Ngữ văn

Phạm Thị Yến Trang
Xem chi tiết
Mai Linh
27 tháng 1 2016 lúc 15:33

Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại những dâu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu nước môi trường thử thách tinh thần chiến đấu ngoan cường, bất khuất của nhân dân ta. Cuộc kháng chiến còn làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người lính.

Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên..., Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc Đoàn quân Tây Tiến quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lớp thanh niên từ khắp phố phường Hà Nội. Có nhiều thanh niên học sinh thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản vừa rời trang sách nhà trường để tham gia vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Tất cả những con người ấy ra đi với lí tưởng chung của dân tộc chiến đâu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Họ ra đi không hẹn ngày trở về chiến đấu với mục đích “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” Cái ảnh thần ấy là hào khí của cả một thế hệ, đã từng được phản ánh trong một bài hát thời đó:

Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi,

Nào có sá chi đâu ngày trở về.

Trong đoàn người nô nức lên đường đi chiến đấu, trong hàng ngũ những thanh niên trí thức ngày hôm qua có khi là những tự vệ chiến đấu trên phố phường, chiến lũy Hà Nội, mà hôm nay đã có mặt trong đoàn quân Tây Tiến, thấp hoáng xuất hiện một khuôn mặt: Quang Dũng, tác giả của bài thơ. Như bao thanh niên trí thức của Hà Nội ngày ấy, Quang Dũng cũng háo hức gia nhập đoàn quân Tây Tiến với một niềm say mê của tuổi trẻ và một chút lãng mạn của những người thanh niên “nho sĩ quỵ tộc” ảnh hưởng trong Chinh phụ ngâm:

Giã nhà đeo bức chiến bào hay Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao. Cũng chính vì thế mà những thanh niên như Quang Dũng sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hi sinh để chiến đấu đến ngày thắng lợi cuối cùng. Vào Tây Tiến, Quang Dũng cùng sống và chiến đấu một thời gian với đơn vị này và sau đó chuyển sang đơn vị khác. Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về những người đồng đội, nhớ về những tháng ngày chiến đâu gian nan nhưng hào hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ những con đường hành quân mà ông cùng đơn vị từng đi qua. Nỗi nhớ ấy dần lớn lên trong Quang Dũng, bật ra thành hai câu thơ:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Cuộc sống chiến đấu của Tây Tiến cùng những nơi mà đơn vị đã đi qua hẳn là những kỉ niệm hết sức sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Hẳn một phần quãng đời Quang Dũng gắn bó với Tây Tiến là cuộc sống hoạt động trong vùng rừng núi. Bởi thế, nhà thơ nhớ về Tây Tiến là nhớ ngay về sông Mã, nhớ về rừng núi với bao kỉ niệm vui buồn, ấn tượng về một miền rừng núi khắc nghiệt đã để lại trong tâm hồn nhà thơ dấu ẩn chẳng phai mờ. Vì thế, Quang Dũng nhớ về những tháng ngày đã qua với một tình cảm yêu thương lắm nhưng chẳng biết gọi lên chính xác nỗi nhớ ây. Nhớ chơi vơi! hai liếng chơi vơi dùng ở đây thật là đắc địa. diễn tả một nỗi nhớ không có hình, không có lượng nhưng hình như rất nặng và mênh mang đầy ắp. Cái tâm trạng nhớ ấy ta đã bắt gặp không chỉ một lần trong ca dao: Ra về nhớ bạn chơi vơi, hoặc:

Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,

Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.

Quang Dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trứng thêm cho nỗi nhớ chơi vơi của mình, thật là chi tiết đắt giá! Ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả vùng rừng núi ấy thiết tha như thế làm cho người đọc chú ý ngay. Nhớ Tây Tiến, nhớ về sông Mã và núi rừng trùng điệp, nhớ con đường hành quân:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Con đường hành quân điệp trùng với bao cái khắc nghiệt, dữ dội của mỗi vùng rừng biên ải. Đọc đoạn thơ, chưa cẩn suy ngẫm nội dung bên trong, chúng ta đã có thể hình dung ra con đường mà Quang Dũng miêu tả. Kết câu đoan thơ cứ thanh bằng thanh trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên man, vô tận như con đường xa thẳm khấp khểnh. Nhạc điệu êm ả, triền miên. Đoàn quân Tây Tiến đi trong lớp sương dày của núi rừng, tất cả lung linh trong lớp sương khói mờ ảo, như thực, như mộng. Thế nhưng, mỗi địa danh đều gợi lên trong người đọc về hình ảnh của một xứ lạ, phương xa; nếu ta chỉ thử thay Sài Khao bằng một tên gọi khác là lớp sương huyền ảo ấy lan biến ngay. Đoàn quân Tây Tiến cất bước , trên con đường xa vạn dặm, với cái trắc trở, gập ghềnh của con đường. Đã dốc lên khúc khuỷu mà còn dốc thăm thẳm, đã ngàn thước lên cao rồi lại ngàn thước xuống thì đúng là đến độ cao chất ngất, ngoằn ngoèo khó đi. Tất cả những đặc điểm ấy diễn tả nổi khó khăn của đoàn quân Tây Tiến khi hành quân. Nó ghi lại ấn tượng về một miền rừng núi thật là dữ dội và khắc nghiệt Quang Dũng có những cách dùng từ rất tinh tế mà cũng hết sức tinh nghịch: núi cao chạm mây nổi thành cồn heo hút, và để diễn tả chiều cao của núi thì chỉ ba chữ súng ngửi trời nghe thật ngộ nghĩnh. Phải chăng đó là cách gọi của lính mà Quang Dũng ghi lại với tư cách một người trong cuộc? Dù sao, qua những từ ngữ, chi tiết và cách kết hợp thanh điệu của đoạn thơ cũng đã vẽ lên trước mát ta hình ảnh một miền rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng đi qua. Có những câu thơ dùng toàn vần bằng rất hay:

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Sau khi ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống người chiến sĩ Tây Tiến như đứng trên nùi cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa. Những ngôi nhà như đang trôi bồng bềnh trong làn mưa trắng. Thanh bằng của từng chữ trải ra, mênh mang, diễn tả cái màn mưa phủ giăng thung lũng. Rừng núi trùng, ấn tượng về miền rừng núi cũng thật là khắc nghiệt và dữ dội:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Chỉ hai câu thơ thôi mà gieo vào lòng ta tất cả những sự khắc nghiệt của miền rừng núi này - một miền núi rừng âm u với thú dữ đe doạ con người. Hai chữ Mường Hịch đi với nhau nghe nặng như chân cọp. Có một điều kì lạ là nếu ta thay địa danh này bằng hai chữ khác như Châu Thuận chẳng hạn, thì hiệu lực câu thơ sẽ giảm sút ngay. Qua sự miêu tả của Quang Dũng, một vùng núi rừng biên ải hiện lên với tất cả sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên. Đó là những khó khăn mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua trên con đường hành quân. Cái trắc trở, gian lao cùa con đường Tây Tiến chợt làm chúng ta nhớ đến câu thơ của Lí Bạch:

Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên.

(Đường xứ Thục khó đi, khó hơn lên tận trời xanh).

Đó là tất cả những gian khổ, nguy hiểm do thiên nhiên đem đến mà người chiến sĩ Tây Tiến phải chịu đựng.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ, bỏ quên đời!

Quang Dũng nói cái thực trên con đường Tây Tiến. Bao người chiến sĩ đã nằm lại trên con đường hành quân. Có một điều lạ làm toả sáng cả ý thơ là người lính Tây Tiến đến lúc gục xuống vẫn cố gắng trong tư thế của người lính, chết rồi nhưng súng mũ vẫn còn đó, hành trang của người chiến sĩ vẫn còn trong tư thế tiếp tục cuộc hành trình. Bao cảnh gian khổ khó khăn, khắc nghiệt dữ dội của con đường hành quân, của thiên nhiến xứ lạ đã thử thách người chiến sĩ Tây Tiến một cách ghê gớm. Có những người lính đã vượt qua được, và cũng không ít những người phải nằm lại phía sau. Người lính dãi dầu qua mưa nắng, đi từ khó khăn này đến gian khổ khác, chịu hết thử thách này đến thử thách thác mà dường như vẫn chẳng nể hà; đến khi kiệt sức phải gục xuống thì cũng cố gắng gục xuống trong tư thế của người chiến sĩ.

Cho dù Quang Dũng có nói sự thực về một vùng rừng núi che lấp con người, nhưng chính những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ đã đưa họ bay lên, vượt lên trên cái gian khổ và thiếu thốn. Quang Dũng là một người trong cuộc, rừng là chiến sĩ Tây Tiến, chính vì vậy mà nhà thơ viết về cuộc sống gian khổ của người chiến sĩ Tây Tiến một cách hết sức cảm động. Cái khắc nghiệt, khổ và dữ dội của một miền biên ải, những gian truân mà người chiến sĩ Tiến phải chịu đựng và những ấn tượng không thể nào quên. Quang Dũng về người lính Tây Tiến không như những nhà thơ khác; ông nói thật về sự khổ, hi sinh của người lính một thời. Thế nhưng, hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến không vì thế mà trở nên uỷ mị, ngược lại càng thêm cao đẹp hơn. Miêu tả nét chiến sĩ với cái bi, nhưng là “bi tráng”. Nói cái gian khổ để đề cao chiến thắng nói hi sinh để nâng hình ảnh người lính lên một tầm cao thời đại cũng là một cách “vẽ mây nảy trăng” trong hội hoạ vậy. Bởi chiến thắng có giá trị gì khi chiến thắng dễ dàng, không có hi sinh? Và hình ảnh người lính sẽ không thật cao đẹp nếu họ không trải qua những thử thách gian truân của cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt.

Lao xao sóng vỗ ngọn tùng

Gian nan là nợ anh hùng phải vay.

Đó là một lời đúc kết kinh nghiệm về giá trị cùa chiến thắng, giá trị cả phẩm chất con người. Giữa bao cái gian khổ, khắc nghiệt đã thành ấn tượng niềm vui, dù ít ỏi, càng đáng nhớ hơn:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói ....

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Dường như để trả trạng thái tâm hồn chúng ta về thế cân bằng sau khi chùng xuống trước cuộc sống chiến đấu cùa người chiến sĩ Tây Tiến, Quang Dũng hồi tưởng lại nhiều hình ảnh vui, ấm áp. Khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi cái ấm cúng của cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Sức nóng của nó đủ làm tâm hổn dần ấm lại sau những phút giây chứng kiến những gian khổ của người lính, đuốc hoa là hình ảnh có sức khơi gợi, gợi cho ta cái cảm giác tươi vui như đang chứng kiến lễ hội đông vui. Hai liếng kìa em vừa ngỡ ngàng, vừa sung sưc nó diễn cả tâm hồn của người chiến sĩ Tây Tiến. Trong cả đoạn thơ dìu dặt thành tiếng nhạc, tiếng khèn, phảng phất hình ảnh vui tươi của cuộc sống ) bình như chẳng biết đến chiến ưanh. Hình ảnh nhạc về Viên Chăn xây hồn là hình ảnh đẹp, thơ mộng, diễn tả tâm hồn phong phú của người lính Tây Tiến. Họ tổ chức hội vui, sau bao thử thách khắc nghiệt của núi rừng dữ dội. Và mặc dù biết rằng sẽ còn liếp tục chịu đựng những gian truân, hi sinh, người lính Tây Tiến vẫn múa hát, đùa vui, vẫn lạc quan yêu đời. Có thể chỉ ngày hôm sau một người nào đó trong số họ phải nằm lại nơi núi rừng u tịch, nhưng hôm nay làm hồn họ vẫn mộng mơ, mơ đến những hình ảnh đẹp của thi và hoạ, xây hồn thơ. Và như vậy, họ sẵn sàng đón nhận mọi thử thách tiếp theo, coi đó như một việc bình thường mà đời lính phải chấp nhận. Không lên gân, không khiên cưỡng, mọi gian khổ hi sinh đối với người lính là chuyện binh thường và tất yếu, vì vậy mà họ vẫn lạc quan, vẫn yêu đời, vẫn sống với lâm hồn trẻ trung, tươi mát. Cũng vậy mà người lính Tây Tiến có thể vẫn nhớ một dáng thuyền độc mộc, hoặc một bông hoa trên dòng nước lũ. Những hình ảnh rất binh thường ấy, ngỡ rằng sau bao sự thử thách về tinh thần, người lính sẽ quên đi. Nhưng không, họ vẫn nhớ. Những hình ảnh ấy in sâu vàu tâm hồn ngựời lính Tây Tiến, là nguồn động viên thúc giục họ chiến đấu, dù tiếp tục đón nhận những thử thách mới:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. li ''àn quân không mọc tóc! Có cách nói nào lại khơi dậy nhiều cảm xúc đến thế! Như vậy thì hình ảnh của anh bộ đội Tây Tiến có trở nên quái đản không? Không đâu! Đó chính là hình ảnh oai hùng của anh “Vệ trọc” nổi tiếng một thời rét nên tóc rụng vả lại, cái cách nói đoàn quân không mọc tóc ấy phần nào cũng dựng nên hình ảnh người tráng sĩ với dáng dấp thật hùng dũng và hiên Quân không mọc tóc, quân lại xanh màu lá, màu xanh ấy có thể do cành lá trang, nhưng chủ yếu là do sốt rét rừng. Những cơn sốt rét ghê gớm đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người chiến sĩ. Ta cảm động trước hình ảnh người sĩ Tây Tiến, và chợi nhớ đến hình ảnh người chiến sĩ trong một số bài thơ đương thời:

Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật,

Đâu còn tươi nữa những ngày qua.

Người lính Tây Tiến cũng chịu đựng những cơn sốt rét ghê gớm ấy, thế nhưng, nó không làm nhụt đi ý chí của người chiến sĩ mà ngược lại họ càng chiến đấu dũng cảm hơn, kiên cường hơn, quân xanh màu lá nhưng vẫn dữ oai Cái khí phách hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến được ghi lại bằng sự so sánh cân bằng. Nếu ở khổ thơ trên, người lính chịu sự đe doạ của cọp thì họ cũng chiến đấu với tinh thần dũng cảm của một chúa sơn lâm như thế. Câu thơ sau nâng đỡ câu thơ trước vút bay lên như ánh hào quang của phẩm chất người lính Tây Tiến. Miêu tả khí thế chiến đấu hào hùng của người chiến thắng một sự so sánh như thế, Quang Dũng thực sự đã hiểu người lính và đã hòa đồng với họ. Chiến đâu dũng mãnh như thế, nhưng người lính Tây Tiến vẫn có đời sống tâm Hà Nội hết sức tinh tế:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Người chiến sĩ ra đi từ những mái trường, chiến đấu nhưng vẫn không quên hậu phương. Phía trước là trận đánh, tình cảm thể hiện qua giấc mộng, có thực, có mơ. Dáng kiều thơm gợi nên cái dáng vẻ yêu kiều của người con gái Thủ đô chữ thơm được dùng với nghĩa như “sắc nước hương trời” vậy! Người chiến sĩ của Quang Dũng ra đi, mang theo cả phong thái hào hoa của người thanh niên trí thức, cái phong thái đã giúp người chiến sĩ sống bằng đời sống tâm ít phong phú sau mỗi trận đánh ác liệt.

Cái cuộc sống tâm hồn ây là nguồn động lực giúp người lính tiếp tục chiến đâu để giành lây độc lập, tự do cho Tổ quốc thân thương. Và cũng vì thế, người chiến sĩ chấp nhận sự hi sinh:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc ười xanh.

Cứ thử làm công việc tách hai câu thơ thành từng câu một. Ôi! Cái ấn tượng bi thảm đên vô cùng mà câu thơ đầu mang đến thật mạnh mẽ. Không hiểusao, cứ mỗi lần đọc đên câu thơ này là tôi lại chìm vào trong suy tưởng và nước mắt cứ rưng rưng! Trên con đường gập ghềnh xa thẳm của miền núi rừng biên giới đoàn quân Tây Tiến cứ đi và thỉnh thoảng có những con người phải tách ra khỏi đội hình. Những nấm mộ của người chiến sĩ mọc lên. Câu thơ thật là bi thảm. Nhưng câu thơ sau như một lực nâng vô hình, đã đưa câu thơ đầu lên cao, cái thảm giờ đây đã trở thành bi tráng. Nó bi tráng và hào hùng bởi Quang Dũng nói được một điều cốt lõi trong nhân cách của người lính: biết hi sinh, biết gian khổ nhưng vẫn cứ ra đi giải phóng quê nhà. Họ ra đi chẳng tiếc đời xanh, bởi quãng đời tươi đẹp ấy đã hiến dâng cho một lí tưỏng cao đẹp: chiến đấu vì tổ quốc. Họ ra đi và ngã xuống thanh thản không một chút vướng bận, cái chết được xem nhẹ lựa lông hồng:

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Cách dùng từ áo bào của Quang Dũng làm cho câu thơ trở nên cổ kính, áo bào chứ không phải chiến bào; người chiến sĩ như những danh tướng thời xưa da ngựa bọc thây là một điều vinh quang. Cũng như thế, người lính coi việc hi sinh trên chiến trường là một nghĩa vụ thiêng liêng. Người chiến sĩ Tây Tiến ngã xuống và thanh thản về đất. Đất sinh ra anh và lại đón nhận anh về sau khi làm tròn nghĩa vụ. Anh về đất như một hành động tựu nghĩa của những anh hùng. Mở đầu bài thơ là hình ảnh sông Mã, kết thúc bài thơ vẫn là tiếng gầm thét của dòng sông này. Dòng sông tiễn anh ra đi chiến đấu lại đón anh về:

Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Quang Dũng khẳng định lại một lần nữa cái ý chí nhất khứ bất phục phản ra đi là không trở lại). Đó cũng là ý chí quyết tâm của cả một thế hệ, của một thời đại.

Những gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến là những kỉ niệm không thể quên. Sẽ không bao giờ còn có lại thời kì gian khổ đến mức ấy và cũng hào hùng đến mức ấy. Và cũng khó có thể có được bài thơ Tây Tiến thứ hai.

Bình luận (0)
Khánh Huyền Nguyễn Thị
29 tháng 1 2016 lúc 17:44

Chiến tranh, người lính luôn là đề tài không bai giờ cũ đối với những nghệ sỹ thời chiến. Chúng ta bắt gặp hình ảnh những người lính trong “Đồng chí” của Chính Hữu, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Nhưng có lẽ ấn tượng, trữ tình và chân thực là hình ảnh người lính trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng. Với cách khắc họa hình tượng người lính thành công, người đọc đã không thể quên được hình ảnh những người lính cụ hồ thời kì kháng chiến chống pháp.

Bài thơ cũng chính là nỗi nhớ của chính tác giả về những năm tháng chiến tranh ác liệt nơi chiến trường xưa. Bài thơ được mở đầu bằng một tiếng gọi tha thiết:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Phù Lao Chanh là mảnh đất mà trước đây đoàn quân đã từng đi qua. Quang Dũng cùng rất nhiều thanh niên khác ở Hà Thành đã xếp bút nghiên lên đường ra chiến trường theo tiếng gọi của tổ quốc. Câu thơ cất lên như một tiếng gọi tha thiết về quá khứ từng trải qua. Sông Mã là con sông lớn, in dấu nhiều cuộc chiến tranh đổ lửa cũng như để lại bao nhiêu hoài niệm thời xa vắng của tác giả. Nỗi nhớ trong lòng tác giả là một nỗi nhớ “chơi vơi”. Một từ ngữ rất nhẹ nhưng dường như lại khiến cho nỗi nhớ thêm đầy, không thể nào vơi đi bớt.

Quang Dũng đã cụ thể hóa nỗi nhớ đó bằng những hình ảnh còn đọng lại trong ký ức về vùng đất chiến tranh ác liệt này:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi      

Mường Lát hoa về trong đêm hơi        

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm    

Heo hút cồn mây súng ngửi trời         

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Với những địa danh quen thuộc như “Sài Khao” và “Mường Lát” gợi nhớ về những năm tháng chiến tranh đó. Hai câu thơ với giọng rất êm, hình ảnh rất thi vị, nhẹ nhàng khiến cho người đọc cảm nhận đươc sự thi vị và lắng sâu. Đoàn quân Tây Tiến hành quân trong khói sương mù mịt, cái lạnh dường như len lỏi vào sâu trong tim. Một khung cảnh lãnh mạn, trữ tình giữa chiến tranh ác liệt thật khiến nhiều người ngưỡng mộ. Đó chính là một sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc về thiên nhiên giữa núi rừng thăm thẳm.

Giữa thiên nhiên thơ mộng, trữ tình, hình ảnh kì vĩ, bao la của thiên nhiên và đất trời được phác họa qua nét bút của tác giả khiến cho người đọc cảm nhận được cuộc sống gian khổ, cuộc chiến khó khăn của đoàn quân. Từ ngữ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” đã phần nào diễn tả được sự gồ ghề, khó khăn, khập khiễng của núi rừng. Có cảm giác như đoàn quân phải vượt qua bao nhiêu ngọn núi, đối mặt với bao nhiêu hiểm nguy mới có thể giành được chiến thắng.

Có một hình ảnh rất đẹp, rất lãng mạn hiện lên “súng ngửi trời”. Thật thi vị và trữ tình. Hình ảnh “súng ngửi trời” là một hình ảnh mang tính chất nghệ thuật cao, gợi nên khung cảnh thật nên thơ. Nó hoàn toàn đối lập với cuộc chiến tranh đang diễn ra ác liệt ở ngoài kia.

Bình luận (0)
Nguyễn Văn Nam
Xem chi tiết
Liên Hồng Phúc
27 tháng 1 2016 lúc 19:22
Nguyễn Duy được người đọc biết đến như một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ Nguyễn Duy có sự kết hợp hài hòa giữa nét duyên dáng, trữ tình với chất thế sự đậm đặc. Nhiều bài gây hiệu ứng rộng rãi trong công chúng bởi sự lên tiếng vừa khẳng khái, bộc trực vừa trầm tĩnh, sâu sắc của nhà thơ về những vấn đề bức xúc của xã hội Việt Nam đương đại. 

Các tác-phẩm chính, về thơ: Cát trắng (1973), Ánh trăng (1984), Mẹ và em (1987),… về các thể loại khác: Em – Sóng (kịch thơ,. 1983), Khoảng cách (tiểu thuyết, 1986), Nhìn ra bể rộng trời cao (bút kí, 1986),… Nhà thơ sáng tác bài Đò Lèn năm 1983, trong một dịp trở về quê hương để sống lại với những kỉ niệm buồn vui thời thơ ấu. Bài thơ là tâm tư, nỗi niềm của tác giả khi nhớ về tuổi thơ hồn nhiên, khờ dại, về nỗi vất vả mưu sinh của bà ngoại để nuôi mình, về sự ân hận muộn màng khi biết thương bà thì bà đã qua đời. Thông qua đó, tác giả muốn nói với mình, với mọi người là hãy sống tử tế đối với những người ruột thịt thân yêu.

 Bài thơ mang cái tên rất bình dị, mộc mạc: Đò Lèn. Đó là tên quê hương tác giả, cũng giống như trăm nghìn cái tên làng xóm quen thuộc khác ô nông thôn Việt Nam như thôn Đông, thôn Đoài, xóm Thượng, xóm Hạ… Nhưng khi tác giả đưa vào thơ thì nó đã trở thành một trời nhớ thương da diết    khôn nguôi về những    năm tháng tuổi nhỏ sống bên bà ngoại kính yêu, xen    lẫn nỗi ân hận, xót xa… Mạch cảm xúc liên kết hiện tại với quá khứ. Đứa cháu bé nhỏ ngày xưa nay đã là người lính, sau bao trận chiến vào sống ra chết và những sóng gió cuộc đời, trong giây phút hồi tưởng, hình ảnh quê hương và kỉ niệm tuổi thơ sống dậy. Bài thơ chia làm ba phần. Phần một là hai khổ đầu: Tuổi thơ hồn nhiên nghịch ngợm. Phần hai là ba khổ tiếp theo: Hình ảnh bà ngoại vất vả, lam lũ trong cuộc sống nghèo khổ. Phần ba là khổ cuối : Tình thương yêu chân thành và lòng biết ơn sâu sắc của nhà thơ đối với bà ngoại kính yêu và sự day dứt xót xa, ân hận muộn màng. Trong bài thơ, “cái tôi” thuở nhỏ được tác giả tái hiện chân thực và sống động. Tác giả không giấu giếm mà thật thà kể rằng thời thơ ấu mình cũng nghịch ngợm, dại khờ giống như bao đứa trẻ khác ở vùng quê nghèo. Đó là thái độ thẳng thắn, tôn trọng sự thật, không thi vị hóa quá khứ của mình. Chính vì thế, tác giả đã đem lại cho người đọc cảm tình pha chút ngạc nhiên, thú vị. Thời thơ bé hiện lên rõ ràng như một cuốn phim quay chậm trong kí ức nhà thơ: Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá 
níu váy bà đi chợ Bình Lâm 
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật 
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần Tác giả không đơn thuần kể về tuổi thơ mà gửi gắm vào đó sự ăn năn hối hận về những suy nghĩ và hành động nông nổi của mình khi sống với bà ngoại. Vì thế, kí ức tuổi thơ hiện lên trong tâm tưởng thật sống động, rưng rưng cảm xúc, vừa rất riêng vừa gần gũi với mọi người. Trong cảm nhận hồn nhiên, ngây thơ của cậu bé, hình ảnh làng quê thật yên bình, tươi đẹp với bao thú vui con trẻ : câu cá, bắt chim, hái trộm hoa quả, đi xem lễ ở đền, ở chùa, theo bà ra chợ… Cậu bé nông thôn hiếu động, nghịch ngợm : câu cá ở cống Na, bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật, thậm chí đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần. Có người sẽ cho rằng đó là những trò quậy phá quá đáng, xem thường tiên, Phật, nhưng thật ra, những chuyện ấy cũng bình thường. Ở nông thôn, không nơi nào linh thiêng bằng như đình chùa, đền miếu, nhưng cũng chẳng nơi nào yên bình, thân thuộc hơn chốn ấy đối với trẻ thơ. Vì thế, khi nhớ vể thời nhỏ dại, tác giả kể tất chẳng giấu chuyện gì nên giọng kể rất tự nhiên, pha chút hóm hỉnh. Hết kỉ niệm này đến kỉ niệm khác cứ lần lượt hiện lên. Dường như nhà thơ kể để cho vơi nỗi nhớ, để mà hoài niệm, để mà sung sướng về một thời thơ ấu hồn nhiên không thể nào quên: Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị 
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng 
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm 
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng Cậu bé lên chơi đền Cây Thị, đi đêm xem lễ đền Sòng với sự tò mò và niềm say mê, háo hức của tuổi thơ. Cậu bé cảm nhận sâu sắc về không khí, hương vị đặc biệt ở chốn thiêng liêng: mùi huệ trắng quyện hương trầm thơm lắm, điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng. Dường như cậu bé đã để hồn mình hòa nhập vào thế giới nửa hư nửa thực. Sau một thời gian dài đi chiến đấu trở về mà nhà thơ vẫn còn nhớ đến từng chi tiết. Những hình ảnh chập chờn huyền ảo ấy gây ấn tượng sâu đậm biết chừng nào và cứ vương vấn mãi trong cõi nhớ. Trên cái nền là quá khứ tuổi thơ, hình ảnh người bà hiện lên cùng khung cảnh thân thiết của quê hương. Nhà thơ cảm thông, thương mến bà mình và cũng là cảm thông, thương mến quê hương. Các địa danh: cống Na, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng, đồng Quan, Ba Trại, Quán Chảo, Đồng Giao, ga Lèn hiện lên rõ mồn một trong kí ức nhà thơ bởi nơi nào cũng in dấu kỉ niệm, cũng mang bóng dáng người bà. Bà ngoại chính là sợi dây nối quá khứ với hiện tại, nối con người đang sống hôm nay với người đã khuất, nối mỗi cá nhân với gốc rễ của mình. Bởi vì, người ta thường sống trong hiện tại với cả quá khứ và tương lai. Sau những đoạn thơ hồi tưởng với âm điệu bâng khuâng, da diết, bây giờ lời kể và cảm xúc của nhà thơ đã là của một người lính lâu không về quê ngoại. Bắt đầu là lời hối lỗi chân thành về sự hồn nhiên đến vô tâm của đứa cháu thơ dại ngày xưa: Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế Bài thơ mang tên Đò Lèn nhưng nội dung chủ yếu lại viết về bà ngoại , kính yêu của nhà thơ. Hình ảnh bà ngoại trở thành hình tượng nghệ thuật gây xúc động sâu xa trong tâm hồn người đọc. Bài thơ chỉ có 24 câu nhưng từ bà xuất hiện tới 9 lần. Ngay cả ở khổ thơ thứ hai tuy không nhắc tới bà nhưng hình ảnh bà vẫn thấp thoáng trong mỗi dòng thơ, mỗi chi tiết nghệ thuật. Đó là hình ảnh người bà với cuộc đời cơ cực, vất vả, tất tả ngược xuôi chẳng lúc nào ngơi nghỉ: khi đi chợ Bình Lâm, khi mò cua xúc tép, lúc gánh chè xanh Ba Trại ngược về Quán Cháo, Đồng Quan trong những đêm giá rét. Kể cả khi máy bay giặc Mỹ đánh phá làng quê, bà vẫn lặn lội đi bán trứng ở ga Lèn. Tất cả đều vì cuộc sống của đứa cháu yêu dấu. Thấp thoáng trong đoạn thơ là hình ảnh của những người bà, người mẹ Việt Nam bao đời luôn chịu đựng nhọc nhằn, vất vả, tảo tần khuya sớm, chịu thương chịu khó hi sinh thầm lặng cả đời cho chồng, cho con, cho cháu. Câu thơ níu váy bà đi chợ Bình Lâm gợi lên hình ảnh cậu bé lên năm, lên mười ngơ ngác, rụt rè lần đầu được theo bà đi chợ, đến chỗ đông người đồng thời cũng thể hiện sự chở che của người bà đối với đứa cháu. Đặc biệt xúc động là hình ảnh bà trong câu thơ: Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn, vừa nói lên nỗi vất vả, cực nhọc vừa thể hiện sự lẻ loi, cô độc của bà trên con đường mưu sinh cơ cực, trong đêm    đông giá rét. Giống như hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Tú xương: Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Nhắc đến người bà kính yêu của mình, trong mỗi hình ảnh, mỗi từ ngữ của bài thơ, tác giả đều gửi gắm niềm cảm xúc rưng rưng thương mến và biết ơn. Cách kể chuyện thong thả, chậm rãi, tự nhiên của Nguyễn Duy rất phù hợp với dòng hồi tưởng thấm đẫm suy tư và cảm xúc: …bà mò cua xúc tép ở Đồng Quan …bà đi gánh chè xanh Ba Trại Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn… …bà tồi đi bán trứng ô ga Lèn…
Đó cũng chính là cảm nhận sâu sắc về người bà của nhà thơ – đứa cháu nhỏ năm nào – âm thầm mà thấu hiểu, mà thấm thía. Dường như công việc của bà làm cả đời không bao giờ hết. Nỗi cay cực, khốn khó của một đời người cứ,vận vào bà. Mỗi hình ảnh, mỗi chi tiết về bà hiện lên trong tâm tưởng nhà thơ và dồn nén thành nỗi xót xa ân hận khôn nguôi. Bài thơ này có cặp hình tượng sóng đôi là: bà và tôi (cháu). Một đằng, bà lầm lũi tần tảo sớm hôm ; một đằng, tôi (cháu) sống bên bà nhưng dửng dưng, vô tình, chẳng biết gì về sự vất vả, cực nhọc của bà với cháu, dành cho cháu. Sự tương phản đó đã ẩn chứa một lời hối lỗi. Lúc ấy, cậu bé hồn nhiên, ngây thơ không hề biết là mình có lỗi: Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực 
giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần 
cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng 
cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm Cậu bé đang ở giữa lằn ranh của hai bờ hư – thực: một bên là bà ngoại lam lũ của mình; một bên là tiên, Phật, thánh, thần. Nói khác đi, một bên là thế giới thực của cuộc đời đầy gian truân khó nhọc; một bên là thế giới lung linh, siêu hình. Giữa hai thế giới ấy là hình ảnh cậu bé thơ dại, vô tư đến trong suốt. Cậu tận hưởng tất cả những gì của thế giới thực và mơ màng với thế giới huyền ảo. Trong tâm hồn của cậu, bà cũng là tiên, là Phật, là thánh thần. Tất cả đều cao cả, vời vợi, lung linh. Đó là trí tưởng tượng kỳ diệu của tuổi ấu thơ một đi không trở lại. Cậu bé nhận những gì mà bà đem đến cho mình như một lẽ đương nhiên, tất yếu, không cần suy nghĩ, không cần biết gì hơn. Vì thế, mãi sau này nhà thơ mới ngậm ngùi tự trách: Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế. Câu thơ như tiếng khóc cố nén vào trong. Và dĩ nhiên, thế giới mơ tưởng bao giờ cũng tươi đẹp, cũng khác hẳn với cuộc sống bình thường. Nó cuốn hút đến mức khiến cậu bé ăn củ dong riềng luộc sượng mà vẫn cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm. Câu thơ: Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực đã diễn tả rất đúng tâm hồn trẻ thơ, hồn nhiên đến độ vô tâm, vô tình. Có lẽ cậu bé sẽ cứ chông chênh mãi giữa hai bờ hư – thực nếu không có một biến cố kinh hoàng làm thay đổi tất cả: Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất 
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền 
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết 
bà tôi đi bán trứng ờ ga Lèn Sau những trận bom Mỹ tàn phá quê hương, cậu bé chợt hiểu ra một điều: Hóa ra, những thế lực siêu nhiên mà cậu vẫn hoài vọng, say    mê chỉ    là hư ảo, trước    một sự thực là bà ngoại của cậu vẫn vất vả,    long đong. Chỉ    có bà ngoại mới là người chở che, nuôi nấng, đem lại tất cả những gì tốt đẹp cho cậu. Trận bom Mỹ ấy có thể san phẳng nhà cửa, chùa chiền, đình đền… nhưng không thể xua tan ấn tượng vệ thế giới huyền diệu của mùi huệ trắng quyện khói trầm và điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng đã in sâu vào tâm khảm của cậu bé. Phải rất lâu sau, trước nhiều biến cố dữ dội của Chiến tranh, cậu bé năm nào khi đã trở thành người lính dạn dày khói lửa mới hiểu trọn vẹn về bà ngoại của mình. Vì thế, khi đối diện với quá khứ trong tâm tưởng, cậu bé năm xưa – nhà thơ bây giờ chỉ còn biết day dứt, xót xa, ân hận: khi tôi biết thương bà thì đã muộn 
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi. Chiến tranh phi nghĩa của kẻ thù xâm lược đã buộc nhà thơ phải xa bà, xa quê hương để vào chiến trường giết giặc. Cuộc chiến kéo dài đã cướp đi cơ hội bà cháu gặp nhau. Cháu thương bà trong nỗi ân hận khôn nguôi vì thuở ấu thơ được sống cạnh bà mà không hiểu được cuộc đời cơ cực nghèo khổ của bà, không cùng bà chia sẻ nỗi lo toan mà cứ mải thả hồn vào cõi mộng. Hình ảnh người bà âm thầm chịu đựng muôn nghìn vất vả để nuôi dạy đứa cháu mồ côi hiếu động, nghịch ngợm hiện lên rõ ràng trong kí ức nhà thơ. Tình thương của nhà thơ đối với bà thật chân thành và cảm động nhưng giờ đây, tất cả đều đã muộn màng. Nhà thơ kín đáo nhắc đến một sự thật: phần lớn con người ta chỉ thực sự biết yêu thương người thân khi cơ hội đền đáp ơn nghĩa đã không còn. Đấy cũng là bi kịch tinh thần thường thấy xưa nay. Điều này có ý nghĩa thức tỉnh bất ngờ. Câu chuyện bà cháu trong bài thơ là bài học vô giá đối với những ai có thái độ dửng dưng khi thụ hưởng những thành quả lao động do người khác đem lại, chỉ biết nhận mà không biết cho, không quan tâm đến người thân yêu của mình. Bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy hướng tới cái đẹp của đời sống tâm hồn, tình cảm của con người, nói đến những điều thật giản dị nhưng lại có giá trị vĩnh hằng. Cảm xúc chân thành và những suy tư sâu sắc của nhà thơ được diễn tả bằng một hình thức nghệ thuật vừa giàu tính dân gian vừa phảng phất phong vị thơ cổ điển phương Đông. Cái hay nhất của bài thơ Đò Lèn chính là hiện thực cuộc đời đã làm rung động sâu xa trái tim người đọc.
Bình luận (0)
Miu miu
Xem chi tiết
Ngô Trung Hiếu
27 tháng 1 2016 lúc 17:50

day la van ma

sao lai la Su Dia

Bình luận (0)
Đỗ Gia Ngọc
14 tháng 2 2017 lúc 10:29

Trong cuộc sống, đạo đức là một yếu tố rất quan trọng, nó thể hiện sự văn minh, lịch sự, nếp sống, tính cách, và phần nào có thể đánh giá được phẩm chất, giá trị bản thân con người. Và có rất nhiều mặt để đánh giá đạo đức, phẩm chất của con người. Một trong số đó là sự biết ơn, nhớ ghi công lao mà người khác đã giúp đỡ mình. Đó cũng là một chân lí thiết thức trong đời thường. Chính vì vậy ông cha ta có câu : “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” hay “Uống nước nhớ nguồn” . Cả hai câu tục ngữ trên đều mang một triết lí nhân văn sâu sa. Đó là cần phải biết ơn những người đã mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho chúng ta. Câu đầu tiên mượn hình ảnh “ăn quả” và “trồng cây” ý muốn nói, khi được hưởng thụ những trái ngọt, trái thơm, cần nhớ tới công sức, mồ hôi nước mắt của người đã làm ra nó. Điều đó được ẩn dụ nhằm khuyên răn thái độ của mỗi con người xử sự sao cho đúng, cho phải đối với những người đã giúp đỡ mình để không phải hổ thẹn với lương tâm. Hành động đó đã thể hiện một tư tưởng cao đẹp, một lối ứng xử đúng đắn. Lòng biết ơn đối với người khác đó chính là một truyền thống tốt đẹp của ông cha ta từ xưa tới nay. Đó cũng chính là biết sống ân nghĩa mặn mà, thuỷ chung sâu sắc giữa con người với con người. Tất cả những gì chúng ta đang hưởng thụ hiện tại không phải tự dưng mà có. Đó chính là công sức của biết bao lớp người. Từ những bát cơm dẻo tinh trên tay cũng do bàn tay người nông dân làm ra, một hạt lúa vàng chín giọt mồ hôi mà. Rồi đến tấm áo ta mặc, chiếc giày ta đi cũng đều bởi những bàn tay khéo léo của người thợ cùng với sự miệt mài, cần cù trong đó. Những di sản văn hoá nghệ thuật, những thành tựu độc đáo sáng tạo để lại cho con cháu. Còn nhiều, rất nhiều những công trình vĩ đại nữa mà thế hệ trước đã làm nên nhằm mục đích phục vụ thế hệ sau. Tất cả, tất cả cũng chỉ là những công sức lớn lao, sự tâm huyết của mỗi người dồn lại đã tạo nên một thành quả thật đáng khâm phục để ngày nay chúng ta cần biết ơn, phục hồi, tu dưỡng, phát triển những di sản đó. Những lòng biết ơn, kính trọng không phải chỉ là lời nói mà còn cần hành động để có thể thể hiện được hết ân nghĩa của ta. Đó chính là bài học thiết thực về đạo lí mà mỗi con người cần phải có. Đến câu tục ngữ thứ hai “Uống nước nhớ nguồn”. Cũng giống câu tục ngữ thứ nhất. Câu tục ngữ này đều mang ý ẩn dụ dưới hình thức cụ thể, sinh động. Nước chính là thứ chúng ta hưởng thụ còn nguồn chính là người tạo ra cái để chúng ta hưởng thụ đó. Câu tục ngữ này chỉ vẻn vẹn có bốn chữ mà ý tứ sâu xa ẩn dưới cấu trúc mô hình điều kiện, hệ quả. Nói đến nước trong nguồn là nói đến sự mát mẻ, thanh tao. Và nguồn nước sẽ mãi không bao giờ vơi cạn. Chữ “nhớ” trong câu là một từ quan trọng, tâm điểm của câu tục ngữ. Ý nghĩa câu tục ngữ này thể hiện mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người. Lòng nhớ ơn luôn mang một tình cảm cao đẹp, thấm nhuần tư tưởng nhân văn. Nó giáo dục chúng ta cần biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những anh hùng vĩ đại đã hi sinh, lấy thân mình, mồ hôi xương máu để bảo vệ nền độc lập cho đất nước, giữ vững bình yên vùng trời Tổ quốc cho chúng ta có những năm tháng sống vui sống khoẻ và có ích cho xã hội, phần để thực hiện đúng trách nhiệm, bổn phận của chúng ta, phần vì không hổ thẹn với những người ngã xuống giành lấy sự độc lập. Có ai hiểu được rằng, một sự biết ơn được thể hiện như một đoá hoa mai ửng hé trong nắng vàng, một lòng kính trọng bộc lộ như một ánh sao đêm sáng rọi trên trời cao. Đó là những cử chỉ cao đẹp, những hành động dù chỉ là nhỏ nhất cũng đều mang một tấm lòng cao thượng. Những người có nhân nghĩa là những người biết ơn đồng thời cũng biết giúp đỡ người khác mà không chút tính toan do dự. Chính những hành động đó đã khơi dậy tấm lòng của biết bao nhiêu con người , rồi thế giới này sẽ mãi là một thế giới giàu cảm xúc. Tóm lại hai câu tục ngữ trên giúp ta hiểu được về đạo lí làm người. Lòng tôn kính, sự biết ơn không thể thiếu trong mỗi con người, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay. Chúng ta luôn phải trau dồi những phẩm chất cao quý đó, hãy biết rèn luyện, phấn đấu bằng những hành động nhỏ nhất vì nó không tự có trong mỗi chúng ta. Chúng ta cần phải biết ơn những người đã có công dẫn dắt ta trong cuộc sống nhất là đối với những người trực tiếp giúp đỡ chỉ bảo ta như cha mẹ, thầy cô. Bài học đó sẽ mãi là một kinh nghiệm sống ẩn chứa trong hai câu tục ngữ trên và nó có vai trò, tác dụng rất lớn đối với cuộc sống trên hành tinh này.

Bình luận (0)
Satoshi
8 tháng 11 2018 lúc 21:37

Lòng biết ơn đối với người khác từ xưa đến nay vốn là truyền thống của dân tộc ta. Ông cha ta luôn nhắc nhở, dạy bảo con cháu phải sống ân nghĩa thuỷ chung, đã nhận ơn của ai thì không bao giờ quên. Truyền thống đạo đức đó được thể hiện rõ nét qua câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.Đây là một lời giáo huấn vô cùng sâu sắc. Khi ăn những trái cây chín mọng với hương vị ngọt ngào ta phải nhớ tới công lao vun xới, chăm bón của người trồng nên cây ấy. Từ hình ảnh ấy, người xưa luôn nhắc nhở chúng ta một vấn đề đạo đức sâu xa hơn: Người được hưởng thành quả lao động thì phải biết ơnngười tạo ra nó. Hay nói cách khác: Ta phải biết ơn những người mang lại cho ta cuộc sống ấm no hạnh phúc như hôm nay.Tại sao như vậy? Bởi vì tất cả những thành quả lao động từ của cải vật chất đến của cải tinh thần mà chúng ta đang hưởng thụ không phải tự nhiên có được. Những thành quả đó là mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của biết bao lớp người đã đổ xuống để tạo nên. Bát cơm ta ăn là do công lao khó nhọc vất vả “một nắng hai sương” của người nông dân trên đồng ruộng. Tấm áo ta mặc, ngôi nhà ta ở, cả những vật dụng hàng ngày ta tiêu dùng là do sức lao động cần cù, miệt mài của những người thợ, những chú công nhân. Cũng như những thành tựu văn hoá nghệ thuật, những di sản của dân tộc còn để lại cho đời sau hômnay là do công sức, bàn tay, khối óc của những nghệ nhân lao động sáng tạo không ngừng… Còn rất nhiều, nhiều nữa những công trình vĩ đại… mà ông cha ta làm nên nhằm phục vụ cho con người. Chúng ta là lớp người đi sau, thừa hưởng những thành quả ấy, lẽ nào chúng ta lại lãng quên, vô tâm không cần biết đến người đã tạo ra chúng ư? Một thời gian đằng đẵng sống trong những đêm dài nô lệ, chúng ta phảihiểu rằng đã có biết bao lớp người ngã xuống quyết tâm đánh đuổi kẻ thù… để cho ta có được cuộc sống độc lập, tự do như hôm nay. Chính vì vậy, ta không thể nào được quên những hi sinh to lớn và cao cả ấy.Có lòng biết ơn, sống ân nghĩ thuỷ chung là đạo lí làm người, đó cũng là bổn phận, nhiêm vụ của chúng ta đối với đời. Tuy nhiên, lòng biết ơn không phải là lời nói suông mà phải thể hiện bằng hành động cụ thể. Nhà nước ta đã có những phong trào đền ơn đáp nghĩa, xã dựng những ngôi nhà tình nghĩa cho các bàmẹ anh hùng, các gia đình thương binh liệt sĩ. Việc đền ơn đáp nghĩa này đã trở thành phong trào, là chính sách lan rộng trên cả nước. Đây không chỉ là sự đền đáp công ơn đơn thuần mà nó trở thành bài họcgiáo dục thiết thực về đạo lí làm người của chúng ta. Cho nên mỗi người ai ai cũng cần phải có ý thức bảovệ và phát huy những thành quả đạt được ấy ngày càng tốt đẹp hơn, có nghĩa là ta vừa là “người ăn quả” của hôm nay, vừa là “người trồng cây” cho ngày mai. Cũng từ đó ta càng thấm thía hiểu được rằng: Cha mẹ, thầy cô cũng chính là người trồng cây, còn ta là người ăn quả. Vì vậy ta cần phải thực hiện tốt bổn phận làm con trong gia đình, bổn phận người học trò trong nhà trường. Làm được như vậy tức là ta đã thểhiện được lòng biết ơn sâu sắc của mình đối với những người đã hi sinh, thương yêu, lo lắng cho ta. Đây là một việc làm không thể thiếu được ở thế hệ trẻ hôm nay.Tóm lại, câu tục ngữ trên giúp ta hiểu rõ về đạo lí làm người. Lòng biết ơn là tình cảm cao quý và cần phải có trong mỗi con người. Vì vậy, chúng ta cần phải luôn trau dồi phẩm chất cao quý đó, nhất là đối với cha mẹ, thầy cô… với những ai đã tạo ra thành quả cho ta hưởng thụ. Lòng biết ơn mãi mãi là bài học quí báu và câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” có giá trị và tác dụng vô cùng to lớn trong cuộc sống của chúng ta.

Bình luận (0)
Nguyễn thị họa mi
Xem chi tiết
Nguyễn Hà My
27 tháng 1 2016 lúc 10:23

Trong truyện Tấm Cám,Tấm là cô gái vừa đẹp người lại đẹp nết.                                                                                                               

Cô Tấm có dáng người thon thả,đôi bàn tay búp măng và đôi chân nhỏ xinh xinh.Khuôn mặt trái xoan trong sáng hiền hậu.Đôi lông mày lá liễu cùng đôi mắt bồ câu đen láy.Mái tóc đen óng ả lại mềm mại như những sợi tơ buông xõa đến quá vai.Mũi không cao nhưng hợp với khuôn mặt trái xoan.Hàm răng trắng lại được điểm một chiếc răng khểnh,mỗi khi cô cười rất duyên dáng.Đôi má bầu bĩnh với làn da trắng hồng.Trông cô đẹp như nàng tiên khi mặc quần áo lấy từ mấy cái lọ chôn xương Cá Bống chôn dưới chân giường để đi trảy hội.Lúc nghèo khổ cũng như lúc làm vợ vua ,cô vẫn giữ bản chất cần cù ,chịu thương chịu khó của người lao động.Trong cung Tấm vẫn giặt quần áo cho vua.Khi về giỗ bố,Tấm vẫn leo lên cây hái cau xuống cúng nhưng lại bị mẹ con nhà Cám hại chết.Nhưng con người hiền lành,hiếu nghĩa đôn hậu ấy đã đấu tranh quyết liệt và sau cùng đã được trở về bên nhà vua

Cô Tấm xinh đẹp ,dịu hiền,chân chất chịu thương,chịu khó.Cô bền bỉ dành lại hạnh phúc.Tấm đẹp người đẹp nết ấy chính là hình ảnh cho người dân Việt Nam chúng ta noi theo.hiha

                                      

Bình luận (0)
Trần Hoàng Khánh Linh
27 tháng 1 2016 lúc 17:51

Em đã đọc nhiều truyện cổ tích của thế giới nhưng em vẫn ấn tượng với truyện Cô bé Lọ Lem. Nàng Lọ Lem trong truyện thật xinh đẹp, dịu hiền và rất nết na. Cô nàng đã có quãng thời gian dài khổ cực để tìm tới một hạnh phúc trọn vẹn.

Lọ Lem thật xinh đẹp! Dáng người nàng nhỏ nhắn, dong dỏng cao. Khuôn mặt trái xoan, thanh tú nổi bật, nước da trắng hồng, mịn màng. Đôi mắt đen láy, sáng long lanh ẩn dưới hàng lông mi uốn cong tự nhiên càng làm tăng vẻ quyến rũ của đôi mắt. Hàng lông mày lá liễu dài, cong càng làm tăng vẻ tự nhiên của đôi mắt quyến rũ ấy. Chiếc mũi dọc dừa cao điểm vẻ đẹp cho khuôn mặt của nàng. Đôi môi mềm, đầy đặn, bóng như vừa được bôi một lớp son mỏng. Hàm răng trắng, đều đặn cứ lấp ló giữa hai vành môi, ẩn giấu một vẻ đẹp nền nã. Mái tóc đen, óng mượt xoã ngang vai. Thường ngày Lọ Lem chỉ mặc một bộ đổ rách rưới, vá chằng vá đụp để lau dọn nhà cửa. Khuôn mặt của Lọ Lem xinh xắn vậy mà lại luôn bị lem luốc bởi cô phải quét dọn nơi xó nhà hay gác xép bẩn thiu. Chính vì bộ dạng lem luốc nên cô mới bị gọi tên là Lọ Lem. Lọ Lem rất chăm chỉ, luôn dọn dẹp luôn chân luôn tay. Cô rất hay lam hay làm. Lọ Lem có tính nết thật tốt đẹp: hiền dịu, nết na, chăm chỉ – những đức tính, phẩm chất tốt đẹp nhất của người phụ nữ.

Cuộc đời của Lọ Lem có quãng đường dài thật gian khổ mới tìm được hạnh phúc đích thực. Để dẫn tới kết quả tốt đẹp đó là cả một câu chuyện dài.

Thuở nhỏ, Lọ Lem sống rất vui vẻ cùng cha mẹ trong ngôi nhà rộng rãi, thoải mái. Bỗng nhiên, mẹ nàng lâm bệnh nặng rồi qua đời. Cha nàng lấy thêm vợ kế. Mụ mẹ kế đã có hai đứa con riêng trạc tuổi Lọ Lem. Hai đứa con của mụ đứa thì gầy, đứa thì béo. Sau đó, cha của Lọ Lem bị tai nạn nên cũng qua đời. Sau khi ông mất, mụ mẹ kế bắt cô bé phải phục vụ và phục tùng hai mẹ con mụ. Những bộ đổ lộng lẫy, những đôi giày tuyệt đẹp và căn phòng trang hoàng lộng lẫy đã quá xa vời với Lọ Lem. Mụ mẹ kế chỉ cho Lọ Lem mặc những bộ đồ bỏ đi, vá chằng vá đụp và đôi giày thô kệch. Mụ bắt cô phải làm lụng luôn chân luôn tay. Còn hai cô con riêng của mụ chỉ biết ăn chơi, lêu lổng, sống cuộc sống sung sướng mà lẽ ra Lọ Lem được hưởng. Lọ Lem xinh xắn chỉ được ở trên gác xép bụi bậm, bẩn thỉu, chứa đầy đồ cũ nát và cô có bạn là những chú chuột. Rồi một hôm, hoàng từ mở tiệc tiếp khách có mời cả mấy mẹ con mụ dì ghẻ và cả Lọ Lem nữa. Nhưng mụ chỉ sắm sửa, trang điểm cho mình và hai đứa con xấu xí. Mụ còn bắt Lọ Lem nhặt hạt đỗ tới bong cả tay mà không được đi dự tiệc. May có bà tiên giúp đỡ, cô đã có bộ đồ lộng lẫy, cổ xe tuyệt đẹp tới dự tiệc. Lọ Lem nhảy với hoàng tử tới sau mười hai giờ – giờ bà tiên dặn phải về nếu không phép màu sẽ bị biến mất. Cô vội vã đánh rơi chiếc giày làm hoàng tử đi tìm khắp nơi. Cuối cùng, hoàng tử đã tìm được chủ nhân của chiếc giày. Hoàng tử đã tìm thấy vị hôn thê của đời mình – Lọ Lem và cưới nàng về làm vợ. Cuộc sống của hai người rất hạnh phúc.

Lọ Lem là cô gái nết na, hiền dịu và rất xinh đẹp. Với tâm hồn trong sáng và phẩm chất tốt đẹp, cô đã tìm được đến với hạnh phúc đích thực. Qua câu chuyện, em hiểu rằng người chăm ngoan, hiền dịu, nết na sẽ được đền đáp xứng đáng.

                          Bài 2(tả cô tấm)

Từ nhỏ, tôi đã được nghe bà kể rất nhiều câu chuyện cổ tích hay. Trong những câu chuyện ấy, tôi thích nhất là truyện Tấm Cám với hình ảnh cô Tâìn đẹp người, đẹp nết.

Tuy phải làm việc sớm khuya vất vả, dầm mưa dãi nắng nhưng làn da Tâm vẫn mịn màng và trắng trẻo. Cô có dáng người thon thả và vóc người dong dỏng cao. Khuôn mặt trái xoan của cô luôn toát lên vẻ trong sáng, hiền dịu. Nhìn Tấm, chắc chắn ai cũng bị thu hút bởi vẻ đẹp chân chất của cô – vẻ đẹp của những cô thôn nữ hay lam hay làm. Một phần vẻ đẹp ấy được thể hiện qua đổi mắt. Tấm có đôi mắt bồ câu vừa thơ ngây, vừa trung thực, luôn thấp thoáng những nét buồn thăm thẳm. Hai hàng mi dài cong vút làm đôi mắt Tấm đã đẹp lại càng thêm duyên dáng. Đôi lông mày lá liễu không dày mà cũng không thưa ôm gọn lấy cặp mắt buồn. Cô Tấm có suối tóc đen, dày, mượt chảy trên bờ vai tròn lẳn, buông đài sau lưng. Bàn tay búp măng thon thả với năm ngón tay thon dài, mềm mại và mỏng mảnh chứa đầy vẻ kiêu sa.

Sống lam lũ, vất vả quanh năm nơi nhà mụ dì ghẻ cay độc, Tấm chỉ được mặc những bộ quần áo rách nát, cũ kĩ: những chiếc quần vải thô nhuộm bùn bạc phếch, những chiếc áo nâu sồng vá chằng vá đụp. Và nữa, cuộc sống ở đó thật đau đớn, tủi cực làm sao! Tưởng rằng những điều đó sẽ giết chết dần sắc đẹp của Tấm. Nhưng không, vẻ đẹp thuần khiết của cô không hề lu mờ, tàn phai mà còn ngày một thêm hoàn mĩ. Suối tóc của cô càng thêm đen mượt, nước da của cô càng thêm trắng trẻo. Cứ như thế, theo thời gian, Tấm ngày càng xinh đẹp.

Hãy nhìn cảnh cô Tấm mỉm cười sau khi thử giày thêu ở đêm hội năm nào.

Chao ôi! Lúc ấy vẻ đẹp của Tấm mới hiện lên rõ nét làm sao! Trông cô đẹp như một nàng tiên giáng trần vậy. Trong bộ xiêm y lộng lẫy, khuôn mặt trái xoan của cô sáng bừng lên, nổi bật giữa muôn vàn khuôn mặt của các cô gái khác. Đôi môi hình trái tim mọng đỏ của cô như một bông hoa nở vào buổi sáng chưa xoè hết cánh, kín đáo khoe sắc thắm. Hai hàm răng đều tăm tắp như những hạt ngô non và trắng loá như muối biển lấp ló giữa hai vành môi, ẩn giấu một vẻ đẹp trang nhã kiêu kì. Nụ cười duyên dáng đó có một sức hút kì lạ, làm ai nhìn cũng phải ngỡ ngàng, mê mẩn trước vẻ đẹp đầy đặn của trang tuyệt sắc giai nhân trẻ tuổi mà họ sắp tôn làm hoàng hậu.

Tấm là một cô gái bất hạnh. Mẹ cô chết từ hồi cô còn bé. Sau đó mấy năm thì cha cô cũng qua đời. Tấm phải ở với mụ dì ghẻ cay nghiệt là mẹ của Cám. Có lẽ những bất hạnh ấy đã để lại trong đôi mắt Tấm những nét buồn thăm thẳm, đã làm Tấm trưởng thành từ khi còn thơ bé.

Lúc còn nghèo khổ cũng như lúc đã trở thành vợ vua, Tấm vẫn luôn giữ bản chất cần cù, chịu thương chịu khó, hay lam hay làm của người lao động. Trong cung, sống trong cảnh giàu sang nhung lụa, Tấm vẫn tự tay giặt quần áo cho vua. 

Không chỉ thế, Tấm còn rất hiểu thảo với mẹ cha. Tuy sống sung sướng trong hoàng cung, nàng vẫn không quên ngày giỗ của cha. Nàng xin phép vua vể nhà để soạn cỗ cùng mẹ kế…

Những tưởng con người hiền lành, hiếu nghĩa ấy sau gần một phần tư cuộc đời chịu khổ sẽ được hưởng phần đời còn lại hạnh phúc, vui vẻ bên nhà vua. Nhưng sự đời đâu có dễ dàng như vậy. Để được hưởng cuộc sống bình yên, vui vẻ đó, Tấm đã phải trải qua bao gian truân, khổ cực. Nàng đâu có ngờ rằng, ngày giỗ cha ấy chính là ngày định mệnh của cuộc đời nàng. Khi trèo lên cây cau để xé lấy một buồng cúng cha, Tấm đã bị mẹ con Cám chặt cây cau hại chết. Kể từ đó, Cám chính thức trở thành hoàng hậu và phần đời đầy gian truân của Tấm bắt đầu.

…Bị mẹ con Cám hại chết, Tấm hoá thành chim vàng anh, bay đến vườn ngủ. Thấy Cám đang giặt áo cho vua ở giếng, vàng anh bảo nó:

- Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sào.

Chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao!

Rồi chim bay đến đậu bên cửa sổ, hót rất vui tai. Từ đó, nhà vua chỉ mê mải với chim. Cám tức lắm, giết thịt vàng anh rồi vứt lông chim ở góc vườn. Từ chỗ đó bỗng mọc lên hai cây xoan đào rợp bóng che mát cho nhà vua. Cám lại sai thợ chặt cây, đóng làm khung cửi. Nhưng khi Cám ngồi vào khung cửi, lúc nào cũng nghe thấy tiếng khung cửi rủa mình:

- Cót ca cót két

Lấy tranh chồng chị

Chị khoét mắt ra.

Cám lại đốt khung cửi, để tro ở lề đường xa hoàng cung. Đống tro lại mọc thành cây thị cao lớn, cành lá sum sê. Đến mùa có quả, cây chỉ đậu được có một quả nhưng mùi hương thơm ngát lan toả khắp nơi. Quả thị đó rụng vào bị một bà lão bán nước. Từ trong đó, cô Tấm chui ra, làm việc nhà giúp bà lão. Cuối cùng, cô bị bà lão rình và bắt gặp rồi trở thành con gái bà. Số trời run rủi thế nào mà nhà vua đến quán nước đó, nhận ra miếng trầu cánh phượng Tấm têm để rồi gặp mặt Tấm và đưa nàng trở lại hoàng cung.

Lại nói về Cám. Cám thấy Tấm trở về, được vua yêu quý thì không khỏi sợ hãi, Cám lân la hỏi Tấm:

- Chị Tấm ơi chị Tấm, chị làm thế nào mà đẹp thế?

- Có muốn làm đẹp không để chị giúp? 

Cám bằng lòng ngay. Tấm sai quân hầu đào một cái hố sâu, bảo Cám xuống hố rồi dội nước sôi vào hố. Cám chết, Tấm sai đem xác làm mắm gửi cho mụ dì ghẻ, nói là của con gái mụ biếu. Mụ tưởng thật, lấy mắm ra ăn rồi nức nở khen ngon. Một hôm có con quạ đậu trên nóc nhà kêu:

- Ngon ngỏn ngòn ngon!

Mẹ ăn thịt con

Có còn xin miếng?

Mụ dì ghẻ tức lắm, vác sào đuổi quạ. Đến ngày mắm gần hết, mụ dòm vào chĩnh, thấy đầu lâu của con thì lăn đùng ra mà chết. Thật đáng đời hai mẹ con hay ganh tị và tham lam. 

Cô Tấm xinh đẹp, dịu hiền. Cô Tấm chân chất, chịu thương chịu khó. Cô Tấm kiên quyết, bền bỉ đấu tranh chống lại cái ác để giành lấy hạnh phúc của mình. Cô Tấm đẹp người đẹp nết ấy là biểu tượng của nhân dân Việt Nam.

            HƠI DÀI ĐÓ NHỈ?NẾU THẤY HAY THÌ TIK NHA!hihivui

 



 

Bình luận (1)
Thảo Phương
17 tháng 4 2017 lúc 17:33

I. Mở bài

Thời gian và không gian xảy ra câu chuyện: Đời Hùng Vương thứ 6, ở làng Gióng.

II. Thân bài

1. Gốc tích lạ lùng của Thánh Gióng

- Hai ông bà đã già, chưa có con.

- Bà lão giẫm lên một dấu chân khổng lồ, về nhà thụ thai.

- Mười hai tháng sau bà sinh một đứa con trai.

- Khi ba tuổi chú bé vẫn chưa biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi.

2. Thánh Gióng nói được và lớn nhanh nhưthổi

- Giặc Ân xâm lược, thế giặc mạnh, vua cho sứ giả đi tìm người tài.

- Chú bé bỗng nhiên nói được, nhờ mẹ mời sứ giả. Nói với sứ giả đúc ngựa sắt, áo giáp sắt, roisắt.

- Chú bé lớn nhanh như thổi, ăn không đủ no. Dân làng góp thóc gạo nuôi chú.

3. Thánh Gióng đánh giộc và bay về trời

- Giặc đến chân núi Trâu. Sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến.

- Chú bé vươn vai thành tráng sĩ khổng lồ, vỗ vào mông ngựa, ngựa hí vang. Tráng sĩ mặc giáp, cầm roi, cưỡi ngựa ra trận.

- Ngựa xông vào giặc; tráng sĩ cầm roi đánh giặc, ngựa sắt phun lửa thiêu giặc. Giặc chết như rạ.

- Roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ tre đánh giặc.

- Đuổi giặc đến chân núi Sóc, tráng sĩ lên núi, cdi áo để lại cùng ngựa bay lên trời.

- Vua phong tráng sĩ là Phù Đổng Thiên Vương, lập đền thờ.

III. Kết bài

Hiện nay ở làng Phù Đổng vẫn còn đền thờ Thánh Gióng, những bụi tre đằng ngà, những hồ ao liên tiếp lưu giữ dấu chân ngựa của Thánh Gióng đi qua.

Bình luận (0)
Hồ Thị Phương Anh
Xem chi tiết
Nguyễn Lê Minh Hiền
27 tháng 1 2016 lúc 10:28

Quê hương tôi giờ đây lúc nào cũng đẹp. Nhưng đẹp hơn cả vẫn là buổi bình minh vào sáng đầu xuân ở làng quê tôi.Chao ôi, cảnh buổi sáng đầu xuân thật tuyệt! Nó như bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Ông mặt trời lúc này vẫn còn say ngủ trong chiếc chăn mỏng của màn mây ấy thế mà mấy chú chim đã dậy từ bao giờ, hót líu lo trên cành hòa nhịp với loa pjongs thanh của hợp tác xã tạo nên một bản nhạc du dương trầm bổng đón chào một ngày xuân mới. Tôi tung tăng chạy nhảy như một con sáo nhỏ ra đầu làng để tận hưởng bầu không khí trong lành, mát mẻ của làng quê. Một lúc sau, phía đằng đông, ông mặt trời thức dậy, vứt bỏ chiếc chăn mỏng, ông vươn vai, ban phát những tia nắng xuân vàng dịu xuống vạn vật. Tôi như nghe thấy tiếng cựa mình của cỏ cây, hoa lá trước sắc xuân. Cây nào cây ấy cũng đều chọn cho mình bộ quần áo đẹp nhất để đón chào xuân mới. Nhìn cảnh quê hương lúc này như một lẵng hoa đầy mầu sắc. Chúng như đang lượn vòng trong các cành cây, như đang nô đùa, nhảy nhót dưới ánh nắng của mùa xuân. Bên lũy tre, cạnh bờ ao, cô gió đánh nhịp cho lá cây vui hát rì rào. Dưới mặt ao, ánh nắng chênh chếch chiếu xuống làm mặt ao lóng la lóng lánh như người ta vừa giát một mẻ vàng mới luyện song. Đứng giữa cánh đồng lúa, tôi như tưởng tượng mình đang lạc vào một thế giới cổ tích. Một mùa xuan đầy sức sống đang về trên quê hương tôi. Quê hương tôi thật đẹp phải không các bạn? Tôi mong ước quê mình mãi đẹp dưới sắc xuân.Ôi, quê mình vào buổi sáng đầu xuân đẹp quá, đẹp quá đi! Tôi thật sung sướng và tự hào khi được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất yêu dấu này. Tôi sẽ cố gắng học thật giỏi để sau này xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp hơn

 

Bình luận (0)
Xin Lỗi 1 Tình Yêu
18 tháng 8 2019 lúc 13:39

Chao ôi, cảnh buổi sáng đầu xuân thật tuyệt! Nó như bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài.

Ông mặt trời lúc này vẫn còn say ngủ trong chiếc chăn mỏng của màn mây ấy thế mà mấy chú chim đã dậy từ bao giờ, hót líu lo trên cành hòa nhịp với loa pjongs thanh của hợp tác xã tạo nên một bản nhạc du dương trầm bổng đón chào một ngày xuân mới. Tôi tung tăng chạy nhảy như một con sáo nhỏ ra đầu làng để tận hưởng bầu không khí trong lành, mát mẻ của làng quê. Một lúc sau, phía đằng đông, ông mặt trời thức dậy, vứt bỏ chiếc chăn mỏng, ông vươn vai, ban phát những tia nắng xuân vàng dịu xuống vạn vật. Tôi như nghe thấy tiếng cựa mình của cỏ cây, hoa lá trước sắc xuân. Cây nào cây ấy cũng đều chọn cho mình bộ quần áo đẹp nhất để đón chào xuân mới. Nhìn cảnh quê hương lúc này như một lẵng hoa đầy mầu sắc. Chúng như đang lượn vòng trong các cành cây, như đang nô đùa, nhảy nhót dưới ánh nắng của mùa xuân. Bên lũy tre, cạnh bờ ao, cô gió đánh nhịp cho lá cây vui hát rì rào. Dưới mặt ao, ánh nắng chênh chếch chiếu xuống làm mặt ao lóng la lóng lánh như người ta vừa giát một mẻ vàng mới luyện song. Đứng giữa cánh đồng lúa, tôi như tưởng tượng mình đang lạc vào một thế giới cổ tích. Một mùa xuan đầy sức sống đang về trên quê hương tôi. Quê hương tôi thật đẹp phải không các bạn? Tôi mong ước quê mình mãi đẹp dưới sắc xuân.

Ôi, quê mình vào buổi sáng đầu xuân đẹp quá, đẹp quá đi! Tôi thật sung sướng và tự hào khi được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất yêu dấu này. Tôi sẽ cố gắng học thật giỏi để sau này xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp hơn.

Bình luận (0)
Bui Viet Hoang
Xem chi tiết
Hồ Thị Phương Anh
27 tháng 1 2016 lúc 9:07

Quê hương tôi giờ đây lúc nào cũng đẹp. Nhưng đẹp hơn cả vẫn là buổi bình minh vào sáng đầu xuân ở làng quê tôi.

Chao ôi, cảnh buổi sáng đầu xuân thật tuyệt! Nó như bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Ông mặt trời lúc này vẫn còn say ngủ trong chiếc chăn mỏng của màn mây ấy thế mà mấy chú chim đã dậy từ bao giờ, hót líu lo trên cành hòa nhịp với loa pjongs thanh của hợp tác xã tạo nên một bản nhạc du dương trầm bổng đón chào một ngày xuân mới. Tôi tung tăng chạy nhảy như một con sáo nhỏ ra đầu làng để tận hưởng bầu không khí trong lành, mát mẻ của làng quê. Một lúc sau, phía đằng đông, ông mặt trời thức dậy, vứt bỏ chiếc chăn mỏng, ông vươn vai, ban phát những tia nắng xuân vàng dịu xuống vạn vật. Tôi như nghe thấy tiếng cựa mình của cỏ cây, hoa lá trước sắc xuân. Cây nào cây ấy cũng đều chọn cho mình bộ quần áo đẹp nhất để đón chào xuân mới. Nhìn cảnh quê hương lúc này như một lẵng hoa đầy mầu sắc. Chúng như đang lượn vòng trong các cành cây, như đang nô đùa, nhảy nhót dưới ánh nắng của mùa xuân. Bên lũy tre, cạnh bờ ao, cô gió đánh nhịp cho lá cây vui hát rì rào. Dưới mặt ao, ánh nắng chênh chếch chiếu xuống làm mặt ao lóng la lóng lánh như người ta vừa giát một mẻ vàng mới luyện song. Đứng giữa cánh đồng lúa, tôi như tưởng tượng mình đang lạc vào một thế giới cổ tích. Một mùa xuan đầy sức sống đang về trên quê hương tôi. Quê hương tôi thật đẹp phải không các bạn? Tôi mong ước quê mình mãi đẹp dưới sắc xuân.

Ôi, quê mình vào buổi sáng đầu xuân đẹp quá, đẹp quá đi! Tôi thật sung sướng và tự hào khi được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất yêu dấu này. Tôi sẽ cố gắng học thật giỏi để sau này xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp hơn.

 

 

banhbanhquayeubucqua

Bình luận (0)
Hải Yến
27 tháng 1 2016 lúc 10:14

bucminhhuhu

Bình luận (1)
Phạm Quỳnh Anh
27 tháng 1 2016 lúc 21:25

bạn có thể lấy cảm xúc ở quê mình đấy!

 

Bình luận (0)
Bui Viet Hoang
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Sơn Ca
26 tháng 1 2016 lúc 21:10

Dàn ý nhé : ( bạn dựa trên đây lập dàn ý cho bài văn của bạn , chứ quê hương bạn có cảnh đẹp nào thì ....)

I. Mở bài: 
Việt Nam là một đất nước tuy nhỏ bé nhưng may mắn có được nguồn tài nguyên khóang sản dồi dào và rất nhiều danh lam thắng cảnh trải dài từ Bắc chí Nam. 
Trong đó, vịnh Hạ Long là một điểm đến nổi tiếng không chỉ với khách du lịch trong nước mà còn với cả du khách nước ngoài. 
II.Thân bài 
1/ Vị trí địa lí + nguồn gốc: 
Vị trí: 
Thuộc tỉnh Quảng Ninh, cách Hà Nội 151km về phía Đông Bắc. 
Là một phần của vịnh Bắc Bộ gồm vùng biển thuộc thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và một phần huyện đảo Vân Đồn. 
Tiếp giáp quần đảo Cát Bà phía Tây Nam; phía Đông giáp biển Đông; phía Đông Bắc giáp vịnh Bái Tử Long; phía Tây và Tây Bắc giáp đất liền chạy dài khoảng 120km bờ biển. 
Diện tích: 1553km2 .Gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ. 
989 đảo có tên và 980 đảo chưa được đặt tên. 
b) Nguồn gốc: 
- Hạ Long có nghĩa là rồng đáp xuống => vịnh Hạ Long: vịnh nước nơi rồng đáp xuống. 
- Theo truyền thuyết: khi người Việt mới lập nước đã bị nạn giặc ngọai xâm, Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn Rồng Con hạ giới giúp người Việt đánh giặc. 
- Vị trí Rồng Mẹ đáp xuống gọi là Hạ Long, nơi Rồng Con đáp xuống là Bái Tử Long, chỗ đuôi đàn rồng quẫy nước trắng xóa là Bạch Long Vĩ (bán đảo Trà Cổ ngày nay). 
2/ Đặc điểm – cấu tạo: 
Có hai dạng: đảo đá vôi và đảo phiến thạch hình thành cách nay trên 500 triệu năm. 
Trên đảo là hệ thống hang động phong phú với những nhũ đá có hình dáng và màu sắc đa dạng, huyền ảo. 
Một số hang có dấu tích của người tiền sử: hang Đầu Gỗ, Bồ Nâu, Sửng Sốt, Mê Cung,…. 
* Vẻ đẹp của Hạ Long là một bức tranh thủy mặc được tạo nên từ ba yếu tố: đá, nước và bầu trời. 
Hòn Đỉnh Hương toát lên ý nghĩa tâm linh 
Hòn Gà Chọi có một triều sâu triết học 
Hòn Con Cóc ngàn năm vẫn đứng đó kiện trời 
Hang Đầu Gỗ gợi cảm giác choáng ngợp với những nhũ đá muôn hình dáng vẻ 
Động Thiện Cung như một đền đài hoành tráng, mĩ lệ. 
- Cảnh hoàng hôn ở vịnh Hạ Long một bức tranh lãng mạn và rất thơ mộng. 
3/ Vai trò + ý nghĩa: 
Vịnh Hạ Long đã hai lần được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới vào năm 1994 và 2000. 
Thu hút nhiều khách du lịch trong và ngòai nước, các nhà đầu tư,…. 
Là nơi thích hợp để nghiên cứu thạch nhũ; nghiên cứu hệ sinh thái. 
-> Mang lại nhiều nguồn lợi cho đất nước, giúp đất nước ngày càng phát triển. 
Cần được khai thác một cách hợp lí và bảo vệ đặc biệt. 
III. Kết bài 
Vịnh Hạ Long là niềm tự hào của người dân Việt Nam. 
Giữ gìn và phát huy cái đẹp, nét văn hóa của một danh lam thắng cảnh nổi tiếng là nhiệm vụ của mọi người dân Việt Nam

Bình luận (0)
Bui Viet Hoang
26 tháng 1 2016 lúc 21:11

chép ở đâu thế

Bình luận (2)
Nuyễn Đình Hào
2 tháng 11 2017 lúc 22:18

Trên đất nước Việt Nam có rất nhiều danh lam thắng cảnh đẹp như là: Hồ Hoàn Kiếm, Văn Miếu, Bến Nhà Rồng,... Nhưng có một nơi rất nổi tiếng ở quê hương tôi đó là Vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh.

Vịnh Hạ Long là một tuyệt tác đã có từ rất lâu do thiên nhiên tạo thành. Vịnh có rất nhiều hang động, có động nước và động khô. Bên trong những hang động có rất nhiều đá vôi. Ngoài ra, còn có rất nhiều đảo và cồn đá. Để đi ra được những hang động đó bạn cần phải đi xuồng hoặc đi bằng thuyền. Mặt nước ở Vịnh Hạ Long rất đẹp. những làn sóng nhẹ nhàng đánh vào bờ tạo nên một khung cảnh thơ mộng khi bạn đứng ngắm Vịnh Hạ Long. Chiều về bạn có thể thấy hoàng hôn từ phía xa chiếu lên mặt nước như đang có đến tận hai mặt trời. Vì thế, mà Vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.

Hằng năm, hàng ngàn người khắp thế giới đi đến Vịnh Hạ Long đế du lịch. Vịnh Hạ Long đã thu hút du khách trên khấp thế giới. Vịnh Hạ Long được coi là

cái nôi của nước Việt Nam về nền lịch sử khảo cổ lâu đời. Ngoài ra, Vịnh Hạ Long còn có những hòn và tập trung nhiều động vật và thực vật quý hiếm. Có nhiều khu lịch sinh thái với hàng ngàn động vật dưới nước phong phú. Tên gọi của Vịnh Hạ Long đã thay đổi qua rất nhiều thời kì lịch sử, thời Bắc thuộc được gọi là Lục Châu Lục Hải sau đó được người Pháp gọi là Vịnh Hạ Long từ đó và phổ biến đến ngày nay.

Từ trên cao nhìn xuống, Vịnh Hạ Long nlur một bức tranh tuyệt hảo do thiên nhiên tạo thành gồm có những hang động và những hòn. Bên trong là những hang động người ta có thể tham quan, ngắm cảnh. Có những thạch nhũ có hình thù kì lạ do thiên nhiên tạo ra bên trong hang. Vịnh Hạ Long nhìn từ xa thấy như những người lính khổng lồ canh giữ biển Việt Nam. Mỗi buổi sảng, những chú chim én lại đi kiếm mồi và cho con người tổ của mình để có thể bồi dưỡng cơ thể. Vịnh Hạ Long nhiều lần cũng đã trở thành địa điểm lý tưởng của các nhà làm phim và các diễn viên.

Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những trường hợp vút rác bừa bãi làm ô nhiễm môi trường làm mất đi nét đẹp văn hoá của Việt Nam. Để đảm bảo mọi người không vứt rác bừa bãi cùng đã có những thùng rác đổ bỏ vào. Người ta còn làm sạch nước sông và cọ rửa các hòn đảo.

Vịnh Hạ Long đúng là một cảnh đẹp thiên nhiên trên thế giới. Tôi tự hào là một người ở Quảng Ninh và sở hữu một cảnh đẹp thiên nhiên thế giới.



Bình luận (0)
Bui Viet Hoang
Xem chi tiết
Exit
26 tháng 1 2016 lúc 21:14

-Mái tóc : đen mượt hơi hoe ở đuôi tóc

-Khuôn mặt : trái xoan thon thả

-Khi mẹ cười để lộ hàm răng trắng muốt

-đôi mắt trong và sâu toát lên vẻ hiền tử nhưng cũng không nuông chiều con

- đôi môi đỏ .....

 

 

Bình luận (0)
Nguyễn Hải Hà
26 tháng 1 2016 lúc 21:16

có gì thì tả đấy

Bình luận (0)
Võ Thị Kim Dung
26 tháng 1 2016 lúc 21:27

Gia đình em gồm ông bà, cha mẹ, anh chị... gần một chục người nhưng em yêu nhất vẫn là mẹ. Những dịp xa nhà, khuôn mặt mẹ luôn luôn hiện ra trong tâm trí khiến cho em càng thêm nhớ mẹ. Mẹ em năm nay bốn mươi ba tuổi. Quãng đời dạy học gần hai mươi năm đã Đềlại dấu ấn khó phai trên gương mặt mẹ.

Những lúc mẹ ngồi chấm bài hay soạn bài, gương mặt trái xoan thanh tú hơi cúi xuống. Vài sợi tóc loà xoà trên vầng trán rộng đã thấp thoáng mấy nếp nhăn. Đôi mắt đen vừa dịu dàng vừa nghiêm khắc chăm chú đọc từng dòng chữ trong bài viết của học sinh hay đăm chiêu trên từng trang giáo án. Nhiều khi mẹ nhìn em, ánh mắt yêu thương thay cho bao lời động viên, an ủi. Cũng có lúc, đôi mắt ấy lại như muốn nói: Con đừng bao giờ nói dối mẹ bởi mẹ đọc được ý nghĩ của con! Dường như những nét đẹp trong tâm hồn mẹ cứ lặng lẽ toả chiếu ra từ đôi mắt đó.

Trên gương mặt mẹ, các nét hoà hợp với nhau tạo nên vẻ đẹp giản dị, trong sáng, rất dễ gây thiện cảm. Đặc biệt là nụ cười rạng rỡ, tươi tắn luôn nở trên môi, Đềlại cho mọi người một ấn tượng khó quên ngay sau lần đầu gặp mẹ.

Đồng nghiệp và học sinh của mẹ đều quý mến, tôn trọng và đánh giá rất cao về mẹ. Em tự hào về người mẹ đảm đang, tháo vát và cũng rất mực nhân hậu, hiền từ. Hình bóng mẹ kính yêu mãi mãi ln sâu trong tâm trí em, theo em suốt cả cuộc đời.

Bình luận (0)
Bui Viet Hoang
Xem chi tiết
Bố Già
27 tháng 1 2016 lúc 16:59

nhiều lắm

 

Bình luận (0)
Phạm Quỳnh Anh
28 tháng 1 2016 lúc 9:43

cảnh địa danh í

Bình luận (0)
Nguyễn Tiến Lộc
Xem chi tiết
nguyễn duy mạnh
26 tháng 1 2016 lúc 20:04

ở trên có câu hỏi đó 

Bình luận (10)