Lịch sử

Lê Thị Bảo Khánh
Xem chi tiết
Dark_Hole
7 tháng 3 2022 lúc 7:47

Tham khảo: Ở thế kỉ XVI – XVII, nước ta có những tôn giáo sau: - Các tôn giáo cũ vẫn tiếp tục tồn tại và có chỗ đứng riêng: Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo. - Tôn giáo mới được du nhập: Kito giáo.

Bình luận (0)
Ng Ngọc
7 tháng 3 2022 lúc 7:47

Tham khảo

Ở thế kỉ XVI – XVII, nước ta có những tôn giáo sau: - Các tôn giáo cũ vẫn tiếp tục tồn tại và  chỗ đứng riêng: Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo. - Tôn giáo mới được du nhập: Kito giáo.

Bình luận (0)
Tạ Tuấn Anh
7 tháng 3 2022 lúc 7:50

Tham khảo:

Ở thế kỉ XVI – XVII, nước ta có những tôn giáo sau: - Các tôn giáo cũ vẫn tiếp tục tồn tại và  chỗ đứng riêng: Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo. - Tôn giáo mới được du nhập: Kito giáo.

Bình luận (0)
Đoàn Thiện Nhân
Xem chi tiết
Vannie.....
6 tháng 3 2022 lúc 23:23

Bây giờ là sao bạn mình chx hiểu lắm 

Bình luận (0)
Phạm Duy Quốc Khánh
Xem chi tiết
Thái Hưng Mai Thanh
6 tháng 3 2022 lúc 22:35

đang đàm phán

Bình luận (2)
ka nekk
6 tháng 3 2022 lúc 22:36

bt thì sao?

Bình luận (0)
Khuất Duy Thành
6 tháng 3 2022 lúc 22:36

Đang đánh nhau mà

Bình luận (0)
Minh Hồng
6 tháng 3 2022 lúc 22:31

A

Bình luận (2)
Phạm Duy Quốc Khánh
6 tháng 3 2022 lúc 22:41

A

Bình luận (1)
Thoa le
7 tháng 3 2022 lúc 11:00

A

Bình luận (0)
Nghiêm Thị Lan Hương
Xem chi tiết
Ng Ngọc
6 tháng 3 2022 lúc 22:22

B

Bình luận (0)
Vũ Quang Huy
6 tháng 3 2022 lúc 22:22

b

Bình luận (0)
Pie
7 tháng 3 2022 lúc 20:00

Be

Bình luận (0)
Nghiêm Thị Lan Hương
Xem chi tiết
Lê Phạm Phương Trang
6 tháng 3 2022 lúc 22:18

C

Bình luận (0)
Ng Ngọc
6 tháng 3 2022 lúc 22:20

C

Bình luận (0)
Vũ Quang Huy
6 tháng 3 2022 lúc 22:20

c

Bình luận (0)
Lê Thị Bảo Khánh
Xem chi tiết
Vũ Quang Huy
6 tháng 3 2022 lúc 21:57

đánh gái ?????????

Bình luận (2)
qlamm
6 tháng 3 2022 lúc 21:57

B viết sai r kìa

đánh giá mới đúng nha

Bình luận (2)
Vũ Quang Huy
6 tháng 3 2022 lúc 21:58

tham khảo

Lê Thánh Tông (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497) là hoàng đế thứ năm của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ ngày 26 tháng 6 năm 1460 đến khi qua đời năm 1497, tổng cộng 37 năm, là vị hoàng đế trị vì lâu nhất thời Hậu Lê – giai đoạn Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Thời kỳ của ông được đánh dấu bởi sự hưng thịnh của nhà Hậu Lê nói riêng và chế độ phong kiến Việt Nam nói chung với tên gọi là Hồng Đức Thịnh Thế (洪德盛世).

Lê Thánh Tông tên thật là Lê Tư Thành, là con thứ tư của Lê Thái Tông. Cuối năm 1442, Hoàng đế Thái Tông mất, Thái tử Lê Bang Cơ lên ngôi tức Lê Nhân Tông, phong Tư Thành làm Bình Nguyên vương. Năm 1459, người con cả của Thái Tông là Lê Nghi Dân đột nhập cung cấm giết vua Nhân Tông. Nghi Dân tự lập làm vua, cải phong Tư Thành làm Gia vương. Nghi Dân chỉ ở ngôi được 8 tháng. Ngày 6 tháng 6 âm lịch năm 1460, các tể phụ Nguyễn Xí, Đinh Liệt, làm binh biến, bức tử Nghi Dân. Hai ngày sau, họ bàn nhau đón Tư Thành nối ngôi. Lê Thánh Tông lên ngôi Hoàng đế, xưng làm Thiên Nam Động chủ, đặt niên hiệu là Quang Thuận, sau đổi thành Hồng Đức.

Trong 37 năm trị quốc, Lê Thánh Tông đã ban bố rất nhiều chính sách nhằm hoàn thiện bộ máy quan chế, hành chính, kinh tế, giáo dục – khoa cử, luật pháp và áp dụng các giá trị Tân Nho giáo vào việc trị an, khiến Đại Việt trở thành một quốc gia ổn định và văn minh. Ông xây dựng một hệ thống quan liêu đồ sộ từ trung ương tới địa phương, với tổng số quan trong, ngoài là hơn 5300 người.[1] Ông còn chia đất nước làm 13 thừa tuyên và phủ Phụng Thiên trực thuộc đế đô Đông Kinh, sai quan nghiên cứu hình thế núi sông mà đóng thành bản đồ Hồng Đức. Ông rất chú trọng tới việc tiến cử, cất nhắc quan lại tài năng, liêm khiết và nghiêm khắc bài trừ tệ tham nhũng, biếng nhác, phóng đãng và vô đạo đức trong giới quan chức.[2] Tuy nhiên, ông không thể diệt trừ triệt để tệ tham nhũng vì bản chất cồng kềnh và lương ít của bộ máy quan liêu do ông lập ra.[3]

Lê Thánh Tông cũng hết sức chú trọng phát triển giáo dục và văn hóa, qua việc ông mở rộng quy chế các khoa thi chọn ra người tài cống hiến cho quốc gia. Ông đặt lệ 3 năm mở 1 khoa thi lớn, cho phép những người thi đỗ được về quê vinh quy bái tổ, lại cho dựng văn bia ghi tên họ ở Văn Miếu. Thời ông mở 12 kỳ thi lớn, lấy đỗ hơn 500 người và được sĩ phu Phan Huy Chú thời Nguyễn nhận xét: "Khoa cử các đời, thịnh nhất là đời Hồng Đức".[4][5] Bản thân nhà vua cũng là một người ưa chuộng học vấn, thích ngâm thơ, nghiên cứu và luận bàn kinh sử Nho gia. Ước tính ông có hàng ngàn sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm, trong đó thơ chữ Hán ngày nay còn hơn 350 bài.[6]

Đối với kinh tế, Lê Thánh Tông ông hết mực chăm lo nông nghiệp và khuyến khích dân mở chợ để đẩy mạnh trao đổi hàng hóa trong nước. Tuy nhiên, về ngoại thương, ông thực hiện chính sách ức chế gắt gao gây kìm hãm đối với sự phát triển kinh tế của Đại Việt.[7] Nhà vua còn dành nhiều công sức cho việc cải tổ, huấn luyện quân đội, trực tiếp chỉ huy các cuộc bành trướng về phía Nam và Tây, mà cụ thể là cuộc xâm chiếm Chiêm Thành năm 1471, Lão Qua và Bồn Man năm 1479. Các cuộc chinh phạt đều thắng lợi, đặc biệt là chiến dịch đánh Chiêm 1471 đưa quân đội Đại Việt tới tận quốc đô Đồ Bàn nước Chiêm, bắt vua Trà Toàn và sáp nhập một lãnh thổ rộng lớn từ Quảng Nam đến Bình Định. Đây là một cột mốc lớn trong quá trình Nam tiến của người Việt. Lê Thánh Tông giữ vững vùng đất mới chiếm bất chấp những áp lực từ nước mạnh ở phía bắc là Đại Minh đòi ông trả đất cho Chiêm Thành.[8] Ông cũng cứng rắn ngăn chặn các cuộc lấn chiếm biên giới của thổ quan và người dân tộc thiểu số miền núi bên Đại Minh.[9]

Các thành tựu về nội trị và đối ngoại của Thánh Tông đã khiến Đại Việt quật khởi thành một cường quốc trong khu vực Đông Nam Á. Trong Đại Việt sử ký toàn thư có lời nhận định của sử quan Nho thần đời sau về ông: "Vua sáng lập chế độ văn vật khả quan, mở mang đất đai, cõi bờ khá rộng, thực là bậc vua anh hùng tài lược, dẫu Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không thể hơn được...". Tuy nhiên, người đương thời và các nhà chép sử đời Lê – Nguyễn phê phán ông về việc xây dựng nhiều công trình, cung điện vượt quá quy mô xưa, quá trọng văn chương phù phiếm, xử sự khắc bạc với một số đại thần và anh em, tính khoa trương, bắt chước lối tổ chức nhà nước của Đại Minh, và "nhiều phi tần quá, nên mắc bệnh nặng" dẫn đến cái chết ở tuổi 56.

Bình luận (0)
Dark_Hole
6 tháng 3 2022 lúc 21:54

A

Bình luận (0)
Lê Phạm Phương Trang
6 tháng 3 2022 lúc 21:54

A

Bình luận (0)
Vũ Quang Huy
6 tháng 3 2022 lúc 21:54

a

Bình luận (0)
minh
Xem chi tiết
Vũ Quang Huy
6 tháng 3 2022 lúc 21:47

tham khảo

Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, truyền thống đó lại trỗi dậy, tạo thành sức mạnh vô địch đập tan bè lũ cướp nước và bán nước, bảo vệ sự trường tồn của đất nước. Lịch sử chỉ ra rằng, để truyền thống yêu nước trở thành mạch nguồn sức mạnh, giai cấp lãnh đạo phải có đường lối chính trị đúng đắn, tin vào sức mạnh của quần chúng, lấy lợi ích của dân tộc làm thượng tôn, thực sự là ngọn cờ dẫn dắt, tập hợp toàn dân tộc tạo thành một khối thống nhất chống lại kẻ thù chung. Ngược lại, nếu truyền thống yêu nước không được khơi dậy và phát huy trở thành sức mạnh của dân tộc thì mất nước là điều khó tránh khỏi. Thực tế bài học từ cuộc kháng Pháp xâm lược cuối thế kỷ 19, thời Nguyễn là một minh chứng.

Ngày 1-9-1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha nổ súng tiến công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Với truyền thống yêu nước nồng nàn và ý chí kiên cường, bất khuất, trong suốt nửa cuối thế kỷ 19 (1858-1896), đông đảo nhân dân trên khắp mọi miền đất nước đã anh dũng chiến đấu, tích cực cùng quan quân triều đình hoặc tự mình đứng lên chống thực dân Pháp.

Ngay từ khi thực dân Pháp đánh chiếm Đà Nẵng, nhân dân nơi đây, đặc biệt là các đội dân binh đã luôn tích cực ủng hộ, phối hợp với quân triều đình do danh tướng Nguyễn Tri Phương chỉ huy, chống lại quân xâm lược. Khi thực dân Pháp không thực hiện được âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh”, buộc phải chuyển hướng tiến đánh Nam Kỳ (tháng 2-1859), đông đảo nhân dân Nam Kỳ đã tích cực tham gia chống Pháp, kể cả sau khi triều đình ký với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất (năm 1862) thừa nhận việc cai quản 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ thuộc nước Pháp. Quân Pháp luôn phải đối mặt với những “trung tâm kháng chiến ở khắp mọi nơi, chia nhỏ ra vô cùng, hầu như có bao nhiêu người An Nam thì có bấy nhiêu trung tâm kháng chiến”[1].

Sau khi chiếm xong Nam Kỳ (năm 1867), thực dân Pháp hai lần đánh ra Bắc Kỳ vào các năm 1873, 1882-1883. Năm 1874, triều đình Huế ký với Pháp Hiệp ước Giáp Tuất, chính thức thừa nhận chủ quyền của Pháp đối với 6 tỉnh Nam Kỳ. Sau khi đánh thẳng vào Huế, đổ bộ lên cửa Thuận An, thực dân Pháp từng bước gây áp lực buộc triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Hác-măng (ngày 25-8-1883) và Hiệp ước  Pa-tơ-nốt (ngày 6-6-1884). Đến đây, triều đình nhà Nguyễn hoàn toàn đầu hàng thực dân Pháp xâm lược. Mặc dù vậy, phong trào chống Pháp của nhân dân ta vẫn tiếp tục dâng cao và phát triển sang một giai đoạn mới: Chống Pháp đi đôi với việc chống triều đình đầu hàng. Bất chấp sức mạnh của kẻ thù và sự phản kháng của triều đình Huế, hưởng ứng lời kêu gọi Cần Vương, nhân dân khắp mọi miền Tổ quốc tiếp tục vùng lên chống Pháp. Bên cạnh đó là phong trào đấu tranh tự phát của nông dân, tất cả đều chung một mục đích đứng dậy chống giặc, cứu nước.

Như vậy, cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược của triều đình nhà Nguyễn ngay từ đầu đã luôn có sự ủng hộ, phối hợp của nhân dân. Trên thực tế, quan quân nhà Nguyễn cũng đã giành được một số thắng lợi. Cuộc chiến đấu ở mặt trận Đà Nẵng đã gây cho Pháp nhiều tổn thất, buộc chúng phải từ bỏ chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” và chuyển hướng vào Gia Định. Tại Gia Định, từ giữa tháng 2 đến tháng 3-1859, quân dân ta tiếp tục gây cho Pháp nhiều khó khăn, buộc chúng phải rút đại bộ phận ra ứng cứu cho lực lượng nguy khốn ở Đà Nẵng. Đáng kể nhất là chiến thắng trong hai trận Cầu Giấy (ngày 21-12-1873 và 19-5-1883), quân triều đình do Hoàng Tá Viêm chỉ huy phối hợp với quân Lưu Vĩnh Phúc chiến đấu đập tan hai cuộc hành quân của Pháp, hai tên chỉ huy là trung tá F.Garnier và đại tá H.Rivière tử trận.

Sau mỗi thắng lợi, quân dân ta phấn khởi, sẵn sàng xông lên tiêu diệt quân xâm lược. Bất chấp lệnh bãi binh của triều đình, phong trào chống Pháp nổi lên khắp nơi, như: Trương Định ở Gò Công; Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá, Hà Tiên; Thiên Hộ Dương (Vũ Duy Dương) ở Đồng Tháp Mười; Phong trào Cần Vương do Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi khởi xướng với các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu, như; Khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hóa), Khởi nghĩa Bãi Sậy (Hưng Yên), Khởi nghĩa Hương Khê (Hà Tĩnh); các cuộc đấu tranh tự phát của nông dân... Các văn thân, sĩ phu yêu nước, những người đứng đầu các cuộc đấu tranh đã dựa vào dân, tin tưởng vào sức mạnh và ý chí quật cường của nhân dân, trở thành ngọn cờ quy tụ, đoàn kết nhân dân chống Pháp. Truyền thống yêu nước quật cường của dân tộc trỗi dậy mạnh mẽ, nhân dân khắp cả nước tích cực đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược, bảo vệ đất nước.

Trong khi đó, đối lập với phong trào đấu tranh của nhân dân, triều đình nhà Nguyễn với tư tưởng “chủ hòa” chi phối đã không dám hiệu triệu quan quân và đông đảo nhân dân thừa thắng xốc tới, trái lại còn ra lệnh cho quan quân lui binh và từng bước bắt tay hòa hoãn, ký với Pháp những điều ước bất lợi, đi đến đầu hàng Pháp, chống lại dân, từ bỏ vai trò lãnh đạo, bỏ rơi, thậm chí ngăn cản, phá hoại phong trào chống Pháp của nhân dân. Nhiều đề nghị cải cách nhằm canh tân đất nước, đưa đất nước thoát khỏi họa xâm lăng bị triều đình Nguyễn khước từ. Những vấn đề cốt tử để giữ nước như cố kết nhân tâm, khơi dậy và phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của nhân dân, canh tân đất nước, chấn chỉnh quân đội, mở rộng giao lưu với các nước văn minh… đã không được triều đình Nguyễn thực hiện. Thái độ, hành động đó của triều đình nhà Nguyễn thể hiện rõ sự suy yếu, mất lòng dân, không quy tụ và phát huy được truyền thống yêu nước bất khuất của nhân dân dưới ngọn cờ chống Pháp.

Mặc dù nhân dân khắp từ Nam chí Bắc liên tục vùng lên chiến đấu và thực dân Pháp phải mất gần 4 thập kỷ (1858-1896) mới hoàn thành công cuộc đánh chiếm và bình định Việt Nam, nhưng do các phong trào đấu tranh chủ yếu tự phát, thiếu sự tổ chức và lãnh đạo thống nhất, nên chưa thúc đẩy, động viên và khai thác triệt để sức mạnh của dân tộc. Dù đã viết nên những trang sử hết sức oanh liệt, nhưng cuộc kháng Pháp cuối thế kỷ 19 dưới triều Nguyễn đã “chỉ có thể dấy lên rồi tắt, chính vì thiếu lực lượng lãnh đạo đủ năng lực”[2]. Ngoài những nguyên nhân khách quan của thời đại, đây chính là nguyên nhân chủ quan, cơ bản, có vai trò quyết định nhất, thể hiện trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để mất nước; đồng thời cũng là bài học sâu sắc về đường lối cứu nước nhằm quy tụ, cố kết nhân tâm, khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ bờ cõi thiêng liêng của Tổ quốc.

Từ bài học lịch sử trong cuộc kháng Pháp cuối thế kỷ 19, để khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) hiện nay, cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:

Một là, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam-ngọn cờ quy tụ, tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân nhằm khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc

Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập (năm 1930) và đóng vai trò lãnh đạo cách mạng nước ta, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân ta từ giữa thế kỷ 19 tuy diễn ra liên tục nhưng đều thất bại; nguyên nhân là do chưa có một đội tiền phong lãnh đạo với đường lối chính trị đúng đắn, nhằm khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, chống lại kẻ thù chung. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với đường lối cách mạng đúng đắn, khoa học dựa trên cơ sở nền tảng lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đoàn kết một lòng, tạo nên một lực lượng to lớn và rộng khắp, anh dũng đấu tranh, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ đi lên CNXH. Sự lãnh đạo của Đảng trở thành tất yếu, là cơ sở bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng nước ta.

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường; xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Ở trong nước, bên cạnh những thuận lợi, thời cơ mới, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu chống phá cách mạng với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Đặc biệt, chúng ra sức tuyên truyền, xuyên tạc hòng hạ thấp, đi tới phủ nhận vai trò và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam; đòi đa nguyên, đa đảng, phi chính trị hóa quân đội, tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng... Chính vì vậy, cần tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam là một tất yếu khách quan, là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh.

Từ bài học lịch sử của cuộc kháng Pháp xâm lược cuối thế kỷ 19 và thực tiễn hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng, để Đảng ta tiếp tục làm tròn sứ mệnh cao cả của mình trước dân tộc, trước nhân dân, là ngọn cờ tập hợp và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc, của nhân dân. Đặc biệt, trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, cùng với phát huy nội lực, cần tiếp tục kiên định thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Muốn vậy, phải chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, để Đảng thực sự “là đạo đức, là văn minh”. Cần tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Nghị quyết Trung ương 7, khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X cùng các chỉ thị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương về công tác xây dựng Đảng, tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ.

Hai là, củng cố và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam cho thấy ý nghĩa to lớn, quyết định của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong việc khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước, thực hiện đánh giặc “toàn dân”, “toàn diện”. Một trong những nguyên nhân thất bại của cuộc kháng Pháp cuối thế kỷ 19 chính là do triều đình nhà Nguyễn đã không quy tụ và phát huy được sức mạnh đại đoàn kết, truyền thống yêu nước của nhân dân. Chính vì vậy, từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng xây dựng và phát huy vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất với nhiều hình thức, biện pháp phong phú, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Đảng xác định việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở đồng thuận xã hội là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; nguồn sức mạnh tổng hợp, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng. Hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc, từ đó phát huy cao độ lòng yêu nước, chí căm thù giặc, tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất của toàn dân, toàn quân, quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Bằng sức mạnh tổng hợp đó, quân và dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, càng đánh càng mạnh, càng thắng lớn và giành những thắng lợi quyết định cả trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, để củng cố và phát huy vai trò của MTTQ, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị về vị trí, tầm quan trọng của sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Quan tâm xây dựng MTTQ Việt Nam và các đoàn thể quần chúng vững mạnh, thực sự là ngọn cờ tập hợp, dẫn dắt quần chúng và làm tốt chức năng phản biện xã hội. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, sức mạnh vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội và củng cố mối quan hệ đoàn kết toàn dân tộc. Đối với cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân, cần tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Phong trào Thi đua Quyết thắng, tạo chuyển biến mạnh mẽ trên các lĩnh vực công tác, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng quân đội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới.

Ba là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) vững mạnh, củng cố “thế trận lòng dân”, thực hiện “quân với dân một ý chí”

Từ những bài học lịch sử trong quá khứ, trong đó có bài học từ cuộc kháng Pháp xâm lược thời Nguyễn, có thể khẳng định, nền QPTD và thế trận chiến tranh nhân dân (CTND) là yếu tố có ý nghĩa quyết định tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát huy tinh thần yêu nước, giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Chính vì vậy, xây dựng nền QPTD, thế trận CTND vững mạnh là chủ trương chiến lược xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta; là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị, trong đó Quân đội nhân dân là lực lượng nòng cốt. Đó cũng chính là việc “lo giữ nước từ khi nước chưa nguy” đã được cha ông ta thực hiện thành công trong lịch sử.

Trong những năm qua, trên cơ sở quán triệt, thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về xây dựng nền QPTD, thế trận CTND, như: Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị khóa X về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới; Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết Đại hội XII của Đảng… các cấp, các ngành, các địa phương đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng nền QPTD gắn với thế trận CTND ngày càng vững chắc. Trên cơ sở đó, trong giai đoạn tiếp theo, cần tiếp tục xây dựng khu vực phòng thủ trên từng địa bàn chiến lược theo hướng “vững toàn diện, mạnh trọng điểm”; xây dựng thế trận QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân, trong đó đặc biệt coi trọng xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Đẩy mạnh và thực hiện tốt công tác dân vận, tạo cơ sở để xây dựng mối quan hệ gắn bó đoàn kết quân-dân, thực hiện “quân với dân một ý chí”. Quán triệt, triển khai thực hiện tốt nội dung chiến lược quân sự, chiến lược quốc phòng Việt Nam. Tập trung xây dựng lực lượng vũ trang 3 thứ quân, nhất là Quân đội nhân dân vững mạnh, làm nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Phát huy sức mạnh toàn dân, toàn xã hội, gắn với thế trận QPTD; có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phải được chuẩn bị từ thời bình, có khả năng sẵn sàng chuyển hóa thành thế trận CTND bảo vệ Tổ quốc khi có chiến tranh xảy ra, bảo đảm giành thắng lợi trong mọi tình huống.

Bốn là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc và ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia cho toàn quân, toàn dân

Ý thức sâu sắc về vai trò và sức mạnh của truyền thống yêu nước trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cách mạng. Yêu nước không chỉ ở nhận thức, ở khẩu hiệu tuyên truyền chung chung mà phải thể hiện ở hành động thiết thực, cụ thể. Người yêu cầu: “Phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”[3]; phải “đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”[4].

Làm theo tư tưởng của Người, trong bối cảnh tình hình hiện nay, để tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, không thể không khơi dậy và nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc về đất nước Việt Nam tươi đẹp, về trang sử hào hùng của dân tộc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại trong đông đảo các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bên cạnh đó, cũng thẳng thắn nhìn nhận những bài học và nguyên nhân không thành công về việc khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước trong quá khứ để rút kinh nghiệm cho hiện tại và tương lai.

Để thực hiện điều đó, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước trong đông đảo nhân dân, cán bộ và bộ đội bằng nhiều hình thức phong phú, sinh động, cụ thể, phù hợp với từng đối tượng, trong đó đặc biệt coi trọng giáo dục trong nhà trường, giáo dục thông qua các tổ chức chính trị-xã hội và các phương tiện truyền thông; qua đó, nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, thực hiện chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Mỗi người dân cần được bồi dưỡng và nâng cao ý thức về việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xác định đó là nhiệm vụ thiêng liêng, là trách nhiệm cao cả đối với non sông đất nước. Toàn quân cần thực hiện có hiệu quả Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”, gắn với thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 87-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Từ đó, nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng và tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ, biến thành sức mạnh vật chất to lớn, sẵn sàng cùng toàn dân đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Từ cuộc kháng Pháp xâm lược cuối thế kỷ 19 thời Nguyễn, bài học khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước càng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần tiếp tục phát huy khí phách quật cường, truyền thống yêu nước anh dũng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, đưa sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” tiếp tục giành được những thắng lợi to lớn hơn nữa, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Bình luận (6)
Lương Đại
7 tháng 3 2022 lúc 7:09

Nhận định trên là đều đúng ở nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về phần khách quan thì việt nam bị xâm lược là 1 điều tất yếu vì vào cuối thế kỉ XIX các nước phương tây đẩy mạnh việc chiếm nước khác nhằm mục đích mở rộng địa bàn và Việt Nam là nước có tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lí thuận lợi nên là 1 con mồi cho các nước phương tây. Nguyên nhân chủ quan là sau khi lập quốc thì triều đình nhà Nguyễn lại thi hành nhiều chính sách không phù hợp với thực tại như đóng cửa biển hạn chế giao thương với nước ngoài, không chịu canh tân đất nước, và đặc biệt là việc "săn lùng" những giáo dân và giáo sĩ truyền đạo Gia-tô khiến cho Pháp càng có nguyên nhân xâm lược hơn . Nước ta rơi vào tay thực dân Pháp có một phần lí do là của nhà Nguyễn: chủ trương "thương lượng" vì có rất nhiều cuộc khởi nghĩa nổi lên nhưng triều đình nhà Nguyễn lại nhu nhược, tự dập tắt các cuộc khởi nghĩa và hèn yếu trước các cuộc "khai phá" đất của người dân.

Bình luận (0)
Nguyên hậu
Xem chi tiết