Lịch sử

duc nguyen
Xem chi tiết
Xem chi tiết
lạc lạc
28 tháng 10 2021 lúc 22:16

tham khảo

có triều đại phong kiến nào của Trung Quốc đã xâm lược nước ta đó là

 

nhà tần , .....

 

Bình luận (1)
Stick war 2 Order empire
29 tháng 10 2021 lúc 2:55

theo mik thì ko có triều đại nào của Trung Quốc là ko xâm chiếm nước ta

Bình luận (0)
Nguyễn quốc huy
29 tháng 10 2021 lúc 22:28

Chào đồng chí ....... nhớ mik khum 😝😝 ,... hôm nay lên gg tra thấy đồng trí . Vinh hạnh quá ạ

Bình luận (1)
Xem chi tiết
lạc lạc
28 tháng 10 2021 lúc 22:11

Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, Lào ở phía Tây, Cam-pu-chia ở phía Tây Nam và đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam với các quốc gia láng giềng này đã được hình thành và tồn tại từ lâu trong lịch sử cùng với tiến trình phát triển quan hệ với các nước này. Tuy nhiên, đường biên giới vào thời điểm đó chủ yếu mang tính chất tập quán, dựa theo ranh giới hành chính của các điểm dân cư, sử dụng các yếu tố tự nhiên, như dãy núi, sông suối... và là đường biên giới theo vùng hơn là một đường biên giới được hoạch định, phân giới và cắm mốc(6), thể hiện trên bản đồ như trong giai đoạn sau này khi thực dân Pháp chiếm đóng Đông Dương và ký kết hàng loạt điều ước về biên giới.

Bình luận (0)
Kudo Shinichi
James Pham
Xem chi tiết
cal rolin
29 tháng 10 2021 lúc 7:20

Trung Quốc và Liên Xô có một số điều khác nhau nhau cơ bản như:
  -   Thứ nhất, theo ông Bazhanov, thứ nhất là hai nước có vị trí khác nhau. Trung Quốc rơi vào hỗn loạn sau Cách mạng văn hóa (1966 – 1976). Tới năm 1978, phần lớn người Trung Quốc hiểu rằng họ cần một cuộc cải tổ triệt để. Trong khi đó, Liên Xô năm 1985 vẫn mạnh nên hầu hết người dân vẫn tự coi mình là cường quốc với nền kinh tế hoạt động tốt, xã hội ổn định, trật tự, hơn hẳn Trung Quốc thời kỳ trước cải tổ 1978. Nói cách khác, người Liên Xô không nhiệt tình cải cách như láng giềng Trung Quốc.

   Thứ hai, cơ cấu tổ chức của hai nước có nhiều điểm khác nhau rất cơ bản. Trong lúc phe “cải cách” áp đảo phe “bảo thủ” trong giới cầm quyền Trung Quốc thì tình hình ngược lại ở Liên Xô: ông Gorbachev bị nhiều thành viên “bảo thủ” trong bộ chính trị và nhiều quan chức quân sự chống đối quyết liệt.
  Thứ ba, người đứng đầu cuộc cải cách ở Trung Quốc là ông Đặng Tiểu Bình có nhiều kinh nghiệm, được tự do đưa ra những cải tổ sâu rộng. Còn cuộc cải cách ở Liên Xô được tiến hành bởi những người có quyền lực hạn chế do bị những lực lượng thủ cựu kìm hãm.

 Nguyên nhân thứ tư là tình trạng xã hội, kinh tế hai nước khác nhau. Trước cải cách, Trung Quốc là quốc gia nông nghiệp, 80% dân số là nông dân, những người khao khát được làm việc trên mảnh ruộng của chính mình. Và khi ông Đặng biến giấc mơ của họ thành hiện thực, tình hình biến chuyển nhanh chóng tới mức ngay cả những người bảo thủ, hoài nghi cũng phải thừa nhận cải tổ thành công. Và với xuất phát điểm thuận lợi là nông nghiệp, ông Đặng có cơ sở để công nghiệp hóa và cải cách các lĩnh vực khác.
  chương trình cải tổ ngành nông nghiệp ở Liên Xô cũng gặp khó khăn bởi sau hàng chục năm tồn tại, hệ thống nông trường tập thể quá lạc hậu, giới công chức sơ cứng, không chịu thay đổi, còn người nông dân không có khát vọng lao động để cải thiện đời sống... Tóm lại, cải cách nền kinh tế dựa vào ngành sản xuất khí tài khó hơn là ngành nông nghiệp.

Bình luận (0)
James Pham
29 tháng 10 2021 lúc 21:40

Em xin lỗi, lúc đánh chữ bị lỗi nên em để lại câu hỏi ở đấy nhé ;((

"Vì sao công cuộc cải cách mở cửa ở Trung Quốc năm 1978 giành được thắng lợi còn công cuộc cải tổ năm 1985 của Liên Xô thất bại ? Từ đó em rút ra được bài học gì cho sự phát triển đất nước ta ngày nay ? "

 

Bình luận (0)
James Pham
Xem chi tiết
Milly BLINK ARMY 97
28 tháng 10 2021 lúc 21:44

*Nenxơn Manđêla là được trao giải Nôbel Hòa bình năm 1993 vì đã có nhiều đóng góp tích cực cho phong trào hòa bình thế giới. Cụ thể là:

- Cống hiến cho sự nghiệp chống chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi.

- Sau khi trở thành Tổng thống, Mandela đã thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ người dân ổn định đời sống và áp dụng các chính sách xã hội tiến bộ ít thấy tại châu Phi.

- Năm 1999, sau khi hết nhiệm kì, ông vẫn tiếp tục hoạt động thúc đây hòa bình, dân chủ ở châu Phi.

- Ông dành phần lớn thời gian để tuyên truyền về đại dịch AIDS nhằm thúc giục người dân Nam Phi thay đổi suy nghĩ về đại dịch này “như một căn bệnh thông thường”.

(Tham khảo)

Bình luận (0)
MINH THÂN
Xem chi tiết
Dân Chơi Đất Bắc=))))
28 tháng 10 2021 lúc 21:41

D

Bình luận (0)
Stick war 2 Order empire
29 tháng 10 2021 lúc 2:56

đáp án D

Bình luận (0)
lê trần thanh an
4 tháng 11 2021 lúc 9:04

mình cũng y vậy giúp mình giải đi mn

 

 

 

Bình luận (0)
Hồng Ngọc
Xem chi tiết
Nguyễn Mạnh An
29 tháng 10 2021 lúc 6:21

ASEAN được thành lập vào ngày 08 tháng 8 năm 1967 tại Băng-cốc với mục tiêu tập hợp lực lượng chính trị nhằm xây dựng, duy trì hợp tác phát triển kinh tế, chia sẻ thịnh vượng chung và đảm bảo hòa bình, ổn định trong vấn đề an ninh và của nền kinh tế khu vực Đông Nam Á. Theo đó, ASEAN được sáng lập bởi 5 nước là: In-đô-nê-xia, Ma-lai-xia, Phi-líp-pin, Xinh-ga-po và Thái Lan thông qua việc ký kết Tuyên bố ASEAN. Sau đó, trong quá trình mở rộng của ASEAN, Bru-nây gia nhập ngày 08/01/1984, Việt Nam ngày 28/7/1995, Lào và Mi-an-ma ngày 23/7/1997 và Cam-pu-chia ngày 30/4/1999.

Sau 51 năm thành lập, hợp tác và không ngừng phát triển, ASEAN hiện bao gồm 10 thành viên trong khu vực Đông Nam Á, một thị trường đứng thứ 3 Châu Á với hơn 650 nghìn dân, chiếm 8,59% tổng dân số thế giới, GDP bình quân đầu người đạt 4.305 đô-la Mỹ, dự kiến con số này sẽ tăng gấp đôi vào năm 2030 đưa ASEAN thành cộng đồng kinh tế đứng thứ 7 trên thế giới, với tổng GDP là 2.766 tỷ đô-la Mỹ.

Qua hơn 50 năm kiên trì hợp tác và phát triển, ngoài các trụ cột hợp tác về An ninh - Chính trị, Văn hóa - Xã hội, ASEAN cũng đã và đang tập trung vào hợp tác kinh tế thông qua việc thành lập Cộng đồng Kinh tế, coi đây là một trong ba trụ cột quan trọng nhất, nhằm hỗ trợ nhau cùng phát triển; xây dựng một cộng đồng ASEAN vững mạnh về kinh tế; lành mạnh, đa màu sắc về văn hóa và ổn định về an ninh, chính trị; phồn thịnh về an sinh xã hội, dù còn có sự khác biệt về tôn giáo về trình độ phát triển, về cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin v.v., song 10 nước ASEAN đã coi nhau như anh em một nhà, để hỗ trợ, giúp đỡ và cùng nhau phát triển về mọi mặt. Sự phát triển và hợp tác vững chắc của ASEAN đã góp một phần không nhỏ vào thành tựu chung của thế giới trong thiên niên kỷ mới nói chung, nâng cao vị thế của các nước ASEAN trên trường quốc tế nói riêng, cũng như tạo tiền đề cho các khu vực khác đẩy mạnh hợp tác, coi ASEAN như “người tìm đường” (pathfinder) trong quá trình đẩy mạnh hợp tác và liên kết kinh tế khu vực. Ngoài hợp tác nội khối, ASEAN cũng tăng cường liên kết, hợp tác với nhiều đối tác ngoại khối quan trọng như ASEAN+3, ASEAN+6 v.v. trong nhiều lĩnh vực về cơ sở hạ tầng, thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, công nghệ 4.0, chuỗi giá trị và tăng cường kết nối toàn diện về thể chế, hạ tầng và con người.

Một số thành tựu quan trọng trong trụ cột hợp tác kinh tế mà ASEAN đã đạt được trong những năm qua có thể kể đến như:

Về thương mại hàng hóa, theo cam kết của Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA), các nước ASEAN đã tiến rất gần đến mục tiêu xóa bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan đối với các nước ASEAN-6 (5 nước sáng lập và Bru-nây), 99,2% số dòng thuế đã được xóa bỏ, trong khi 90,9% số dòng thuế của các nước gia nhập sau là Cam-pu-chia, Lào, My-an-ma và Việt Nam (gọi tắt là các nước CMLV) đã được xóa bỏ tính tới năm 2017. Dự kiến, tới hết năm 2018, tỉ lệ xóa bỏ thuế quan trong toàn ASEAN sẽ đạt 98,67%. Ngoài tự do hóa thuế quan, các nước ASEAN cũng đang triển khai các biện pháp tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại của các doanh nghiệp như dự án thí điểm cơ chế tự chứng nhận xuất xứ, cơ chế hải quan một cửa v.v... Các thỏa thuận công nhận lẫn nhau (MRA) về tiêu chuẩn trong các lĩnh vực điện-điện tử, cao su, thực phẩm chế biến sẵn, dược phẩm và thiết bị y tế v.v. Ngoài ra, Việt Nam và các nước ASEAN đã thực thi Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau (MRA) về điện và điện tử, về kiểm tra thông lệ sản xuất thuốc tốt; đã ký MRA về nghiên cứu tương đương sinh học, về hệ thống giám định và chứng nhận an toàn thực phẩm đối với thực phẩm đã qua chế biến nhằm tạo nên một khu vực sản xuất thống nhất trong ASEAN,

Về thương mại dịch vụ, tự do hóa thương mại dịch vụ là một trong những ưu tiên quan trọng trong Cộng đồng kinh tế ASEAN. Quá trình tự do hóa thương mại dịch vụ giữa các nước ASEAN được thực hiện trong khuôn khổ của Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS), ký kết vào năm 1995 và tiếp tục được đàm phán nhằm tự do hóa dần dần thương mại dịch vụ giữa các nước ASEAN. Hiện nay, các nước ASEAN đang đặt mục tiêu sẽ hoàn tất đàm phán và ký kết Nghị định thư thực hiện Gói cam kết dịch vụ thứ 10 thuộc Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS-10) trong năm 2018.

Về đầu tư, trước bối cảnh các khu vực cũng như các nước ASEAN ngày càng phải chịu sức cạnh tranh mạnh mẽ về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước đang phát triển khác trên thế giới cũng như trong khu vực, ngày 15/12/1995 tại Thái Lan, Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 5 của ASEAN đã quyết định thành lập Khu vực đầu tư ASEAN (ASEAN Investment Area - gọi tắt là AIA), nhằm tăng cường thu hút vốn và khả năng cạnh tranh để khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực ASEAN, nơi có nguồn lao động trẻ, rẻ và dồi dào. Sau nhiều nỗ lực thực thi Khu vực đầu tư ASEAN và Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA), trong năm 2017, các nước ASEAN đã hoàn tất việc ký kết Nghị định thư thứ hai sửa đổi ACIA và tiến tới sớm hoàn thành ký kết Nghị định thư thứ ba sửa đổi Hiệp định này để tăng cường luồng đầu tư trong khu vực Đông Nam Á.

Về hợp tác ngoại khối, cho tới nay, ASEAN đã ký kết và thực hiện 6 hiệp định thương mại tự do (FTA) bao gồm: FTA nội khối ASEAN (AFTA); và 5 FTA giữa ASEAN với các đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ốt-xtrây-lia và Niu Di-lân. Vào tháng 11 năm 2017, bên lề Hội nghị Cấp cao ASEAN 31, các nước ASEAN cũng đã ký kết Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Hồng Công, Trung Quốc và Hiệp định đầu tư ASEAN-Hồng Công, Trung Quốc. Ngoài ra, hiện tại các nước thành viên ASEAN cũng đang đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) với 6 nước đối tác: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ốt-xtrây-lia và Niu Di-lân nhằm đạt được một hiệp định FTA toàn diện với mức độ cam kết cao hơn các FTA hiện nay giữa ASEAN với các nước đối tác này.

Về thành tựu phát triển kinh tế, trong hơn 50 năm qua, tổng thương mại hàng hóa của các nước ASEAN với thế giới đã tăng từ 10 tỷ đô-la Mỹ/năm lên mức 2.575 tỷ đô-la Mỹ vào năm 2017. Tổng thương mại dịch vụ tăng từ mức 140 tỷ đô-la Mỹ năm 1999 lên mức kỷ lục 681 tỷ đô-la Mỹ năm 2016. Theo số liệu thống kê sơ bộ, thương mại hàng hóa của ASEAN năm 2017 tăng ở mức 14.2% so với năm trước, cao hơn mức tăng trưởng 11,6% của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong đó, Trung Quốc là đối tác thương mại hàng đầu của ASEAN với tổng giá trị kim ngạch thương mại hàng hóa đạt 436,8 tỷ đô-la Mỹ, chiếm 17,1%.

ASEAN đã trở thành một điểm đến hấp dẫn của đầu tư nước ngoài, với dòng vốn FDI năm 2017 đạt 137 tỷ đô-la Mỹ, tăng mạnh so với mức 22 tỷ đô-la Mỹ năm 2000 và 1/3 tỷ đô-la Mỹ năm 1967. Đầu tư nội khối ASEAN cũng tăng từ mức 5,6% lên 24,7% năm 2016. Lĩnh vực dịch vụ chiếm tỷ lệ thu hút FDI lớn nhất vào ASEAN, tăng từ 50,8% năm 1999 lên 80,8% năm 2016, tiếp đến là lĩnh vực công nghiệp, năng lượng và nông nghiệp.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN chủ yếu có nguồn gốc từ các nước đối thoại như Liên minh châu Âu (EU) tăng 46% lên 30,5 tỷ đô-la Mỹ, Nhật Bản tăng từ 7,9 tỷ đô-la Mỹ năm 2015 lên 23,8 tỷ đô-la Mỹ năm 2016, Trung Quốc tăng 44% lên 9,2 tỷ đô-la Mỹ, Hàn Quốc tăng 3% lên 6 tỷ đô-la Mỹ và Ốt-xtrây-lia tăng 77% lên 3,4 tỷ đô-la Mỹ. Trong khi các nhà đầu tư Nhật Bản quan tâm đến lĩnh vực chế tạo công nghiệp với mức 23,8 tỷ đô-la Mỹ, các nhà đầu tư FDI của Trung Quốc tập trung vào tài chính, bán buôn và bán lẻ, vận tải và bất động sản, các nhà đầu tư Ốt-xtrây-lia, EU và Hoa Kỳ quan tâm đến dịch vụ, chủ yếu là dịch vụ tài chính. Đầu tư nội khối cũng tăng lên mức kỷ lục là 24 tỷ đô-la Mỹ năm 2016, chiếm ¼ dòng vốn FDI vào khu vực

So với thời điểm bắt đầu tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN năm 1996 cho đến nay, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN đã tăng xấp xỉ 7,7 lần, từ 5,91 tỉ đô la Mỹ năm 1996 lên 45,23 tỉ đô la Mỹ tại thời điểm tháng 11 năm 2017, trong đó xuất khẩu hàng hóa của ta vào ASEAN tăng gần 12,4 lần, từ 1,6 tỉ đô la Mỹ năm 1996 lên 19,9 tỉ đô la Mỹ. Tính tới hết tháng 6 năm 2018, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN là 28,1 tỷ đô la Mỹ, trong đó kim ngạch xuất khẩu là 12,2 tỷ đô la Mỹ và kim ngạch nhập khẩu là 15,9 tỷ đô la Mỹ.

Tính đến năm 2018, tỷ lệ xóa bỏ thuế quan của Việt Nam trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) là 98%. Như vậy, trong số 10 FTA mà Việt Nam đang thực hiện, FTA với nội khối ASEAN (AFTA) có tỷ lệ xoá bỏ thuế quan cao nhất là 98% với lộ trình thực hiện là 19 năm (cá biệt, một số ít mặt hàng có lộ trình là 25 năm).

Năm 2018, Xinh-ga-po là nước Chủ tịch ASEAN đã đề ra ưu tiên trong hợp tác ASEAN gồm: i) Hiệp định ASEAN về thương mại điện tử và hội nhập số; ii) Thành lập mạng lưới sáng tạo ASEAN; iii) Đưa vào vận hành cơ chế tự chứng nhận xuất xứ toàn ASEAN và cơ chế một cửa ASEAN; iv) Ký kết Hiệp định thương mại dịch vụ ASEAN; v) Tăng cường hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN; vi) Tuyên bố ASEAN về du lịch hành trình trên biển; vii) Tăng cường hợp tác và thương mại về khí tự nhiên hoá lỏng trong ASEAN; viii) Ký Biên bản ghi nhớ với Cơ quan Năng lượng Tái tạo Quốc tế; ix) Xây dựng Quy tắc ứng xử về xây dựng xanh của ASEAN; và x) Tiếp tục đẩy mạnh quan hệ đối ngoại của ASEAN.

Để thực hiện các mục tiêu trên của ASEAN trong năm 2018 và cũng nhằm chuẩn bị cho năm 2020 khi Việt Nam là nước Chủ tịch ASEAN, Việt Nam sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các nước ASEAN khác triển khai Kế hoạch Hành động Chiến lược AEC 2025 (SAP); thống nhất các nội dung còn vướng mắc trên cơ sở đảm bảo Hiệp định RCEP mang lại kết quả cân bằng về lợi ích, có tính đến sự chênh lệch về trình độ phát triển của tất cả các nước và đề nghị các nước đối tác của ASEAN điều chỉnh tham vọng xuống mức khả thi cho tất cả các bên nhằm kết thúc đàm phán hiệp định này trong năm 2018; phối hợp với các nước ASEAN tiếp tục rà soát, thực thi cam kết trong các FTA ASEAN+1, trong đó có việc rà soát Hiệp định AANZFTA giai đoạn hai và tích cực thực hiện các chương trình làm việc/hợp tác với các đối tác khác của ASEAN. Trong năm 2018, Việt Nam cũng sẽ đảm nhiệm vai trò chủ tịch Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế CLMV lần thứ 10 được tổ chức bên lề Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN tại Xinh-ga-po.

Theo số liệu của Bộ Công Thương, trong thời điểm 6 tháng đầu năm 2018, mức độ tận dụng C/O ưu đãi trong xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam đối với các FTA ASEAN và ASEAN cộng ở mức độ trung bình với Trung Quốc (23%), Nhật Bản (29%), mức độ khá với Ôt-xtrây-lia- Niu Di-lân (30%), ASEAN (33%), Hàn Quốc (33%) và ở mức độ tốt với Ấn Độ (44%). Về phía doanh nghiệp của ta, các doanh nghiệp FDI và các tập đoàn lớn có xu hướng vận dụng ưu đãi tốt hơn doanh nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Xét từ góc độ ngành, các ngành dệt may, da giày, cơ khí, nông sản chế biến vận dụng ưu đãi tương đối tốt để xuất khẩu.

Quá trình hội nhập ASEAN của Việt Nam đã được triển khai hiệu quả, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong hơn 20 năm qua. Tuy nhiên, để tận dụng tốt các cơ hội của việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN đến năm 2025 và đảm bảo ta có thể hội nhập một cách chủ động, tích cực và phù hợp với lợi ích của cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình cạnh khu vực và quốc tế, khai thác tốt hơn các ưu đãi trong các FTA trong khuôn khổ ASEAN; các doanh nghiệp Việt Nam cần cải thiện năng lực cạnh tranh, tìm ra cơ cấu sản phẩm hợp lý và nâng cao nhận thức về quyền lợi và nghĩa vụ của Việt Nam khi tham gia các FTA. Các Bộ, ngành trong hội nhập kinh tế ASEAN cần nâng cao hiệu quả công tác điều phối, phối hợp; cải tiến cơ chế tham gia các cuộc họp cấp kỹ thuật trong ASEAN để tiết kiệm nguồn lực và ngân sách; cũng như xác định chủ trương về vấn đề đối xử đặc biệt và khác biệt trong đàm phán các FTA trong giai đoạn từ năm 2018 trở đi.

Nhớ tick mình nhé. Chúc bạn học tốt!

Bình luận (0)
ʚƘεŋşɦїŋ ℌїɱʉɾαɞ‏
Xem chi tiết
Milly BLINK ARMY 97
28 tháng 10 2021 lúc 21:36

- Các ngành khoa học xã hội nước ta thời kì này đều phát triển rất rực rỡ như là việc chế tạo ra máy xẻ gỗ chạy bằng sức nước, tàu thủy chạy bằng máy hơi nước,...

- Có sự tiếp nhận, giao lưu với các nước phương Tây về những kĩ thuật hiện đại (Ví dụ: Thợ thủ công Nguyễn Văn Tú học được nghề làm đồng hồ và kính thiên lí sau 2 năm sống ở Hà Lan).

- Phản ánh trí tuệ thông minh, tài năng sáng tạo của người thợ thủ công nước ta bấy giờ như việc vận dụng thành công những kĩ thuật hiện đại nhất trên thế giới lúc bấy giờ.

(Tham khảo)

Bình luận (0)