Ngô Võ Kim Cương

Phân tích tác phẩm "Bình Ngô Đại cáo" - Nguyễn Trãi

Linh Phương
1 tháng 10 2016 lúc 16:56

Bình ngô đại cáo là bản báo cáo lớn, công bố rộng khắp cho mọi người biết về việc dẹp yên giặc Ngô, khẳng định chủ quyền của dân tộc và tương lai của đất nước. Bởi vậy, nó được coi là một bản tuyên ngôn độc lập.

 

Như chúng ta đều biết, sau một thời gian cầm sự để xây dựng lực lượng (1418- 1423), nghĩa quân Lam Sơn đã chuyển sang thời kì phản công. Đến mùa đông 1427, sau khi đập tan mười năm vạn quân tiếp viện của giặc minh, nước ta hoàn toàn được giải phóng. Đầu năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế đặt tên hiệu là Thuận Thiên (hợp lòng trời) và cử Nguyễn Trãi soạn bài cáo để tuyên bố cho toàn dân biết cuộc kháng chiến chống giặc Minh đã thắng lợi rực rỡ, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn xây dựng hoà bình. Như vậy, bài cáo trong lúc toàn quân, toàn dân đang hân hoan chào đón chiến thắng sau 10 năm chiến đấu gian khổ, anh dũng.

Trước hết, Bình ngô đai cáo là một luận văn chính trị tổng kết chặt chẽ, súc tích- về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, dựa trên tư tưởng yêu nước thiết tha và sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về nhân dân và dân tộc. Bao trùm bài cáo là niềm tự hào vô biên trước thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến, của khí phách của dân tộc Việt Nam.



 

Bình luận (0)
Đạt Trần
3 tháng 3 2018 lúc 20:24

Mùa xuân năm 1428, sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược, Nguyễn Trãi thay Bình Định Vương Lê Lợi thảo bản “Cáo Bình Ngô” để tuyên bố sự thắng lợi của dân tộc. Bài cáo đã khẳng định chủ quyền, độc lập, tự tôn dân tộc rất rõ ràng, khí thế cà được coi là bản tuyên ngôn đọc lập thứ hai của dân tộc sau “Sông núi nước Nam” của Lý Thường Kiệt.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Điều đầu tiên mà Nguyễn Trãi nhắc tới ở bài cáo là tư tưởng “nhân nghĩa”. Nhân nghĩa là lễ nghĩa, nghĩa tình của một con người, nâng lên thành tư tưởng chính là cách đối nhân xử thế của một con người thực thụ, mà ở đây là cốt ở “yên dân”. Đây được coi là một tư tưởng mới, thấm nhuần nội dung tiến bộ của đạo Nho gia, đó là lấy dân làm gốc. Hơn ai hết, ông hiểu rằng, không gì quan trọng hơn là lo cho nhân dân một cuộc sống âm no, yên ổn. Bởi nhân dân chính là cái gốc của một dân tộc, một dân tộc không có dân thì không gọi là dân tộc, nhân dân sẽ là yếu tố quyết định số phận cả một dân tộc: “Đẩy thuyền là dân, Lật thuyền là dân”. Xuất phát từ tư tưởng ấy, mọi hành động đều là vì sự no ấm của dân, mà muốn dân yên ổn, phải trừ được bạo tàn chính là bè lũ bán nước và cướp nước. Phải dẹp gọn giặc xâm lăm, nhân dân mới được hưởng thái bình, sung túc. Tư tưởng ấy không chỉ còn là tư tưởng đạo đức mà đã nâng lên thành chân lí bất di bất dịch. Từ đó, ông đưa ra nhân nghĩa còn gắn với bảo vệ độc lập, khẳng định chủ quyền dân tộc:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên đế một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Nếu Lý Thường Kiệt khẳng định sự độc tôn dân tộc bằng sách trời thì Nguyễn Trãi đã khẳng định nước Đại Việt ta là một nước hoàn toàn độc lập, tự chủ với một nền văn hiến và có lãnh thổ riêng. Chúng ta và phương Bắc khác nhau về những phong tục, tập quán, văn hóa truyền thống và có cả lịch sử, nhân tài. Núi sông bờ cõi cũng đánh dấu rõ ràng ranh giới lãnh thổ, không cớ gì chúng nhận nước ta là một phần của chúng. Phương Bắc có chúa, Đại Việt cũng có vua, từng thời điểm lịch sử qua cũng có những thời đại riêng sánh ngang với những thời đjai lướn ở phương Bắc. Một đất nước có đủ mọi phương diện về văn hiến và lãnh thổ, chính là một đất nước độc lập không thể chối cãi, chính vì vậy, việc xâm lược của các nước phương Bắc đối với Đại Việt là sai trái, trái với nhân nghĩa.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.
Ông còn tự hào chỉ ra rõ ràng những tên tuổi, địa danh, những vết tích ô nhục của quân địch phải chịu khi xâm lược vào bờ cõi nước ta, lịch sử về việc chúng thạm bại dưới gươm chính nghĩa của nhân dân Đại Việt vẫn còn đó, chứng ứ còn rõ ràng hơn ban ngày. Điều đó đã khẳng định chúng là quân hiểm ác nhất định sẽ thất bại dưới chúng ta. Vậy mà, chúng vẫn không chịu đầu hàng:
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
Rồi, nhân đó, ông chỉ ra những nỗi khổ mà nhân dân phải chịu đựng khi chính sự rối ren:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trờị
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa?
Ông gọi nhân dân là “dân đen, con đỏ” thể hiện sự thương yêu, xót xa khôn cùng. Ông vạch ra tội ác của bọn xâm lăng, đi đến đâu là vùi chôn nhân dân trong lửa, trong máu, những việc tàn nhẫn như chôn sống, dối lừa, bắt thuế, bắt người xuống biển đi mò sản vật, lên rừng săn quý hiếm,… Những việc làm của chúng làm cho nhân dân không những không thể sống yên ổn mà còn chịu biết bao khổ sợ đau đớn, người mất mạn vô số, kẻ lầm than ở khắp nơi. Trong mắt nhân dân chúng chỉ như những con quỷ khát máu khát thịt lúc nào cũng nhe nanh đòi máu, đì mỡ, là những kẻ tội đồ mà:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Những cụm từ được đặt lên đầu câu nhấn mạnh vào sự căm hờn vô tả của Nguyễn Trãi đối với tội ác của bọn xâm lăng, những tội ác ấy không sao kể xuể, không gì rửa sạch được, không có ngòi bút nào kể hết, không nước ở đâu rửa sạch được máu mà chúng ta ấy lên đất Đại Việt. Sự tàn nhân và tội ác mà chúng để lại cho dân tộc ta đã chất nhiều vô kể, khiến cho:
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;
Những lời sau là Nguyễn Trãi nói thay lời Lê Lợi:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Ở đoạn này, Nguyễn Trãi tập trung chủ yếu vào việc miêu tả hình ảnh của Lê Lợi. Bắt đầu từ lòng căm thù đối với bè lũ bán nước và cướp nước khiến cho nhân dân ta lầm than, đến việc quyết định dấy binh khởi nghĩa, chịu bao nhiêu khó khăn nhưng vẫn kiên trì theo đuổi, bao nhiêu đêm trằn trọc, mất ngủ cũng đều là vì việc quân việc nước. Đúng là một chủ tướng vừa có tâm vừa có tài, hết lòng vì đại cuộc, với nhân dân lúc này chính là cần một người thủ lĩnh như vậy để dẫn dắt họ đứng lên đấu tranh đánh đuổi những tên xấu xa ra khỏi đất nước, giữ yên bờ cõi, giữ yên cuộc sống yên ổn, ấm no.

Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước,
Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền,
Thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Tình thần thì kì vĩ nhưng khó khăn cũng không kém đồ sộ. Buổi đầu của cuộc kháng chiến gặp rất nhiều khó khăn, vất vả, không thể chiêu dụ người tài, đất nước lại đang nhiều khó khăn, quân địch thì đang lúc mạnh nhất, khó đủ mọi bề. Nhưng nhờ vào sự đoàn kết của binh lính, coi nhau như ruột thịt, dốc lòng vì cuộc kháng chiến nên bao trận chiến ác liệt nổ ra, dân ta lấy ích địch nhiều nhưng lòng vẫn hồ hởi tự tin vào chiến thắng cuối cùng.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạọ
Dân ta chính là đại nghĩa, bọn xâm lược chính là hung tàn, câu thơ đối cực hay làm nổi bật sự khác biệt giữa ta và địch, đó chính là lí do, ta tất thắng. Vì thế mà những trận đánh trở nên ngày càng quyết liệt, hăng say:
Sĩ khí đã hăng quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy,
Mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh
Mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
Lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người,
Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc,
Để cười cho tất cả thế gian.
Những trận đánh quyết liệt được chỉ ra hết sức tự hào, thể hiện chí khí ngút trời và tinh thần không chịu lui của quân và dân. Nhưng quân ta càng mưu trí, hãnh diện bao nhiêu, lú cướp nước càng đê hèn bấy nhiêu;
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín,
Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười,
Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm,
Chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường
Tuyệt nguồn lương thực
Rồi những chiến thắng đến bắt đầu dồn dập nhưu vũ báo, báo hiệu sự toàn thắng của quân và dân ta:
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Tiếp đó, Nguyễn trãi chuyển bài cáo sang không khí trận mạc, qua đó ta thấy được hình ảnh oai dũng của quân và dân ta trên chiến trường, đánh cho quân giặc không còn manh giáp:
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.

Vì thế mà chiến công hiển hách vang dội chất đầy như núi, thảm bại của giặc không kể sao cho xiết:
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật
Toàn những kẻ tham sống sợ chết, đê hèn bị ổi, xin hàng trong sự thất bại ê chề, vì nhân nghĩa, quân và dân ta dùng lòng nhân đạo để bao dung kẻ vô nhân. Kể từ ấy, chúng ta yên tâm vì:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Đất nước từ nay bước sang một trang mới, thời kì của đọc lập, tự chủ, của ấm no, hạnh phúc, không còn đâu những cảnh đau thương tan tác, mặt trời như đã tỏ rạng khắp giang sơn. Cuối cùng, Nguyễn Trãi nhắn đến cha ông ta như một sự biết ơn:
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Bài cáo có giá trị lớn lao, không chỉ thể hiện độc lập, chủ quyền dân tộc trong niềm tự tôn mà còn là tiếng nói yêu nước, yêu dân, tinh thần nhân nghĩa, ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm của con dân Đại Việt.

Bình luận (0)
Ngô Thị Thu Trang
3 tháng 3 2018 lúc 20:34

DÀN Ý

1. Mở bài:

- Sau khi nghĩa quân Lam Sơn tiêu diệt và làm tan rã mười lăm vạn viện binh của quân Minh, cuộc kháng chiến của quân dân Đại Việt đã hoàn toàn thắng lợi, chấm dứt hai mươi năm ròng rã phải chịu đựng thảm khốc dưới ách cai trị tàn bạo của quân xâm lược.

- Thừa lệnh của chủ soái Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã viết Đại cáo bình Ngô đổ tổng kế cuộc kháng chiến vĩ đại, báo cáo rộng rãi cho toàn thể nhân dân được biết.

- Với nghệ thuật chính luận hùng hồn và cảm hứng trữ tình sâu sắc, tác giả đã tố cáo tội ác tày trời của giặc Minh, đồng thời ca ngợi sức mạnh thần kì của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

2. Thân bài:

* Bố cục bài văn gồm 5 đoạn:

+ Đoạn 1: "Từ đầu... đến Chứng cớ còn ghi": Khẳng định tư tưởng nhân nghĩa và chân lí về chủ quyền độc lập của quốc gia Đại Việt.

+ Đoạn 2: Từ "Vừa rồi... đến Ai bảo thần nhân chịu được?": Tố cáo và kết án tội ác tày trời của giặc Minh.

+ Đoạn 3: Từ "Ta đây... đến Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều": Hình ảnh của vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn và những khó khăn trong buổi đầu dấy nghiệp.

+ Đoạn 4: Từ Trọn hay... Cũng là chưa thấy xưa nay: Quá trình mười năm kháng chiến và thắng lợi vẻ vang.

+ Đoạn 5: Phần còn lại: Khẳng định ý nghĩa to lớn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và lời tuyên bố hoà bình.

* Nội dung bài Đại cáo bình Ngô

+ Nguyên lí chính nghĩa của Nguyễn Trãi:

- Bài cáo mở đầu bằng nguyên lí chính nghĩa dựa trên nền tảng là tư tưởng thần dân mà Nguyễn Trãi rất coi trọng:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

- Nhân nghĩa là mối quan hệ giữa con người với con người được xây dựng trên nền tảng tình thương và đạo lí. Theo Nguyễn Trãi, trước hết muốn yên dân thì phải lo trừ bạo để cho dân được sống thanh bình, hạnh phúc. Cứu nước tức cứu dân bởi nước với dân là một.

- Tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với sự nghiệp chống xâm lược. Phân định rạch ròi ta là chính nghĩa, giặc là phi nghĩa. Chiến đấu chống xâm lược là phù hợp với đạo lí nhân nghĩa.

- Bằng giọng văn hào hùng, Nguyễn Trãi đã thể hiện lòng tự hào, tự tôn về truyền thống văn hiến lâu đời của dân tộc ta. Quốc gia Đại Việt có cương vực, ranh giới rõ ràng, có phong tục tập quán riêng, từ lâu đời đã tồn tại song song với các quốc gia phương Bắc. Các triều đại vua nước Nam xưng đế, hùng cứ một phương, chứ không phải là chư hầu. Tư cách độc lập, chủ quyền quốc gia của dân tộc Đại Việt là một chân lí tất nhiên, không có bạo lực nào xâm phạm nổi.

- Tác giả đã chứng minh cho đạo lí nhân nghĩa bằng chính những thất bại thảm hại của Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã Nhi (các tướng giặc). Đồng thời khẳng định chiến thắng luôn đứng về phía những người đấu tranh bảo vệ chính nghĩa.

+ Tố cáo tội ác dã man của giặc Minh:

- Trước hết, tác giả vạch trần âm mưu xâm lược, sau đó lên án chủ trương cai trị thâm độc và cuối cùng là đanh thép tố cáo tội ác của giặc Minh.

- Nguyễn Trãi vạch trần âm mưu cướp nước đã có từ lâu, vạch trần luận điệu bịp bợm “phù Trần diệt Hồ", để "mượn gió bẻ măng" cướp đất nước ta của chúng.

- Nguyễn Trãi không tố cáo chủ trương đồng hoá thâm độc mà tố cáo chính sách cai trị hà khắc, tham tàn của giặc Minh: Vơ vét sản vật quý báu, bóc lột sức người, sức của bằng thuế má, phu phen, dâng nạp cống vật và huỷ hoại môi trường sống, tàn sát dân chúng vô tội không biết ghê tay.

- Tội ác chất chồng của giặc Minh và khối căm hờn chất chứa của nhân dân ta đã được Nguyễn Trãi đúc kết bằng hai câu văn mang ý nghĩa khái quát rất cao:

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Tác giả đã lấy cái vô hạn (trúc Nam Sơn) để so sánh với cái vô hạn (tội ác của giặc); lấy cái vô cùng (nước Đông Hải) so sánh với cái vô cùng (sự dơ bẩn của giặc). Câu văn đầy tính hình tượng khắc hoạ và nhấn mạnh tội ác của quân thù; đồng thời thể hiện thái độ căm phẫn và khinh bỉ của tác giả.

+ Hình ảnh vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn vả những khó khăn trong buổi đầu dấy nghiệp:

- Hình tượng lãnh tụ Lê Lợi chủ yếu được khắc hoạ trong những ngày đấu dấy nghiệp đầy gian khổ. Trong hình tượng Lê Lợi có sự thống nhất, hòa hợp giữa con người bình thường và thủ lĩnh nghĩa quân, ông xứng đáng là linh hồn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Qua hình tượng Lê Lợi, Nguyễn Trãi nói lên tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa chống quân Minh.

- Những ngày đầu khởi nghiệp đầy gian nan, vất vả bởi sự chênh lệch quá lớn trong mối tương quan giữa ta và địch. Cuộc khởi nghĩa đã vượt qua những khó khăn, thử thách và ngày càng lớn mạnh, đủ sức tổng phản công giành thắng lợi.

- Lê Lợi thể hiện rất rõ vai trò của một bậc minh chủ. Trong tâm trí ông luôn canh cánh mối lo đánh đuổi giặc thù để cứu nước, cứu dân thoát khỏi ách nô lệ lầm than. Lê Lợi tự tin, tự nguyện đặt vận mệnh của quốc gia, dân tộc lên vai mình. Nhiệt huyết cứu nước đã trở thành hoài bão cao đẹp của ông. Tài năng của Lê Lợi thể hiện qua ý chí, quyết tâm kháng chiến và ông đã tìm được con đường cứu nước đúng đắn.

+ Nguyên nhân dẫn tới thành công của sự nghiệp cứu nước:

- Trước hết, nghĩa quân có sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa, của ý thức dân tộc, của mục đích chiến đấu là nhằm mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ nền độc lập và truyền thống văn hiến lâu đời của quốc gia Đại Việt. Sau đó, yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa là tài trí mưu lược, phẩm chất anh hùng của chủ tướng Lê Lợi.

- Là truyền thống đoàn kết trên dưới một lòng; là chiến lược đánh giặc vô cùng linh hoạt và hiệu quả của nghĩa quân.

- Tài năng của Lê Lợi thể hiện qua ý chí, quyết tâm đánh giặc cứu nước, qua thái độ trân trọng và sử dụng người tài, khả năng thu phục nhân tâm và tài thao lược xuất sắc, đưa ra đường lối kháng chiến sáng suốt và đúng đắn. Lê Lợi đã dùng chiến lược trường kì kháng chiến, lấy thời gian ủng hộ mình. Trong quân sự, lúc đầu ông dùng chiến thuật lấy "đoản binh” chống "trường trận". Đánh mai phục, đánh bất ngờ, dựa vào địa thế núi sống hiểm trở, dựa vào lòng dân tận tình giúp đỡ.

+ Quá trình kháng chiến gian khổ và thắng lợi vẻ vang:

- Nguyễn Trãi đã vẽ nên toàn cảnh về những ngày tháng cả dân tộc Đại Việt sống trong không khí chiến đấu sôi sục, khẩn trương. Khi tái hiện giai đoạn hai của cuộc kháng chiến, tác giả hào hứng miêu tả khí thế đạp trên đầu thú của nghĩa quân và sự thất bại thảm hại của giặc Minh xâm lược. Thông qua đó khẳng định tính chất chính nghĩa và truyền thống nhân đạo sáng ngời của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

- Trong đoạn văn này, từ hình tượng đến ngôn ngữ, từ màu sắc tới âm thanh, nhịp điệu đều mang đậm tính chất anh hùng ca. Độ dài ngắn khác nhau của các câu văn và hàng loạt hình ảnh so sánh được tác giả vận dụng rất linh hoạt nhằm đặc tả khí thế tấn công như vũ bão của quân ta.

- Thất bại không thể tránh khỏi của giặc cũng được tác giả khắc hoạ tài tình bằng thủ pháp liệt kê chính xác.

- Truyền thống nhân nghĩa và tư tưởng hoà bình của dân tộc Đại Việt được thể hiện rất rõ trong đoạn này. Giặc đại bại, thể lòng trời ta mở đường hiểu sinh, cấp thuyền, cấp ngựa cho chúng về nước. Thế của ta là thế của người chiến thắng:

Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng;

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.

- Đây cũng là tầm nhìn chiến lược sáng suốt của Lê Lợi, tạo cơ sở cho một nền hoà bình lâu dài giữa hai nước. Nguyễn Trãi khẳng định:

Chẳng những mưu kế kì diệu,

Cũng là chưa thấy xưa nay.

+ Ý nghĩa to lớn của cuộc kháng chiến và lời tuyên bố hoà bình:

- Trong đoạn kết của bài cáo, Nguyễn Trãi thay mặt chủ tướng Lê Lợi trịnh trọng tuyên bố: Chủ quyền độc lập của quốc gia Đại Việt đã được lập lại, một thời kì mới của lịch sử đã được mở ra:

Xã tắc từ đây vững bền,

Giang sơn từ đây đổi mới.

- Niềm vui to lớn này là kết quả tất yếu của bao nhiêu gian khổ, hi sinh xương máu, của bao nhiêu chiến thắng của quân dân Đại Việt:

Kiền khôn bĩ rồi lại thái,

Nhật nguyệt hối rồi lại minh.

Muôn thuở nền thái bình vững chắc,

Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.

....

Xa gần bá cáo,

Ai nấy đều hay.

- Trong lời tuyên bố kết thúc chiến tranh, cảm hứng của Nguyễn Trãi về nền độc lập dân tộc và tương lai tươi sáng của đất nước đã hòa quyện với niềm tin vào quy luật vận động tất yếu của lịch sử. Nguyễn Trãi cũng đã thể hiện quyết tâm xây dựng nền thái bình muôn thuở của nhân dân Đại Việt.

3. Kết bài:

- Bài Đại cao bình Ngô có sự thống nhất hài hoà giữa yếu tố chính luận và yếu tố nghệ thuật, nhằm tổng kết cuộc kháng chiến vô cùng gian lao và tuyệt vời anh dũng của quân dân Đại Việt chống giặc Minh xâm lược.

- Kiệt tác này là niềm tự hào vô biên của dân tộc bởi nó truyền lại cho muôn đời con cháu về tình yêu nước, thương dân, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, tư tưởng nhân nghĩa, hòa bình...

- Bài cáo tuy lấy lời Lê Lợi nhưng đó là tư tưởng, tình cảm, cuộc sống, máu xương của chính bản thân Nguyễn Trãi. Trên cơ sở chân lí chính nghĩa tất thắng. Nguyễn Trãi đã viết nên áng "thiên cổ hùng văn", giống như một tượng đài chiến thắng hoành tráng, cao vút giữa bầu trời nước Việt.

Bình luận (0)
Phạm Thu Thủy
4 tháng 3 2018 lúc 9:35

Trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, Nguyễn Trãi đã ghi dấu tên mình như một nhà tư tưởng kiệt xuất, nhà chính trị lỗi lạc. Không chỉ vậy, ông còn là một nhà thơ, nhà văn vĩ đại. Nổi bật trong gia tài văn học của Nguyễn Trãi là những áng văn chính luận kết hợp hài hòa giữa tư tưởng chính nghĩa, lòng yêu nước thương dân với lập luận sắc sảo, chặt chẽ, giọng văn hùng hồn. Bình ngô đại cáo là tác phẩm thể hiện rõ nhất tài năng cũng như tấm lòng nhân đạo của ông.

Bình Ngô đại cáo ra đời sau khi cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược hoàn toàn thắng lợi. Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Nhân nghĩa vốn là một phạm trù tư tưởng của Nho giáo, chỉ mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí. Nguyễn Trãi đã chắt lọc lấy hạt nhân căn bản của tư tưởng nhân nghĩa: nhân nghĩa chủ yếu để yên dân, đồng thời phát huy truyền thống tốt đẹp của người Việt, đem đến nội dung mới cho nhân nghĩa: nhân nghĩa là yên dân trừ bạo. Đó là cơ sở để bóc trần giọng điệu xảo trá của giặc Minh, đồng thời khẳng định lập trường chính nghĩa của quân ta và tính chất xâm lược phi nghĩa của kẻ thù. Không những thế, nhân nghĩa còn gắn với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, giữ gìn độc lập dân tộc:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có”

Nguyễn Trãi đã khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của dân tộc ta. Với cảm hứng yêu nước, Nguyễn Trãi đã nói về độc lập dân tộc rất cụ thể: nước Đại Việt ta có cương vực lãnh thổ, có lịch sử, có nền văn hiến lâu đời, có lịch sử riêng, có chế độ riêng, có người hiền tài. Giọng điệu trang trọng, vang lên đầy kiêu hãnh, tự hào. Các từ ngữ: “từ trước”, “đã lâu”, “vốn xưng”, “đã chia”, “cũng khác” cho thấy sự tồn tại hiển nhiên, vốn có lâu đời của một đất nước Đại Việt độc lập, có chủ quyền và văn hiến. So với Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, ý thức độc lập dân tộc của Bình Ngô đại cáo toàn diện và sâu sắc hơn. Lý Thường Kiệt mới chỉ xác lập địa vị dân tộc ở hai phương diện lãnh thổ và chủ quyền. Nguyễn Trãi xác định dân tộc ở nhiều phương diện: lãnh thổ, lịch sử, văn hóa, văn hiến, con người. Lý Thường Kiệt căn cứ vào thiên thư- yếu tố tâm linh chứ không phải thực tiễn lịch sử. Nguyễn Trãi ý thức rõ và đề cao những yếu tố thực tiễn, căn bản nhất để làm nên một quốc gia độc lập. Tiếp theo, ông nêu ra những cuộc chiến trước đây với phương Bắc trong lịch sử mà chúng đều thất bại:

“Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi”

Soi chiếu luận đề chính nghĩa vào thực tiễn lịch sử, tác giả nêu lên bản cáo trạng đanh thép về tội ác của quân thù:
“Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ;
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những núi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?”

Phù Trần diệt Hồ chỉ là bức bình phong giặc để Minh lừa dối thiên hạ. Mục đích của chúng là lợi dụng tình hình chính trị bất ổn để thực hiện âm mưu xâm lược nước ta. Ngay sau đó là những câu văn thấm đẫm nước mắt và sự thương xót. Nguyễn Trãi đã phác họa bức tranh khổ cực của nhân dân ta khi giặc Minh xâm chiếm: kẻ lên núi tìm vàng, người xuống biển mò ngọc, tình cảnh chia lìa nheo nhóc, khốn cùng, vợ mất chống, con mất cha, gia đình li tán, dân tình bị đẩy vào cảnh phu phen, tàn hại cả môi trường sống. Hình ảnh nhân dân hiện lên tội nghiệp, đáng thương, khốn khổ, trong khi đó hình ảnh kẻ thù tàn bạo, vô nhân tính như những tên ác quỷ. Bằng biện pháp nói quá, tội ác của quân thù được khắc họa trong hai câu thơ giàu sức gợi: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội/Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”. Giọng điệu vừa uất hận sôi trào, vừa cảm thương tha thiết. Đau xót và căm thù tội ác trời không dung, đất không tha của quân giặc, nhân dân Đại Việt đã đồng lòng đứng dậy:
“Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:

Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Trọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tuỵ Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ

Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay”

Đoạn văn khắc họa hình tượng người chủ tướng Lê Lợi và những năm tháng gian khổ ban đầu của khởi nghĩa Lam Sơn. Hình tượng Lê Lợi được miêu tả bằng bút pháp tự sự kết hợp trữ tình: cách xưng hô khiêm nhường, nguồn gốc xuất thân cũng là chốn hoang dã nương mình cho đến địa bàn đóng quân hẻo lánh. Thế nhưng, người anh hùng áo vải lại có những phẩm chất đáng quý: lòng căm thù giặc sâu sắc, ý chí hoài bão lớn lao, quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc. Cuộc khởi nghĩa được tiến hành trong hoàn cảnh vô cùng gian khổ, khan hiếm lương thực, thế và lực không cân xứng, thiếu nhân tài hào kiệt. Nhưng, nhờ ý chí khắc phục gian nan, sức mạnh đoàn kết, tư tưởng chính nghĩa, sử dụng chiến lược, chiến thuật linh hoạt, quân và dân ta đã giành được nhiều thắng lợi. Ở đây, Nguyễn Trãi đã đề cao tính chất nhân dân, tính chất toàn dân, đặc biệt đề cao vai trò của những người dân nghèo, địa vị thấp hèn. Đó là tư tưởng lớn, tiến bộ trước đó chưa từng có và mãi đến thế kỉ 19 mới được Nguyễn Đình Chiểu tiếp tục ca ngợi. Quá trình phản công và chiến thắng của quân ta được miêu tả hết sức sinh động bằng những hình ảnh có tính phóng đại, giọng văn sôi nổi, hào hùng diễn tả những chiến thắng dồn dập, liên tiếp cùng sự thất bại thảm hại của kẻ thù. Tình yêu hòa bình, tư tưởng nhân nghĩa yên dân- trừ bạo tiếp tục được khẳng định và sâu sắc hơn nữa.

Kết thúc bài cáo là lời tuyên bố thắng trận, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa và nêu lên bài học lịch sử:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;

Than ôi!

Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.

Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay”.
Bằng giọng văn trang nghiêm, trịnh trọng, bài cáo khẳng định, tuyên bố với toàn dân về nền độc lập dân tộc, chủ quyền đất nước đã được lặp lại, đồng thời nêu lên bài học lịch sử: sự thay đổi thực chất là sự phục hưng dân tộc, là nguyên nhân, là điều kiện đề thiết lập sự vững bền. Có được thành quả như vậy là nhờ sự kết hợp giữa sức mạnh truyền thống và sức mạnh thời đại được phát huy cùng với sức mạnh chính nghĩa. Nguyễn Trãi còn sáng suốt nhìn ra con đường đi cho dân tộc khi đặt ra vấn đề phải đổi mới để đất nước được vững bền.

Bình Ngô đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc ta. Tác phẩm đã nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, chân lí độc lập dân tộc, tố cáo tội ác của kẻ thù, tái hiện quá trình kháng chiến hào hùng và tuyên bố độc lập, rút ra bài học lịch sử. Bình Ngô đại cáo còn là áng thiên cổ hùng văn, mang đậm cảm hứng anh hùng ca, kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận sắc bén và văn chương trữ tình.

Cho dù đã trải qua hàng mấy thế kỉ, đến ngày nay, Bình Ngô đại cáo vẫn giữ nguyên được giá trị tư tưởng vượt tầm thời đại của nó. Tác phẩm đã giúp người đọc hình dung ra một trang vàng son trong lịch sử dân tộc, khơi dậy tình yêu nước và tự hào dân tộc ở mỗi con người.

Bình luận (0)
Yu Ri Na
4 tháng 3 2018 lúc 11:59

Bình ngô đại cáo là bản báo cáo lớn, công bố rộng khắp cho mọi người biết về việc dẹp yên giặc Ngô, khẳng định chủ quyền của dân tộc và tương lai của đất nước. Bởi vậy, nó được coi là một bản tuyên ngôn độc lập.

Như chúng ta đều biết, sau một thời gian cầm sự để xây dựng lực lượng (1418- 1423), nghĩa quân Lam Sơn đã chuyển sang thời kì phản công. Đến mùa đông 1427, sau khi đập tan mười năm vạn quân tiếp viện của giặc minh, nước ta hoàn toàn được giải phóng. Đầu năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế đặt tên hiệu là Thuận Thiên (hợp lòng trời) và cử Nguyễn Trãi soạn bài cáo để tuyên bố cho toàn dân biết cuộc kháng chiến chống giặc Minh đã thắng lợi rực rỡ, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn xây dựng hoà bình. Như vậy, bài cáo trong lúc toàn quân, toàn dân đang hân hoan chào đón chiến thắng sau 10 năm chiến đấu gian khổ, anh dũng.

Trước hết, Bình ngô đai cáo là một luận văn chính trị tổng kết chặt chẽ, súc tích- về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, dựa trên tư tưởng yêu nước thiết tha và sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về nhân dân và dân tộc. Bao trùm bài cáo là niềm tự hào vô biên trước thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến, của khí phách của dân tộc Việt Nam.

Nhìn đại thể, Bình Ngô đại cáo có thể chia làm bốn phần:

Phần 1. Khẳng định lí tưởng nhân nghĩa của cuộc kháng chiến và truyền thấng bất khuất của dân tộc (từ đầu đến chứng cứ còn ghi…)

Phần 2. Tố cáo tội ác của bọn cướp nước lợi dụng hoàn cảnh rối ren của nước ta, đưa quân sang xâm lược và gây ra bao đau khổ cho nhân dân (tiếp theo đến ai bảo thần dân chịu được…).

Phần 3. Mô tả quá trình khởi nghĩa Lam Sơn, mục đích của cuộc chiến đấu. Những khó khăn ban đầu (quá trình chiến đấu), những chiến công hiểu hách của nghĩa quân chấm dứt ách nô lệ (tiếp theo đến củng là chưa thấy xưa nay).

Phần 4. Lời tuyên bố kết thúc, chiến tranh khẳng định tư thế dân tộc và khát vọng xây dựng đất nước muôn thưở phồn vinh (tiếp theo đến hết).

Ở phần thứ nhất, trước hết Bình Ngô đại cáo khẳng định lí tưởng của cuộc kháng chiến việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Đánh giặc chính là nhân nghĩa. Tiếp theo, Nguyễn Trãi khẳng định Việt Nam là một quốc gia văn hiến từ bao đời đã sánh vai với cường quốc Trung Hoa về nhiều phương diện. Nội dung nói trên được tác giả biểu đạt bằng những câu văn sang trọng, đĩnh đạc gợi không khí trang nghiêm lịch sử.

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương

Ở đây, nổi bật là việc nhấn mạnh đến tư tưởng nhân nghĩa của Cuộc kháng chiến và tư thế độc lập của dân tộc. Nhân nghĩa gắn liền với việc yên dân. Nguyễn Trãi quan tâm trước hết đến đời sông nhân dân, đến hạnh phúc cùa mọi người. Đây chính là tư tưởng lớn và tiến bộ của Nguyễn Trải, làm nền tổng cho cả bài cáo. Để nêu bật tư thế độc lập tự cường của dân tộc, Nguyễn Trái đã sử dụng cách diễn đạt sóng đôi. Đại Việt và Trung Hoa đã bao đời song song tồn tại. Mỗi nước một bờ cõi, mỗi nước một phong tục với những triều đại khác nhau. Vì là nước văn hiến lâu đời nên người tài giỏi của Đại Việt thời nào cũng có, giặc đến thời nào cũng thất bại. Nội dung ấy được diễn đạt bằng những vế rất đăng đối. Tuy vậy nếu để ý ta thấy tư thế cân bằng, tác giả dường như ngày càng muôn đặt nặng đồng cân hơn về phía Đại Việt với những chiến công huy hoàng (Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô- Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã). Do đó, có thể nói ở phần 1 này, Nguyễn Trãi vừa thể hiện niềm tin vào cuộc kháng chiến, vừa bộc lộ niềm tự hào trước truyền thông oanh liệt của dân tộc.

Phần thứ 2 của bài cáo là phần luận tội giặc. Lợi dụng việc họ Hồ để mất lòng dân, giặc Minh cấu kết với bọn Vỉệt gian bán nước, điên cuồng sang cướp nước ta, gây ra bao tội ác trời không dung đất không tha:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Đọc lại sử sách cũ, chúng ta có thể thấy hai câu trên hoàn toàn không phải là cách diễn đạt cường điệu mà là sự thật: Giặc Minh hết sức hung tàn, chúng thường rút ruột người treo lên cây, nấu xác người lấymỡ thắp đèn, nhiều khi chúng mua vui bằng cách nướng những người dân vô tội. Ngoài ra, bọn giặc đã thực hiện một chế độ sưu thuế cống nạp nặng để vơ vét của cải (Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng – Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc). Do đó, chúng đã gây nên cho nước ta những hậu quả ghê gớm, sản xuất bị đình trệ (tan tác cá nghề canh cửi), môi trường sinh thái bị huỷ hoại nghiêm trọng (tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ), đẩy nhân dân Đại Việt vào tình cảnh thê thảm (nheo nhóc thay kẻ goá bụa khôn cùng) … Tội ác của giặc Minh chồng chất đến dẫu chặt hết tre rừng cũng không ghi hết, khiến cho trời đất không thể dung tha, thần và dân đều không chịu được. Đau xót và căm thù, người dân Đại Việt phải đồng lòng đứng dậy.

Phần thứ 3 thuật lại qua trình của cuộc khởi nghĩa từ khởi đầu đến ngày chiến thắng. Bài cáo nhân danh Lê Lợi: Ta đây, Núi Lam Sơn đấy nghĩa… Những lời tự bạch như phải trải tâm can mình trước thần dân: Đau lòng nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời – … Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh – Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.

Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa thật là đầy khó khăn: quân giặc thì đang hùng mạnh, mà chúng ta mới có ít người, nhân tài thiếu thốn như sao buổi sớm, như lá mùa thu. Có lúc bị bao vây, lương thực cạn kiệt, quân sĩ chẳng con mấy người (khi Linh Sơn, lương hết mấy tuần – khi Khôi Huyện quân không một đội) … Tuy vậy, nhờ bền gan vững chí khắc phục gian nan, nhờ sự chung lưng đấu cật của tướng sĩ, nhờ sự đoàn kết của toàn dân và chiến lược, chiến thuật đứng đắn…, chúng ta đã dần dần xây dựng được lực lượng vững mạnh dẫn tới chiến thắng.

Đoạn tiếp theo, Nguyễn Trãi tập trung lược thuật quá trình chiến thắng. Điều đáng lưu ý, trên thực tế, từ khi dựng cờ khởi nghĩa đến khi toàn thắng, nghĩa quân Lam Sơn đã chiến thắng nhiều trận. Nhưng ở đây, Nguyễn Trãi chỉ tập trung nói đến một số trận tiêu biểu nhất của từng giai đoạn.

Ở giai đoạn mở màn đánh lớn, tác giả nói đến hai trận chiến ác liệt xảy ra tại Bồ Đằng và Trà Lân. Quân giặc hoàn toàn bị bất ngờ, thua chạy liểng xiểng ; quân ta chiến thắng nhanh chóng. Ở đây, Nguyễn Trãi có cách miêu tả rất ngắn gọn nhưng vẫn làm nổi bật lên được cái cốt lõi của hai trận đánh là sự bất ngờ trong việc dừng quân. Do đó, giặc thì hoảng sợ, hoang mang, quân ta thi càng đánh càng mạnh:

Sĩ khí đã hăng

Quân Thanh càng mạnh

Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,

Lí An, Phương Chinh nín thở cầu thoát thân.

Ở giai đoạn hai, quân ta mở chiến dịch Thanh Nghệ để tiến quân ra Bắc. Nguyễn Trãi nói đến hai trận có ý nghĩa chiến lược và đã diễn ra vô cùng ác liệt là trận Ninh Kiều và trận Tốt Động. Giặc thì huy động tổng lục sống chết cố thủ, ta thì quyết chiến quyết thắng ; do đó, trận chiến trở nên cực kì dữ dội. Bằng cách nói cường điệu, Nguyễn Trãi đã khiến người đọc có ấn tựợng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã của giặc Minh:

Ninh Kiều máu chày thành sông, tanh trôi vạn dặm

Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.

Phúc âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.

Mọt gian kẻ thù: Lí Lượng củng đành bỏ mạng.

Ở giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, Nguyễn Trãi tập trung bút lực kể về chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang. Đây là bản hùng ca vang dội nhất của cuộc kháng chiến trường kì. Như vậy mọi người đã biết, lẽ ra sau một loạt chiến bại, giặc Minh phải rút quân, nhưng trái lại, với bản chất ngoan cố, chúng lại cử viện binh hừng hậu chia làm nhiều ngả tiến xuống Đại Việt. Hai tên tướng giỏi chỉ huy hai đạo quân mạnh tạo nên thế gọng kim hòng đè bẹp quân ta:

Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại,

Năm ấy tháng mười, Mộc Thạch chia đường từ Vân Nam tiến sang.

Nhưng ta đã có sự bố phòng chu đáo. Hai gọng kìm của giặc liên tiếp bị bẻ gãy:

Ta trước điều bỉnh thủ hiểm, chặt mũi tên phong.

Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.

Sau đó là những chiến thắng dồn dập. Hơi văn hăm hở như có nhịp thở của người viết, mạch văn dồn đuổi như cố theo kịp bước hành quân thần tốc và những đòn đánh cấp tập của nghĩa quân:

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,

Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu.

Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.

Ngày hai tám, Thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.

Tiếp đó, bài cáo chuyển sang tiếp cận cụ thể cảnh trận mạc. Câu vãn đúc lại, ngắn gọn, đầy hình ảnh thâm xưng phóng đại nhằm cực tả sức mạnh vĩ đại, khí thế áp đảo của quân ta:

Sĩ tốt kén tay hùng hổ,

Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh,

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn

Voi uống nước, nước sông phải cạn,

Đánh một trận, sạch không kình ngạc

Đánh hai trận, tan tác chim muông

Cơn gió to trút sạch lá khô,

Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.

Hình ảnh quân ta càng hừng tráng bao nhiêu, thì hình ảnh quân giặc càng thảm hại bấy nhiêu và từ giọng văn sảng khoái và đầy tự hào tác giả chuyển sang giọng mỉa mai châm biếm đầy khinh bỉ:

Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng,

Thần vũ chẳng giết hại thể lòng trời ta mở đường hiến sinh,

Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể

vẫn hồn bay phách lạc.

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước

mà vẫn tim đập chân run.

Bài cáo kết thúc. Câu văn chuyển sang nhịp khoan thai. Giọng văn hiền hoà tươi vui:

Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới.

Nhưng niềm vui không ồn ào. Tác giả hiểu hơn ai hết cái giá đắt của chiến thắng, và cái ơn rất sâu của đồng bào và của trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ.

Bình ngô đại cáo là quả là một tác phẩm chứa đựng một nội dung lớn, một tư tư tưởng cao, được diễn đạt bằng một áng văn đầy nghệ thuật, đáng được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt. Ra đời trong thời đại Văn, Sử bất phân nên văn bá cáo mà đầy chất văn chương, hình ảnh từng từng lớp lớp, hành văn biến hoá, giọng điệu linh hoạt, diễn đạt tài tình những tình huống khác nhau của cuộc khởi nghĩa, và những cung bậc tình cảm khác nhau của người viết, thật xứng danh một áng thiên cổ hùng văn

Bình luận (0)
Nguyễn Thanh Hà
1 tháng 2 2016 lúc 8:37

Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là ánh văn bất hủ trong lịch sử dân tộc Việt Nam . Đề yêu cầu phân tích tác phẩm để làm sáng tỏ nhận định là một “thiên cổ hùng văn”, tức là yêu cầu một sự phân tích theo hướng, không phải là sự phân tích chung chung .Vì vậy, cần làm rõ về hoàn cảnh sáng tác, bố cục, thể loại, chủ đề của tác phẩm khi phân tích.

1. Hoàn cảnh sáng tác:

     Sau 10 năm kháng chiến gian khổ và quyết liệt, thang 1 năm 1428, nhân dân ta dưới ngọn cờ của Lê Lợi, đã đánh đuổi giặc Minh ra khỏi đất nước.Sau chiến thắng ,Lê Lợi tổ chức phong thưởng cho tướng lĩnh và chính thức lên ngôi hoàng đế. Nguyễn Trãi thay mặt nhà vua viết Bình Ngô đại cáo (Đại cáo bình Ngô) để tuyên bố cho toàn dân biết rõ công cuộc cứu nước, trải qua nhiều nguy nan đã thắng lợi, từ đây dân tộc bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hoà bình, thông nhất.

2. Tựa đề:

    Tác phẩm của Nguyễn Trãi có tên là Đại cáo binh Ngô, nghĩa là tuyên cáo rộng rãi về việc dẹp yên giặc Ngô. Tên Bình Ngô đại cáo là cách đảo lại tựa đề cho ngắn gọn, chứ chưa hẳn là dịch. Chữ Ngô ở đây là cách gọi của người Việt xưa đối với thế lực phong kiến phương bắc,với sắc thái coi khinh. Trong tác phẩm, quân Ngô chính là giặc Minh.

3. Thể loại:

   - Bài văn được viết theo thể cáo, thể văn biền ngẫu, thường ra đời nhằm công bố sự kiện trọng đại của quốc gia hoặc sau một cuộc kháng chiến lâu dài. Đây là văn kiện chính luận , không phải lúc nào ngưòi ta cũng dùng.
   - Kiểu câu trong văn biển ngẫu: Tứ tự, bát tự, song quan, cách cú, gối hạc.

4. Bố cục:

    - Phần 1 (từ đầu đến chứng cớ còn ghi): nêu chính nghĩa của cuộc kháng chiến.
    - Phần 2 (Vừa rồi … chịu được): Tố cáo tội ác của giặc Minh
    - Phần 3: thuật lại quá trình kháng chiến bao gồm hai đoạn nhỏ:

    + Tiểu đoạn 1 (Ta đây … lấy ít địch nhiều): Lược thuật những chiến thắng vang dội của nghĩa quân Lam Sơn.
    - Phần 4 (Xã tắc …Ai nấy đều hay): Tuyên bố kết thúc chiến tranh mở ra kỷ nguyên hoà bình , khẳng định địa vị,tư thế của đất nước.

5. Phân tích:

5.1. Nêu lập trường chính nghĩa của cuộc kháng chiến:
       - Tư tưởng nhân nghĩa:
             Việc nhân dân nghĩa cốt ở yên dân
             Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
      Đập lại luận điệu của quân Minh
      Cuộc chiến của ta vì dân -> nội dung khác , cụ thể hơn (liên hệ )
      Giải thích -> chiến đấu vì trừ bạo -> quân Minh , bọn tay sai.
=>Quan niệm nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là quan niệm đạo đức hạn hẹp mà là một lý tưởng xã hội phải chăm lo cho dân được sống có hạnh phúc , yên bình .

     - Từ cách độc lập của dân tộc.
+Biểu hiện: tên đất nước, nền văn hoá riêng, bờ cõi, phong tục, nền chính trị, nhân tài.
=>Khái niệm khá hoàn chỉnh về quốc gia (so với các tác phẩm trước Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ).
 +Giọng văn : Sảng khoái , tự hào.
 +Cách viết :câu văn biền ngẫu “Từ Triệu , Đình , Lý , Trần ... Cùng Hán, Đường , Tống , Nguyên ..” -> Bình đẳng , ngang hàng (đế).
=>Cuộc chiến đấu của ta là chính nghĩa.

5.2.Tố cáo tội ác của giặc Minh:
      - Liệt kê hàng loạt:
   Khủng bố (thui sống , chôn sống) ,bóc lột (thuế má: nặng thuế khoá; phu phen: những nỗi phu phen nay xây ma đập đất ...; dâng nạp: dòng lưng mò ngọc, đãi cát tìm vang, bắt dò chim trả, bắt bẫy hươu đen...; diệt sản xuất: tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ; diệt sự sống: Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng...

      - Tội ác man rợ nhất của giặc Minh được miêu tả trong câu :
          Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
          Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ.
    Đây là hình ảnh vừa cụ thể, lại vừa khái quát như một lời cáo trạng, lời buộc tội.
  =>Lột tả tội ác tày trời của giặc, làm rõ sự bất nhân phi nghĩa của bọn chúng. Đó cũng là lý do vì sao nhân dân ta phải kháng chiến.

5.3 Lược thuật cuộc kháng chiến:

5.3.1 Buổi đầu dựng cờ khởi nghĩa.

   - Hình tượng trung tâm là anh hùng Lê Lợi (Ta đây ).

   +Tập trung miêu tả về nội tâm: ngẫm, đau lòng nhức óc, nếm mật nằm gai, giận, suy xét , đắn đo, trằn trọc, băn khoăn.
=>Chân dung tâm trạng Lê Lợi :lòng yêu nước, căm thù giặc, quyết tâm cao , nung nấu nghiền ngẫm chí lớn, là người nhìn xa trông rộng.
 +Hình tượng Lê Lợi có sự gởi gắm tâm trạng của Nguyễn Trãi, của toàn dân -> chân thực , xúc động.

  - Khó khăn trong buổi đầu kháng chiến:

  +Chênh lệch về lực lượng: ta yếu, địch mạnh.
  +Thiếu thốn về vật chất .
  +Hiếm nhân tài.
 
 - Vì sao vượt qua được?

   +Ý chí, tấm lòng cầu hiền.
   +Có chiến lược, chiến thuật đúng đắn, đánh bất ngờ, đánh nhanh.
   +Dựa vào sức mạnh nhân dân .
   +Lấy nhân nghĩa làm cơ sở.
  - Giọng điệu: trầm lắng , suy tư.

5.3.2.Lược thuật chiến thắng:

         - Diễn tả của trận đánh qua 3 bước
        +Phản công :
         Bô Đằng – Trà Lân -> bất ngờ ; câu văn ngắn , chắc , hình ảnh bất ngờ : Sấm vang chớp giật ,Trúc chẻ tro bay. 
         Giặc: sợ hãi.
        +Tiến công :
         Tây Kinh , Đông Đô -> nơi đầu lão của giặc .
         Trận chiến ác liệt -> hình ảnh máu chẩy thành sông , thây chất đầy nội, giặc thất bại thảm hại.
         Mưu phạt tâm công dùng ngọn cờ chính nghĩa , dùng mưu trí và thu phục lòng người .
        +Đánh quân cầu viện:
        Giặc tiến sang rầm rộ ( câu văn dài ) 2 mũi tiến công từ Khâu Ôn và Vân Nam .
        Ta : đánh bất ngờ , dứt khoát :chặt , tuyệt. 
    Nhịp văn ngắt bất ngờ.
        Liệt kê -> chiến thắng dồn dập.
        Hình ảnh đối lập giữa ta và giặc .
=>Khắc hoạ sự thất bại thảm hại của kẻ thù và sức mạnh , khí thế của quân ta.
     Giọng điệu : sảng khoái , hào hùng khi khắc hoạ tư thế của người chiến thắng.
     - Thái độ nhân nghĩa yêu chuộng hoà bình :
      Giọng văn chẫm rãi , khoan thai.
      Tha chết cho kẻ thù , cấp ngựa và thuyền dẻ về nước.
      Muốn nhân dân nghỉ sức.
      Tính kế lâu dài.

5.4 Tuyên bố hoà bình:  

     - Giọng văn hả hê , vui mừng tin tưởng vào hoà bình lâu dài ( Giang sơn từ đây đổi mới ... Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu ).

     - Một loạt các từ tả vũ trụ -> cảm hứng độc lập dân tộc được nâng lên gắn liền với cảm hứng vũ trụ bao la vĩnh hằng .Mặt khác thể hiện ý thức về sự thiêng liêng tôn kính lịch sử.

6. Chủ đề:

      Bình Ngô đại cáo là bản tổng kết về cuộc kháng chiến vĩ đại, nêu cao lòng tự hào, niềm hân hoan vô hạn trước thắng lợi của chính nghĩa, ca ngợi tài năng lãnh đạo cà khí phách hào hùng của dân tộc.

7. Kết luận:

      - Bình Ngô đại cáo tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng hiếm có nên được mãi mãi là thiên cổ hùng văn.
      - Bài cáo thể hiện năng lực cấu trúc tác phẩm nghệ thuật đạt dến trình độ hoàn chỉnh năng lực duy hình tượng sắc sảo, biến hoá, hấp dẫn phù hợp với cảm hứng chủ đạo của tác phẩm.

Bình luận (0)
Đạt Trần
3 tháng 3 2018 lúc 20:23

Trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, Nguyễn Trãi đã ghi dấu tên mình như một nhà tư tưởng kiệt xuất, nhà chính trị lỗi lạc. Không chỉ vậy, ông còn là một nhà thơ, nhà văn vĩ đại. Nổi bật trong gia tài văn học của Nguyễn Trãi là những áng văn chính luận kết hợp hài hòa giữa tư tưởng chính nghĩa, lòng yêu nước thương dân với lập luận sắc sảo, chặt chẽ, giọng văn hùng hồn. Bình ngô đại cáo là tác phẩm thể hiện rõ nhất tài năng cũng như tấm lòng nhân đạo của ông.

Bình Ngô đại cáo ra đời sau khi cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược hoàn toàn thắng lợi. Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Nhân nghĩa vốn là một phạm trù tư tưởng của Nho giáo, chỉ mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí. Nguyễn Trãi đã chắt lọc lấy hạt nhân căn bản của tư tưởng nhân nghĩa: nhân nghĩa chủ yếu để yên dân, đồng thời phát huy truyền thống tốt đẹp của người Việt, đem đến nội dung mới cho nhân nghĩa: nhân nghĩa là yên dân trừ bạo. Đó là cơ sở để bóc trần giọng điệu xảo trá của giặc Minh, đồng thời khẳng định lập trường chính nghĩa của quân ta và tính chất xâm lược phi nghĩa của kẻ thù. Không những thế, nhân nghĩa còn gắn với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, giữ gìn độc lập dân tộc:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có”

Nguyễn Trãi đã khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của dân tộc ta. Với cảm hứng yêu nước, Nguyễn Trãi đã nói về độc lập dân tộc rất cụ thể: nước Đại Việt ta có cương vực lãnh thổ, có lịch sử, có nền văn hiến lâu đời, có lịch sử riêng, có chế độ riêng, có người hiền tài. Giọng điệu trang trọng, vang lên đầy kiêu hãnh, tự hào. Các từ ngữ: “từ trước”, “đã lâu”, “vốn xưng”, “đã chia”, “cũng khác” cho thấy sự tồn tại hiển nhiên, vốn có lâu đời của một đất nước Đại Việt độc lập, có chủ quyền và văn hiến. So với Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, ý thức độc lập dân tộc của Bình Ngô đại cáo toàn diện và sâu sắc hơn. Lý Thường Kiệt mới chỉ xác lập địa vị dân tộc ở hai phương diện lãnh thổ và chủ quyền. Nguyễn Trãi xác định dân tộc ở nhiều phương diện: lãnh thổ, lịch sử, văn hóa, văn hiến, con người. Lý Thường Kiệt căn cứ vào thiên thư- yếu tố tâm linh chứ không phải thực tiễn lịch sử. Nguyễn Trãi ý thức rõ và đề cao những yếu tố thực tiễn, căn bản nhất để làm nên một quốc gia độc lập. Tiếp theo, ông nêu ra những cuộc chiến trước đây với phương Bắc trong lịch sử mà chúng đều thất bại:

“Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi”

Soi chiếu luận đề chính nghĩa vào thực tiễn lịch sử, tác giả nêu lên bản cáo trạng đanh thép về tội ác của quân thù:
“Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ;
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những núi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?”

Phù Trần diệt Hồ chỉ là bức bình phong giặc để Minh lừa dối thiên hạ. Mục đích của chúng là lợi dụng tình hình chính trị bất ổn để thực hiện âm mưu xâm lược nước ta. Ngay sau đó là những câu văn thấm đẫm nước mắt và sự thương xót. Nguyễn Trãi đã phác họa bức tranh khổ cực của nhân dân ta khi giặc Minh xâm chiếm: kẻ lên núi tìm vàng, người xuống biển mò ngọc, tình cảnh chia lìa nheo nhóc, khốn cùng, vợ mất chống, con mất cha, gia đình li tán, dân tình bị đẩy vào cảnh phu phen, tàn hại cả môi trường sống. Hình ảnh nhân dân hiện lên tội nghiệp, đáng thương, khốn khổ, trong khi đó hình ảnh kẻ thù tàn bạo, vô nhân tính như những tên ác quỷ. Bằng biện pháp nói quá, tội ác của quân thù được khắc họa trong hai câu thơ giàu sức gợi: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội/Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”. Giọng điệu vừa uất hận sôi trào, vừa cảm thương tha thiết. Đau xót và căm thù tội ác trời không dung, đất không tha của quân giặc, nhân dân Đại Việt đã đồng lòng đứng dậy:
“Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:

Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Trọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tuỵ Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ

Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay”

Đoạn văn khắc họa hình tượng người chủ tướng Lê Lợi và những năm tháng gian khổ ban đầu của khởi nghĩa Lam Sơn. Hình tượng Lê Lợi được miêu tả bằng bút pháp tự sự kết hợp trữ tình: cách xưng hô khiêm nhường, nguồn gốc xuất thân cũng là chốn hoang dã nương mình cho đến địa bàn đóng quân hẻo lánh. Thế nhưng, người anh hùng áo vải lại có những phẩm chất đáng quý: lòng căm thù giặc sâu sắc, ý chí hoài bão lớn lao, quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc. Cuộc khởi nghĩa được tiến hành trong hoàn cảnh vô cùng gian khổ, khan hiếm lương thực, thế và lực không cân xứng, thiếu nhân tài hào kiệt. Nhưng, nhờ ý chí khắc phục gian nan, sức mạnh đoàn kết, tư tưởng chính nghĩa, sử dụng chiến lược, chiến thuật linh hoạt, quân và dân ta đã giành được nhiều thắng lợi. Ở đây, Nguyễn Trãi đã đề cao tính chất nhân dân, tính chất toàn dân, đặc biệt đề cao vai trò của những người dân nghèo, địa vị thấp hèn. Đó là tư tưởng lớn, tiến bộ trước đó chưa từng có và mãi đến thế kỉ 19 mới được Nguyễn Đình Chiểu tiếp tục ca ngợi. Quá trình phản công và chiến thắng của quân ta được miêu tả hết sức sinh động bằng những hình ảnh có tính phóng đại, giọng văn sôi nổi, hào hùng diễn tả những chiến thắng dồn dập, liên tiếp cùng sự thất bại thảm hại của kẻ thù. Tình yêu hòa bình, tư tưởng nhân nghĩa yên dân- trừ bạo tiếp tục được khẳng định và sâu sắc hơn nữa.

Kết thúc bài cáo là lời tuyên bố thắng trận, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa và nêu lên bài học lịch sử:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;

Than ôi!

Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.

Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay”.
Bằng giọng văn trang nghiêm, trịnh trọng, bài cáo khẳng định, tuyên bố với toàn dân về nền độc lập dân tộc, chủ quyền đất nước đã được lặp lại, đồng thời nêu lên bài học lịch sử: sự thay đổi thực chất là sự phục hưng dân tộc, là nguyên nhân, là điều kiện đề thiết lập sự vững bền. Có được thành quả như vậy là nhờ sự kết hợp giữa sức mạnh truyền thống và sức mạnh thời đại được phát huy cùng với sức mạnh chính nghĩa. Nguyễn Trãi còn sáng suốt nhìn ra con đường đi cho dân tộc khi đặt ra vấn đề phải đổi mới để đất nước được vững bền.

Bình Ngô đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc ta. Tác phẩm đã nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, chân lí độc lập dân tộc, tố cáo tội ác của kẻ thù, tái hiện quá trình kháng chiến hào hùng và tuyên bố độc lập, rút ra bài học lịch sử. Bình Ngô đại cáo còn là áng thiên cổ hùng văn, mang đậm cảm hứng anh hùng ca, kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận sắc bén và văn chương trữ tình.

Cho dù đã trải qua hàng mấy thế kỉ, đến ngày nay, Bình Ngô đại cáo vẫn giữ nguyên được giá trị tư tưởng vượt tầm thời đại của nó. Tác phẩm đã giúp người đọc hình dung ra một trang vàng son trong lịch sử dân tộc, khơi dậy tình yêu nước và tự hào dân tộc ở mỗi con người.

Bình luận (0)
Ngô Thị Thu Trang
3 tháng 3 2018 lúc 20:33

Bình ngô đại cáo là bản báo cáo lớn, công bố rộng khắp cho mọi người biết về việc dẹp yên giặc Ngô, khẳng định chủ quyền của dân tộc và tương lai của đất nước. Bởi vậy, nó được coi là một bản tuyên ngôn độc lập.
Như chúng ta đều biết, sau một thời gian cầm sự để xây dựng lực lượng (1418- 1423), nghĩa quân Lam Sơn đã chuyển sang thời kì phản công. Đến mùa đông 1427, sau khi đập tan mười năm vạn quân tiếp viện của giặc minh, nước ta hoàn toàn được giải phóng. Đầu năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế đặt tên hiệu là Thuận Thiên (hợp lòng trời) và cử Nguyễn Trãi soạn bài cáo để tuyên bố cho toàn dân biết cuộc kháng chiến chống giặc Minh đã thắng lợi rực rỡ, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn xây dựng hoà bình. Như vậy, bài cáo trong lúc toàn quân, toàn dân đang hân hoan chào đón chiến thắng sau 10 năm chiến đấu gian khổ, anh dũng.
Trước hết, Bình ngô đai cáo là một luận văn chính trị tổng kết chặt chẽ, súc tích- về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, dựa trên tư tưởng yêu nước thiết tha và sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về nhân dân và dân tộc. Bao trùm bài cáo là niềm tự hào vô biên trước thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến, của khí phách của dân tộc Việt Nam.
Nhìn đại thể, Bình Ngô đại cáo có thể chia làm bốn phần:
Phần 1. Khẳng định lí tưởng nhân nghĩa của cuộc kháng chiến và truyền thấng bất khuất của dân tộc (từ đầu đến chứng cứ còn ghi…)
Phần 2. Tố cáo tội ác của bọn cướp nước lợi dụng hoàn cảnh rối ren của nước ta, đưa quân sang xâm lược và gây ra bao đau khổ cho nhân dân (tiếp theo đến ai bảo thần dân chịu được…).
Phần 3. Mô tả quá trình khởi nghĩa Lam Sơn, mục đích của cuộc chiến đấu. Những khó khăn ban đầu (quá trình chiến đấu), những chiến công hiểu hách của nghĩa quân chấm dứt ách nô lệ (tiếp theo đến củng là chưa thấy xưa nay).
Phần 4. Lời tuyên bố kết thúc, chiến tranh khẳng định tư thế dân tộc và khát vọng xây dựng đất nước muôn thưở phồn vinh (tiếp theo đến hết).
Ở phần thứ nhất, trước hết Bình Ngô đại cáo khẳng định lí tưởng của cuộc kháng chiến việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Đánh giặc chính là nhân nghĩa. Tiếp theo, Nguyễn Trãi khẳng định Việt Nam là một quốc gia văn hiến từ bao đời đã sánh vai với cường quốc Trung Hoa về nhiều phương diện. Nội dung nói trên được tác giả biểu đạt bằng những câu văn sang trọng, đĩnh đạc gợi không khí trang nghiêm lịch sử.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Ở đây, nổi bật là việc nhấn mạnh đến tư tưởng nhân nghĩa của Cuộc kháng chiến và tư thế độc lập của dân tộc. Nhân nghĩa gắn liền với việc yên dân. Nguyễn Trãi quan tâm trước hết đến đời sông nhân dân, đến hạnh phúc cùa mọi người. Đây chính là tư tưởng lớn và tiến bộ của Nguyễn Trải, làm nền tổng cho cả bài cáo. Để nêu bật tư thế độc lập tự cường của dân tộc, Nguyễn Trái đã sử dụng cách diễn đạt sóng đôi. Đại Việt và Trung Hoa đã bao đời song song tồn tại. Mỗi nước một bờ cõi, mỗi nước một phong tục với những triều đại khác nhau. Vì là nước văn hiến lâu đời nên người tài giỏi của Đại Việt thời nào cũng có, giặc đến thời nào cũng thất bại. Nội dung ấy được diễn đạt bằng những vế rất đăng đối. Tuy vậy nếu để ý ta thấy tư thế cân bằng, tác giả dường như ngày càng muôn đặt nặng đồng cân hơn về phía Đại Việt với những chiến công huy hoàng (Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô- Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã). Do đó, có thể nói ở phần 1 này, Nguyễn Trãi vừa thể hiện niềm tin vào cuộc kháng chiến, vừa bộc lộ niềm tự hào trước truyền thông oanh liệt của dân tộc.

Phần thứ 2 của bài cáo là phần luận tội giặc. Lợi dụng việc họ Hồ để mất lòng dân, giặc Minh cấu kết với bọn Vỉệt gian bán nước, điên cuồng sang cướp nước ta, gây ra bao tội ác trời không dung đất không tha:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Đọc lại sử sách cũ, chúng ta có thể thấy hai câu trên hoàn toàn không phải là cách diễn đạt cường điệu mà là sự thật: Giặc Minh hết sức hung tàn, chúng thường rút ruột người treo lên cây, nấu xác người lấymỡ thắp đèn, nhiều khi chúng mua vui bằng cách nướng những người dân vô tội. Ngoài ra, bọn giặc đã thực hiện một chế độ sưu thuế cống nạp nặng để vơ vét của cải (Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng – Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc). Do đó, chúng đã gây nên cho nước ta những hậu quả ghê gớm, sản xuất bị đình trệ (tan tác cá nghề canh cửi), môi trường sinh thái bị huỷ hoại nghiêm trọng (tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ), đẩy nhân dân Đại Việt vào tình cảnh thê thảm (nheo nhóc thay kẻ goá bụa khôn cùng) … Tội ác của giặc Minh chồng chất đến dẫu chặt hết tre rừng cũng không ghi hết, khiến cho trời đất không thể dung tha, thần và dân đều không chịu được. Đau xót và căm thù, người dân Đại Việt phải đồng lòng đứng dậy.

Phần thứ 3 thuật lại qua trình của cuộc khởi nghĩa từ khởi đầu đến ngày chiến thắng. Bài cáo nhân danh Lê Lợi: Ta đây, Núi Lam Sơn đấy nghĩa… Những lời tự bạch như phải trải tâm can mình trước thần dân: Đau lòng nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời – … Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh – Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ

Bình luận (0)
Phạm Thu Thủy
4 tháng 3 2018 lúc 9:34

DÀN Ý BÀI VĂN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO CỦA NGUYỄN TRÃI
1. MỞ BÀI
Giới thiệu tác giả, tác phẩm

2. THÂN BÀI
Phần 1: Việc nhân nghĩa...chứng cứ còn ghi: Nêu luận đề chính nghĩa
Tư tưởng nhân nghĩa: nhân nghĩa là yên dân trừ bạo
Chân lí về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của dân tộc Việt Nam:
Nền văn hiến, phong tục, lịch sử, chế độ riêng
So sánh với Nam quốc sơn hà: tiến bộ, sâu sắc, toàn diện hơn

Phần 2: Vừa rồi...ai bảo thần nhân chịu được: Bản cáo trạng đanh thép về tội ác của quân thù
Những âm mưu và tội ác của kẻ thù: âm mưu xâm lược, chính sách cai trị vô nhân đạo, tàn sát người vô tội, bóc lột dã man, hủy diệt môi trường sống
Hình ảnh nhân dân: khốn khổ, tội nghiệp, đáng thương
Hình ảnh kẻ thù: tàn bạo, vô nhân tính
Nghệ thuật: phóng đại, câu hỏi tu từ, giọng điệu uất hận trào sôi, cảm thương tha thiết

Phần 3: Ta đây núi Lam Sơn dấy nghĩa...Cũng là chưa thấy xưa nay: Kể lại quá trình chiến đấu gian khổ và kết cục toàn thắng của khởi nghĩa Lam Sơn
Hình tượng người chủ tướng Lê Lợi và những năm tháng gian khổ ban đầu của cuộc khởi nghĩa
Nguồn gốc xuất thân: chốn hoang dã nương mình
Lòng căm thù giặc sâu sắc, ý chí, hoài bão cao cả
Những khó khăn của nghĩa quân Lam Sơn: quân thù đang mạnh, tàn bạo; quân ta lực lượng mỏng, lương thực khan hiếm
Sức mạnh giúp ta chiến thắng: ý chí khắc phục gian nan, sức mạnh đoàn kết, chiến lược, chiến thuật linh hoạt, tư tưởng chính nghĩa
Quá trình phản công và chiến thắng
Khí thế của quân ta hào hùng, chiến thắng dồn dập, liên tiếp
Hình ảnh kẻ thù tham sống sợ chết, hèn nhát, thảm bại

Phần 4: Tuyên bố chiến thắng và nêu lên bài học lịch sử
Tuyên bố, khẳng định với toàn dân nền độc lập chủ quyền của dân tộc đã được lập lại
Tư tưởng canh tân đất nước, tin tưởng vào tương lai

Đánh giá: nội dung và nghệ thuật

3. KẾT BÀI
Khẳng định ý nghĩa và giá trị của tác phẩm

Bình luận (0)
Ami Ngọc
5 tháng 3 2018 lúc 21:41

* phần 1:
- Nguyên lí chính nghĩa --> cơ sở chắc chắn
+ Nhân nghĩa là mối quan hệ tốt đẹp của con người dựa trên cơ sở của tình thương và đạo lí.
+ Thể hiện ở yên dân (cuộc sống thanh bình, yên ổn) và từ bạo (tiêu diệt cái ác).
=> Nguyễn Trãi đã xác định đúng đắn nội dung và mục đích của việc nhân nghĩa là yên dân, trừ bạo, chống giặc ngoại xâm.
- Cơ sở của nền độc lập dân tộc.
+ Các từ "đã lâu', "đã chia", "cũng khác", "từ trước" khẳng định sự lâu đời của quốc gia dân tộc.
+ Yếu tố: cương vực lãnh thổ, nền văn hiến lâu đời, phong tục tập quán, lịch sử riêng, triều đại riêng, nhiều anh hùng hào kiệt.
=> Cơ sở chắc chắn, lời phát biểu hoàn chỉnh nhất về nền độc lập của một quốc gia.
+ Từ "xưng đế": đặt thế ngang bằng giữa nước ta với nước Trung Quốc, đồng thời bộc lộ tinh thần tự tôn dân tộc.
KL: Đoạn 1 là những tiền đề chắc chắn và điều kiện tất yếu để ta thắng giặc Minh xâm lược.
* Phần 2:
- Vạch rõ âm mưu xâm lược của nhà Minh.
- Chỉ ra tội ác: nướng dân đên, vùi con đỏ.
--> Diễn đạt giàu hình ảnh, Nguyễn Trãi đã tố cáo tội ác dã mang, mang màu sắc thời trung cổ, hủy hoại sự sống con người.
- Tìm cách vơ vét tài nguyên
- Hủy hoại môi trường sống.
- Hình ảnh những tên giặc xâm lược:
+ Há miệng, nhe răng.
+ Nay xây nhà, mai đắp đất.
--> độc ác, chúng giống như những con quỷ đội lốt người.
- Hình ảnh: + Trúc Nam Sơn không ghi hết tội.
+ Nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
--> Dùng cái vô tận để nói cái vô tận.
--> Nhấn mạnh, tố cáo tội ác hung bạo, đồng thời diễn tả nỗi căm hờn chất chứa của nhân dân ta.
=> Đứng trên lập trường nhân bản để vạch ra tội ác của quân giặc.
* phần 3:
- Hình tượng Lê Lợi
+ Dấy nghĩa --> hành động vì nền độc lập.
+ Chốn hoang dã nương mình --> nguồn gốc xuất thân bình dị.
+ Thù lớn --> có lòng căm thù giặc
+ Căm giặc nước --> lí tưởng hoài bão lớn
- Những khó khăn của cuộc khởi nghĩa:thiếu người tài, thiếu lương thực, thiếu quân đội, tự phải khắc phục khó khăn.
- Chiến thuật: lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều, tinh thần đòan kết.
- Những chiến thắng:
+ Sớm vang chớp giật
+ Trúc chẻ tro bay
--> nhanh, mạnh
-->Tái hiện khí thế hào hùng của trận đánh.
- Thất bại của giặc --> kết cục thảm bại.
=> với nền tảng chính nghĩa, sự mưu trí, quân ta đã dành thắng lợi vang dội, và truyền thống đạo lí 1 lần nữa dc khẳng định sáng ngời, cao cả.
=> Sức mạnh của ngòi bút Nguyễn Trãi.
* phần 4:
- Khẳng định sự tồn tại vững bền của đất nước.
- Sự vận chuyển có tính chất quy luật: bĩ -> thái, hối -> minh.
- Tuyên bố:
+ Nền độc lập.
+ Sự thái bình.
--> Đất nước đã sạch bóng quân thù, mở ra những cơ hội mới.
* Tư tưởng nhân nghĩa là tư tưởng có tính chất phổ biến được thời bấy giờ mặc nhiên thừa nhận. "Nhân nghĩa" được nhiều người giải thích; cách nói, cách hiểu đôi khi khác nhau nhưng nhìn chung mọi người đều thừa nhận "nhân nghĩa" là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí. "Nhân nghĩa" là "yên dân trừ bạo", tức là tiêu trừ tham tàn bạo ngược, bảo vệ cuộc sống yên bình của người dân. Cần nhấn mạnh, Nguyễn Trãi đã biết chắt lọc lấy cái hạt nhân cơ bản, tích cực nhất trong tư tưởng nhân nghĩa: chủ yếu để yên dân, trước nhất là trừ bạo.

Bình luận (0)
Ami Ngọc
5 tháng 3 2018 lúc 21:44

Tác phẩm của Nguyễn Trãi có tên là Đại cáo binh Ngô , nghĩa là tuyên cáo rộng rãi về việc dẹp yên giặc Ngô .Tên Bình Ngô đại cáo là cách đảo lại tựa đề ho ngắn gọn , chứ chưa hẳn là dịch .Chữ Ngô ở đây là cách gọi của người Việt xưa đối với thế lực phong kiến phương bắc ,với sắc thái coi khinh .Trong tác phẩm , quân Ngô chính là giặc Minh.
- Bài văn được viết theo thể cáo , thể văn biền ngẫu

Phân tích:
Nêu lập trường chính nghĩa của cuộc kháng chiến:
- Tư tưởng nhân nghĩa:
Việc nhân dân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Đập lại luận điệu của quân Minh
Cuộc chiến của ta vì dân -> nội dung khác , cụ thể hơn ( liên hệ )
Giải thích -> chiến đấu vì trừ bạo -> quân Minh , bọn tay sai.
=>Quan niệm nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là quan niệm đạo đức hạn hẹp mà là một lý tưởng xã hội phải chăm lo cho dân được sống có hạnh phúc , yên bình .

- Từ cách độc lập của dân tộc.
+Biểu hiện :tên đất nước ,nền văn hoá riêng ,bờ cõi , phong tục , nền chính trị , nhân tài.
=>Khái niệm khá hoàn chỉnh về quốc gia ( so với các tác phẩm trước Nam quốc sơn hà ,Hịch tướng sĩ ).
+Giọng văn : Sảng khoái , tự hào.
+Cách viết :câu văn biền ngẫu “Từ Triệu , Đình , Lý , Trần ... Cùng Hán, Đường ,Tống ,Nguyên ..” -> Bình đẳng , ngang hàng (đế).
=>Cuộc chiến đấu của ta là chính nghĩa.
Tố cáo tội ác của giặc Minh:
- Liệt kê hàng loạt:
Khủng bố ( thui sống , chôn sống ) ,bóc lột ( thuế mà : nặng thuế khoá; phu phen :những nỗi phu phen nay xây ma đập đất ...;dâng nạp : dòng lưng mò ngọc , đãi cát tìm vang , bắt dò chim trả , bắt bẫy hươu đen...; diệt sản cuất : tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ ; diệt sự sống: Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng...
- Tội ác man rợ nhất của giặc Minh được miêu tả trong câu :
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ.
Đây là hình ảnh vừa cụ thể , lại vừa khái quát như một lời cáo trạng , lời buộc tội.
=>Lột tả tội ác tày trời của giặc , làm rõ sự bất nhân phi nghĩa của bọn chúng. Đó cũng là lý do vì sao nhân dân ta phải kháng chiến.
Lược thuật cuộc kháng chiến:
Buổi đầu dựng cờ khởi nghĩa.
Hình tượng trung tâm là anh hùng Lê Lợi ( Ta đây ).
Tập trung miêu tả về nội tâm : ngẫm , đau lòng nhức óc , nếm mật nằm gai , giận , suy xét ,đắn đo , trằn trọc , băn khoăn.
=>Chân dung tâm trạng Lê Lợi :lòng yêu nước , căm thù giặc , quyết tâm cao ,nung nấu nghiền ngẫm chí lớn , là người nhìn xa trông rộng.
+Hình tượng Lê Lợi có sự gởi gắm tâm trạng của Nguyễn Trãi , của toàn dân -> chân thực , xúc động.
- Khó khăn trong buổi đầu kháng chiến:
+Chênh lệch về lực lượng :ta yếu , địch mạnh.
+Thiếu thốn về vật chất .
+Hiếm nhân tài.
- Vì sao vượt qua được?
+Ý chí , tấm lòng cầu hiền.
+Có chiến lược , chiến thuật đúng đắn , đánh bất ngờ , đánh nhanh.
+Dựa vào sức mạnh nhân dân .
+Lấy nhân nghĩa làm cơ sở.
- Giọng điệu :trầm lắng , suy tư.
.Lược thuật chiến thắng:
- Diễn tả của trận đánh qua 3 bước
+Phản công :
Bô Đằng – Trà Lân -> bất ngờ ; câu văn ngắn , chắc , hình ảnh bất ngờ : Sấm vang chớp giật ,Trúc chẻ tro bay.
Giặc: sợ hãi.
+Tiến công :
Tây Kinh , Đông Đô -> nơi đầu lão của giặc .
Trận chiến ác liệt -> hình ảnh máu chẩy thành sông , thây chất đầy nội, giặc thất bại thảm hại.
Mưu phạt tâm công dùng ngọn cờ chính nghĩa , dùng mưu trí và thu phục lòng người .
+Đánh quân cầu viện:
Giặc tiến sang rầm rộ ( câu văn dài ) 2 mũi tiến công từ Khâu Ôn và Vân Nam .
Ta : đánh bất ngờ , dứt khoát :chặt , tuyệt.
Nhịp văn ngắt bất ngờ.
Liệt kê -> chiến thắng dồn dập.
Hình ảnh đối lập giữa ta và giặc .
=>Khắc hoạ sự thất bại thảm hại của kẻ thù và sức mạnh , khí thế của quân ta.
Giọng điệu : sảng khoái , hào hùng khi khắc hoạ tư thế của người chiến thắng. - Thái độ nhân nghĩa yêu chuộng hoà bình :
Giọng văn chậm rãi , khoan thai.
Tha chết cho kẻ thù , cấp ngựa và thuyền dẻ về nước.
Muốn nhân dân nghỉ sức.
Tính kế lâu dài.
Tuyên bố hoà bình:
- Giọng văn hả hê , vui mừng tin tưởng vào hoà bình lâu dài ( Giang sơn từ đây đổi mới ... Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu ).
- Một loạt các từ tả vũ trụ -> cảm hứng độc lập dân tộc được nâng lên gắn liền với cảm hứng vũ trụ bao la vĩnh hằng .Mặt khác thể hiện ý thức về sự thiêng liêng tôn kính lịch sử.
Chủ đề:
Bình Ngô đại cáo là bản tổng kết về cuộc kháng chiến vĩ đại , nêu cao lòng tự hào , niềm hân hoan vô hạn trước thắng lợi của chính nghĩa , ca ngợi tài năng lãnh đạo cả khí phách hào hùng của dân tộc.
Kết luận:
- Bình Ngô đại cáo tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng hiếm có nên được mãi mãi là thiên cổ hùng văn.
- Bài cáo thể hiện năng lực cấu trúc tác phẩm nghệ thuật đạt đến trình độ hoàn chỉnh năng lực duy hình tượng sắc sảo , biến hoá , hấp dẫn phù hợp với cảm hứng chủ đạo của tác phẩm.

Bình luận (0)

Các câu hỏi tương tự
Nguyễn Thanh Quang
Xem chi tiết
Phạm Khắc Đang
Xem chi tiết
Thuy Nguyen
Xem chi tiết
Honekawa Suneo
Xem chi tiết
Trần ngọc Mai
Xem chi tiết
Kiều Diễm
Xem chi tiết
Võ Thị Kim Dung
Xem chi tiết
vu thi lan
Xem chi tiết
Học toán
Xem chi tiết