Việc tự nhận ra điểm mạnh, điểm yếu của bản thân giúp ích gì cho em trong học tập
Việc tự nhận ra điểm mạnh, điểm yếu của bản thân giúp ích gì cho em trong học tập
Việc tự nhận ra điểm mạnh, điểm yếu của bản thân giúp ích gì cho em trong học tập
Việc tự nhận ra điểm mạnh, điểm yếu của bản thân giúp ích gì cho em trong học tập
Việc tự nhận ra điểm mạnh, điểm yếu giúp em hiểu hơn về những môn mình mạnh, những môn mình thiếu, mình còn thiếu kĩ năng gì,...Từ đó giúp em nhận ra mình vẫn còn thiếu gì và cần làm gì để bù đắp những điểm yếu đó hoặc phát triển điểm mạnh,...
Mong được nhận thêm sự góp ý của mn
Khi biết điểm mạnh của bản thân em có thể phát huy tối đa khả năng của mình, tận dụng lợi thế để học tập hiệu quả hơn
Khi nhận ra điểm yếu, em sẽ có cơ hội khắc phục, tìm cách cải thiện để không bị tụt lại phía sau. Nhờ đó, em có thể xây dựng kế hoạch học tập phù hợp, phân bổ thời gian hợp lý và đạt được kết quả tốt hơn
Ngoài ra việc hiểu rõ bản thân còn giúp em tự tin hơn trong học tập và cuộc sống từ đó mở ra nhiều cơ hội mới
Việc tự nhận ra điểm mạnh, điểm yếu của bản thân giúp em xây dựng một kế hoạch học tập dài hạn hợp lý, tối ưu hóa thời gian và năng lực. Em có thể phát huy tối đa thế mạnh, đồng thời cải thiện các yếu điểm qua thời gian, từ đó phát triển toàn diện hơn trong học tập và chuẩn bị tốt cho tương lai.
phân biệt chức năng của hệ thần kinh vận động và hệ thần kinh sinh dưỡng.
GIỐNG NHAU:
-Đều được cấu tạo từ mô thần kinh bao gôm các nơron và tổ chức dây thần kinh đệm
-Đều gồm 2 bộ phận là bộ phận trung ương và bộ phận ngoại biên
-Đều có vai trò điều khiển và điều hoà hoạt động của các cơ quan trong cơ thể
KHÁC NHAU:
- hệ thận kinh vận động điều khiển hoạt động của các cơ vận động(hoạt động có ý thức)
- hệ thần kinh sinh dưỡng điểu khiển hoạt động của các cơ quan sinh dưỡng và sinh sản(hoạt động không có ý thức)
Trả lời:
Giống nhau:
- Đều đc cấu tạo từ mô thần kinh bao gồm các noron và tổ chức dây thần kinh đệm
- Đều gồm 2 bộ phận là bộ phận trung ương và bộ phận ngoại biên
- Đều có vai trò điều khiển và điều hòa hoạt động các cơ quan trong cơ thể
Khác nhau:
- Hệ thần kinh vận động: điều khiển hoạt động của các cơ vận động(Hoạt động có ý thức)
- Hệ thần kinh sinh dưỡng điều khiển hoạt động của các cơ quan sinh dưỡng và sinh sản(hoạt động không có ý thức)
hệ thần kinh vận động:điều khiển hoạt động của các cơ vận động
hệ thần kinh sinh dưỡng: điều khiển hoạt động của các cơ quan sinh dưỡng và sinh sản
Một Số tác nhân chủ yếu gây hại cho hệ bài tiết nước tiểu? Giúp zới!!!!!!!
Một Số tác nhân chủ yếu gây hại cho hệ bài tiết nước tiểu:
- Hoạt động lọc máu để tạo nước tiểu đầu có thể kém hiệu quả hay ngưng trệ hoặc ách tác do các nguyên nhân sau :
+ Một số cầu thận bị hư hại về cấu trúc do các vi khuẩn gây viêm các cơ quan bộ phận khác (tai, mũi, họng,...) rồi gián tiếp gây viêm cầu thận.
+ Các cầu thận còn lại phải làm việc quá tải, suy thoái dần và dẫn tới suy thận toàn bộ.
- Hoạt động hấp thụ lại và bài tiết tiếp của ống thận cũng có thể kém hiệu quả hoặc ách tắc do :
+ Các tế báo ống thân do thiếu ôxi, do làm việc quá sức hay bị đầu độc nhẹ nên làm việc kém hiệu quả hơn bình thường.
+ Các tế bào ống thận bị tổn thương do đói ôxi lâu dài, do bị đầu độc bởi các chất độc (thủy ngân, asenic, các độc tố vi khuẩn, độc tố trong mật cá trắm...). Từng mảng tế bào ống thận có thể bị sưng phồng làm tắc ống thận hoặc thậm chí bị chết và rụng ra làm cho nước tiểu trong ống hòa thẳng vào máu.
- Hoạt động bài tiết nước tiểu cũng có thể bị ách tắc do sởi hay viêm :
+ Các chất vô cơ và hữu cơ trong nước tiểu như axit uric, canxi, phôtphat. ôxalat, xistêin, ... có thể bị kết tinh ở nồng độ quá cao và độ pH thích hợp, tạo nên những viên sỏi làm tắc nghẽn đường dẫn nước tiểu.
+ Bể thận, ống dẫn nước tiểu, bóng đái và ống đái có thể bị viêm do vi khuẩn theo đường bài tiết nước tiểu đi lên gây ra.
Một số tác nhân chủ yếu gây hại cho hệ bài tiết nước tiểu là:
-hoạt động lọc máu để tạo nước tiểu đầu có thể kém hiệu quả hay ngưng trệ hoặc ách tắc do các nguyên nhân sau:
+một số cầu thận bị hư hại về cấu trúc do các vi khuẩn gây viêm các cơ quan,bộ phận khác(tai,mũi,họng...)rồi gián tiếp gây viêm cầu thận.
+các cầu thận còn lại phải làm việc quá tải,suy thoái dần và dẫn tới suy thận toàn bộ.
-hoạt động hấp thụ lại và bài tiết tiếp của ống thận cũng có thể kém hiệu quả hoặc ách tắc do:
-các tế bào ống thận do thiếu ôxi,do làm việc quá sức hay bị đầu độc nhẹ nên làm việc kém hiệu quả hơn bình thường.
+các tế bào ống thận bị tổn thương do đói ôxi lâu dài ,do bị đầu độc bởi các chất độc(thủy ngân,asenic,các độc tố vi khuẩn,độc tố trong mật cá trắm...).Từng mảng tế bào ống thận có thể bị sưng phồng làm tắc ống thận hoặc thậm chí bị chết và rụng ra làm chi nước tiểu trong ống hòa thẳng vào máu.
-hoạt động bài tiết nước tiểu cũng có thể bị ách tắc do sởi hay viêm:
+các chất vô cơ ,hữu cơ trong nước tiểu như axit uric,canxi phootphat ôxalat,xistêin,...có thể bị kết tinh ở nồng độ qua cao và độ pH thích hợp,tạo nên những viên sỏi làm tắc nghẽn đường dẫn nước tiểu.
+bể thận ống dẫn ước tiểu,bóng đái và ống đái có thể bị viêm do vi khuẩn theo đường bài tiết nước tiểu đi lên gây ra.
tại sao nói dây thần kinh tủy là dây pha?
GIÚP E VS!!!!!!
Dây thần kinh tuỷ do các bó sợi cảm giác và bó sợi vận động nhập lại, nối với tủy sống qua rễ trước và rễ sau. Dây thần kinh tủy là dây pha vì nó vừa dẫn truyền xung thần kinh cảm giác từ thụ quan về trung ương vừa dẫn truyền xung thần kinh vận động từ trung ương thần kinh đến cơ quan đáp (dẫn truyền xung thần kinh theo 2 chiều) tạo thành một cung phản xạ.
- Rễ trước: dẫn truyền xung thần kinh vận động từ trung ương đi ra cơ quan đáp ứng (rễ li tâm).
- Rễ sau: dẫn truyền xung thần kinh cảm giác từ các thụ quan về trung ương (rễ hướng tâm).
là do tủy sống thuộc trung tâm thần kinh trung ương, là nơi "nhập" lại của dây thần kinh tới ( TK cảm giác đến não ) và dây thần kinh đi ( TK vận động ) nên gọi là pha tức pha giữa 2 loại dây thần kinh đó.
ns dây TK tủy là dây pha vì:- dây TK tủy bao gôm bó sợi cảm giác và bó sợi vận động.
- rể sau là rể cảm giác gồm các bó sợihướngễ trước là rễ vận động gồm các bó sợi li tâm
vẽ sơ đồ tư duy chương: khái quát về cơ thể người
Bạn có thể google hình ảnh: Human Body Mindmap
https://www.pinterest.com/pin/322640760774374426/
cho biết cấu tạo của tim và mạch máu ?
TRẢ LỜI NHANH GIÚP MIK NHA MẤY BẠN.THANKS
(***) Cấu tạo của tim bao gồm các bộ phận sau:
Bên ngoài
-Tim hình chóp, đỉnh nằm dưới, đáy hướng lên trên và hơi lệch về phía bên trái
-Lớp màng bao bọc bên ngoài tim bằng mô liên kết
-Tâm thất lớn nằm ở phía đỉnh tim
Bên trong
-Có 4 ngăn
-Thành tâm thất dày hơn thành tâm nhĩ
-Giữa tâm thất với tâm nhĩ và tâm thất với động mạch có van -> máu lưu thông theo 1 chiều
(***) Cấu tạo của mạch máu bao gồm các bộ phận sau:
Động mạch
-Thành mạch: gồm 3 lớp là mô liên kết, cơ trơn dày, biểu bì
-Lòng trong hẹp
-Động mạch chủ lớn nhiều động mạch nhỏ
Tĩnh mạch
-Thành mạch : gồm 3 lớp là mô liên kết, cơ trơn mỏng, biểu bì
-Lòng trong: rộng
-Có van 1 chiều
Mao mạch
-Thành mạch : 1 lớp biểu bì mỏng
-Lòng trong: hẹp nhất
-Mao mạch nhỏ, phân nhiều nhánh
bn hỏi google ý
mk ko bít mới hok lớp 7 ak
*tim (chỉ tom tắt ít thôi nha)
- 4 ngăn,2 tâm nhĩ trên và 2 tâm thất dưới
- hình chóp đỉnh quay xuống dưới,đáy quay lên trên
mạch máu:gồm 3 loại mack:động mạch,mao mạch,tĩnh mạch
Với khẩu phần ăn đầy đủ các chất, sau khi tiêu hóa ở khoang miệng và thực quản thì còn những loại chất nào trog thức ăn cần được tiêu hóa tiếp
Trong khẩu phần ăn đầy đủ các chất sẽ có saccarit (chất đường), liptit (chất béo), prôtêin (chất đạm) và các chất khác (axit nucleic,....)
Ở khoang miệng: thực ăn mới được tiêu hóa một phần:
Về mặt cơ học: thức ăn được cắn, xé, nghiền nhỏ, nhào trộn để thấm nước bọt, thức ăn mềm ra, cắt thành những phần nhỏ.
Về mặt hóa học: nước bọt chứa enzim amilaza sẽ phân giải một phần tinh bột trong thức ăn thành mantôzơ (một loại đường đôi, gồm có 2 phân tử glucôzơ liên kết với nhau).
Vào thực quản, thức ăn chi di chuyển trong thực quản, trong quá trình đó, amilaza từ nước bọt tiếp tục phân giải một phần tinh bột trong thức ăn thành mantôzơ.
Sau khi qua khoang miệng và thực quản, thức ăn sẽ xuống dạ dày một thời gian rồi xuống ruột.
Ở dạ dày, thức ăn sẽ tiếp tục được nhào trộn, thấm dịch vị, enzim pepsin trong dạ dày sẽ phân giải protein thành những đoạn peptit ngắn.
Ở ruột, thức ăn được thấm dịch và các enzim tiêu hóa do tuyến mật, tuyến tụy tiết ra. Ở ruột, tất cả các loại thức ăn còn lại sẽ được phân giải hoàn toàn thành các phân tử nhỏ: glucôzơ, axit amin, axit béo, nuclêôtit,... và được hấp thụ vào máu.
Ở khoang miêng với thực quản làm gì nó đã tiêu hóa em..xuống dạ dày nhờ các enzim phân hủy các chất xơ, thức ăn cứng ... thì lúc này nó thật sự mới được cắt nhỏ để hấp thụ vào cơ thể
Các chất cần được tiêu hóa tiếp là: gluxit, lipit và prôtêin.
Giải thik cấu tạo của phổi
Phổi là một bộ phận trong cơ thể với vai trò chính yếu là trao đổi các khí - đem ôxy từ không khí vào tĩnh mạch phổi, và điôxít cacbon từ động mạch phổi ra ngoài. Ngoài ra phổi cũng có một số khả năng thứ yếu khác, giúp chuyển hóa một vài chất sinh hóa, lọc một số độc tố trong máu. Phổi cũng là một nơi lưu trữ máu.
Trong con người, phổi gồm có hai buồng phổi nằm bên trong lồng ngực, được bao bọc bởi các xương sườn chung quanh, phía dưới có cơ hoành ngăn giữa phổi và các cơ quan trong bụng như gan, dạ dày, lá lách. Giữa hai buồng phổi là khí quản (1) - là ống dẫn khí chính. Khí quản phân ra hai nhánh phế quản chính (2) (3). Quả tim nằm giữa hai phổi (trung thất), hơi trệch về bên trái.
Buồng phổi bên trái có 2 thùy (trái-trên (5a), trái-dưới (5b)), bên phải có 3 thùy (phải-trên (4a), phải-giữa (4b) và phải-dưới (4c)). Mỗi buồng phổi có một phế quản chính, một động mạch (8) và hai tĩnh mạch - những ống dẫn này chia như nhánh cây chi chít từ lớn ở giữa ngực (trung thất) đến cực nhỏ phía ngoài cùng của buồng phổi - kèm theo là các dây thần kinh và mạch bạch huyết.
Những ống dẫn khí lớn hơn như khí quản và phế quản lớn được nhiều vành sụn giữ cho cứng và có ít cơ trơn. Bên trong các ống có lát màng tế bào tiêm mao và một lớp màng nhầy mỏng trên các tế bào này. Chất nhầy giữ bụi, hạt phấn và các chất bẩn khác. Qua chuyển động của tiêm mao, chất bẩn bám theo màng nhầy được đẩy lên và đưa vào thực quản nuốt xuống dạ dày theo nước miếng.
Hệ hô hấp có hai phần, "hô hấp ngoại" là giai đoạn phổi hấp thụ O2 từ không khí bên ngoài vào cơ thể và thải CO2 ra. "Hô hấp nội" là giai đoạn trao đổi O2 và CO2 tại các tế bào trong cơ thể.
Hệ "hô hấp ngoại" gồm có hai lá phổi, như hai túi hơi được kéo ra - để hút hơi vào; và bóp lại - để đẩy hơi ra; bởi một dàn khung bơm. Dàn khung này là bộ xương lồng ngực và cơ hoành, cử động nhịp nhàng theo co bóp của các cơ xương ngực và cơ hoành, dưới sự điều khiển của một số tế bào đặc biệt trong não. Trong tình trạng thư giãn, con người hít thở 12-15 lần một phút; mỗi lần thở 500 mililít không khí (nghĩa là khoảng 6-8 L mỗi phút); 250 mL O2 đi vào cơ thể và 200 mL CO2 trở ra.
Trong hơi thở ra có nhiều chất khí thải từ trong cơ thể - khoa học có thể xét nghiệm được khoảng 250 loại khí khác nhau từ hơi thở con người, thí dụ methane (từ ruột); rượu (khi uống rượu), acetone (khi nhịn ăn), v.v.
Cơ quan hô hấp:
Da: một số thủy sinh, hay động vật sống trên mặt đất (một số loài nhện và rận , ví dụ) có thể hít thở một cách đơn giản bằng cách trao đổi khí qua bề mặt của cơ thể
Mang: nhiều thủy sinh, động vật sử dụng mang để thở. Ngay cả các động vật trên mặt đất cũng có thể làm được điều này, như với các loài mọt có thể tìm thấy được dưới những tảng đá trong sân nhà. Mang chỉ đơn giản là lớp tế bào điều chỉnh một cách cụ thể để trao đổi khí một cách phù hợp.
Mang phụ: một số loài nhện, bọ cạp, và vài loài chân khớp vẫn dùng mang phụ. Mang phụ, chủ yếu là mang được điều chỉnh cho sử dụng trên đất, trong quá trình hô hấp của chúng. Chúng là những tế bào đơn giản, với nhiều vết nhăn để tăng diện tích bề mặt
Một bộ phận trong tai: Một cơ quan thở phụ cho các loài cá thuộc họ Anabantoidei. Chủ yếu kèm theo các tế bào đan xen chằng chịt với nhau, phát triển từ một góc trong cấu trúc của mang
Khí quản: ống phát triển của nhiều loài chân khớp, có thể từ mang phụ, mà đơn giản chỉ dẫn trực tiếp vào các cơ quan thông qua các lỗ được gọi là lỗ mang, nơi mà các cơ quan nội bộ tiếp nhận với không khí. Chúng có thể rất đơn giản, như là với một số loài nhện, hoặc phức tạp hơn, kết thúc bằng một cái túi khí phức tạp, như với nhiều côn trùng.
Vì sao khi ăn k nên nói chuyện?
( giải thích theo các hiện tượng, cơ sở sinh hok nhé các bn)
nếu ăn khi nc thì sẽ rất vô duyên và bắn thức ăn vào mặt người khác
Trong bữa ăn, tốt nhất là không nên nói bởi vì khi nói, quý vị không nhai kỹ càng. Tôi nói về phương diện thể chất, chưa nói đến phương diện tâm linh. Hơn nữa, nhiều khi nói chuyện, quý vị nuốt (thức ăn) xuống sai ống dẫn, thay vì xuống đường bao tử thì lại qua đường phổi hay mũi và gây phiền phức. Có khi làm chết người! Cho nên từ xưa người ta nói rằng khi ăn thì không nên nói chuyện.
Ðó là sự giải thích theo lý, nhưng còn một giải thích khác, đó là hầu hết ma quỷ đi vào từ miệng vì đó là khe hở lớn nhất và phần đông thời gian là chúng ta mở ra. Nếu có thứ gì muốn nhập vào chúng ta nó có thể chui qua miệng một cách rất nhanh. Cho nên khi chúng ta ăn mà cứ mở miệng ra nói chuyện thì ma quỷ sẽ nghe và chui vào trong cùng với thức ăn. Hoặc làm dơ thức ăn và gây khó tiêu hay trúng độc hay làm điều gì trở ngại khi nó vào trong thân thể chúng ta.
Nhiều khi chúng ta mắc một chứng bệnh dễ lây mà ngay cả chúng ta cũng chưa biết. Nó có thể đã vào trong nhưng chưa phát ra trong mình nên chúng ta không biết mình có. Nếu vừa ăn vừa nói, chúng ta thở ra đủ thứ vi trùng vào trong thức ăn, và rồi cả hai người đều phải hít vào và ăn thức ăn bị nhiễm vi trùng của chúng ta.
Bởi thế cho nên trong lúc ăn tốt hơn là chúng ta đừng nói chuyện. Nếu phải nói thì tốt hơn là đừng nói trực tiếp vào trong thức ăn. Ðâu cần phải bò lên trên bàn để nói chuyện với nhau! Tại vì vào lúc đó dĩ nhiên là nước miếng và hơi thở quý vị sẽ khiến vi trùng đi vào trong thức ăn nữa. Có thể là chúng ta không thấy chúng nhưng chúng hiện hữu ở đó.
(Tick mình nha! ... Mình tra google!)
câu này có trong sinh học 8
khi ăn ko nên nói chuyện vì khi nói nắp thanh quản ko kịp đậy,khẩu cái mềm chưa kịp nâng lên nên thức ăn sẽ lên khoang mũi hoặc rơi vào khí quản gây sặc
tích mình nhé
Trong quá trình hoạt động, gân có thể bị tổn thương như thế nào?
Hãy giải thích câu: Trời nóng chóng khát, trời mát chóng đói
- Trời nóng: mồ hôi tiết nhiều, cơ thể mất nhiều nước => Mau khát
- Trời mát: mao mạch máu co lại, lượng máu qua da ít làm giảm sự tỏa nhiệt qua da. Đồng thời cơ thể phân giải chất để giải phóng năng lượng, một phần năng lượng để duy trì thân nhiệt => Nhanh đói
Trời nóng chóng khát vì: trời nóng cơ thể đổ mồ hôi nhiều để tỏa nhiệt ---> cơ thể mất nhiều nước ---> chóng khát
Tời mát chóng đói vì : cơ thể tăng cường quá trình chuyển hóa để sinh nhiệt nên tiêu hao nhiều năng lượng ---> chóng đói
chúc bn học tốt
Câu này hôm trc vừa hok xog mà wêm mất tiêu ùi...hihi