đền thờ vua lê thánh tông sơn là bằng tiếng anh