VỊNH HAI BÀ TRƯNG
Giúp dân dẹp loạn trả thù mình,
Chị rủ cùng em kết nghĩa binh.
Tô Ðịnh bay hồn vang một trận,
Lĩnh Nam mở cõi vững trăm thành.
Mới dày bảo vị gia ơn trọng,
Ðã đội hoa quan xuống phúc lành.
Còn nước còn non còn miếu mạo,
Nữ trung đệ nhất đấng tài danh.
NHỊ TRƯNG MIẾU
Lục thập dư thành tận vọng phong,
Thùy tri nữ tử diệc anh hùng.
Đương thì khởi đặc bình Tô Định,
Mã Viện cơ phi “Quắc thước ông”
Đặng Minh Bích
Dịch thơ:
Hơn sáu mươi thành hết sức trông,
Ai hay nhi nữ cũng anh hùng.
Há riêng Tô Định tan thần xác,
Mã Viện chi còn “Quắc thước ông” !
Nhóm Lê Quí Đôn dịch.
Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận phường tham bạo, thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân
Ngàn tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã đến gần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta
Ba thu gánh vác sơn hà
Một là báo phục, hai là bá vương.
Uy thanh động đến Bắc phương
Hán sai Mã Viện lên đường tiến công
Hồ Tây đua sức vẫy vùng
Nữ nhi mà chống anh hùng được nao
Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo
Chị em thất thế cùng liều với sông
Phục Ba mới dựng cột đồng
Ải quan truyền đến biên công cõi ngoài
Trưng Vương vắng mặt còn ai
Đi về thay đổi mặc người Hán quan.
Đại Nam quốc sử diễn ca.
VỊNH HAI BÀ TRƯNG
Cột đồng chìm chín suối,
Bia đá rọi nghìn thu.
Vì nước thương người khuất,
Xúm tay chỉ đứa thù.
Non sông tươi nét mặt,
Hào kiệt hổ chòm râu.
Ai biết, ai không biết,
Hồ Tây nước thẳm sâu.
Đặng Văn Bá.
*
VỊNH HAI BÀ TRƯNG
Trăm năm trong cõi người ta,
Khí thiêng chung đúc một nhà lạ thay.
Kìa xem sử Việt xưa nay,
Thoa quần mà cũng có ngày đế vương.
*
Giai nhân nan tái đắc (1)
Trong doanh hoàn dễ được mấy Trưng Vương.
Hội phong trần sinh ở xứ Đông Dương,
Vững gan sắt lấy cương thường làm trọng.
Quốc sĩ phu thù thiên bất cộng
Tỷ trinh muội liệt thế vô vong (2)
Đem phấn son thay lấy việc anh hùng,
Lưỡi thư kiếm chẳng dong phường khấu tặc.
Đuổi Tô Định thẳng về đất Bắc,
Rửa tanh hôi mà gánh các lấy non sông,
Làm gương cho khách quần hồng.
Nguyễn Ngô Đoan
Chú thích:
(1) Ý nói người đẹp khó mà có lại được.
(2) Nhục nước thù chồng thề không đội trời chung với giặc
Chị tiết trinh, em oanh liệt đời không bao giờ quên.
*
VỊNH BÀ TRƯNG
Phải đánh vì chưng giặc đến nhà
Xếp nghề kim chỉ giở can qua
Đền xong nghĩa cả, em cùng chị
Trả được thù chung, nước lẫn nhà
Một thuở Mê Linh, nền kiếm kích
Ngàn năm Lãng Bạc dấu hương hoa
Anh hùng sá kể câu thành bại
Quắc thước ra gì tướng Phục Ba.
Khuyết Danh
*
VỊNH TRƯNG VƯƠNG
Tượng đá trời Nam dãi tuyết sương
Ngàn năm công đức nhớ Trưng Vương
Tham tàn trách bởi quân gây biến
Oanh liệt khen cho gái dị thường
Liều với non sông đôi má phấn
Giành nhau nòi giống một da vàng
Cột đồng Đông Hán tìm đâu thấy
Chỉ thấy Tây Hồ bóng nước gương.
Thái Xuyên
*
VỊNH BÀ TRƯNG
Nỡ để non sông tỏa khói mù
Ra tay vùng vẫy với thằng Tô
Chị cùng em, quyết nâng bầu huyết
Nước với nhà, chung trả mối thù
Sáu chục thành trì chia Hán Việt
Ba năm đường bệ cũng Thương Chu
Năm canh thức dậy hồn oanh liệt
Sóng dỡn Tây Hồ, bóng nguyệt thu.
*
Qua chốn Mê Linh viếng cựu đô
Giang san còn nhận dấu thơm tho
Ngọn cờ phất, sạch thù ông Sách
Lưỡi kiếm đưa, tan mật chú Tô
Há để bùn than nhơ vũ trụ
Quyết đem son phấn nhuộm dư đồ
Mày râu ướm hỏi quân luồn cúi
Khoát nước Hồ Tây rửa thẹn thò.
Song Ngư Nguyễn Tất Minh.
*
ĐỀ VỊNH TRƯNG VƯƠNG
Ngựa Gióng đã lên không
Rừng Thanh voi chửa lồng (1)
Nẩy chồi hoa nụ Lạc
Mở mặt nước non Hồng
Trăng rọi gương hồ Bạc
Mây tan dấu cột đồng
Nén hương lòng cố quốc
Xin nhắn một lời chung.
Hoàng Thúc Hội
(1):Chỉ cuộc khởi nghĩa Bà Triệu.
*
TƯỞNG NHỚ TRƯNG VƯƠNG
Tưởng nhớ ai xưa mãi đến giờ
Con dòng Lạc tướng luyện binh cơ
Thành Mê tuốt kiếm bêu đầu giặc
Sông Hát dồn quân hướng sắc cờ
Giao Chỉ ngọn triều lên cuồn cuộn
Phong Châu bóng liễu rủ lơ thơ
Đất Long Biên cũ, người đâu cũ
Cây cỏ bâng khuâng những đợi chờ ! . . .
Ngân Giang
*
TRƯNG NỮ VƯƠNG
Thù hận đôi lần chau khóe hạnh,
Một trời loáng thoáng bóng sao rơi.
Dồn sương vó ngựa xa non thẳm,
Gạt gió chim bằng vượt dặm khơi.
Ngang dọc non sông đường kiếm mã,
Huy hoàng cung điện nếp cân đai.
Bốn phương gió bãi lùa chân ngựa,
Tám nẻo mưa ngàn táp đóa mai.
*
Máu đỏ cốt xong thù vạn cổ,
Ngai vàng đâu tính chuyện tương lai.
Hồn người chín suối cười an ủi,
Lệ nến năm canh rỏ ngậm ngùi.
Lạc tướng quên đâu lời huyết hận,
Non Hồng quét sạch bụi trần ai.
Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận,
Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời.
*
Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa
Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi
Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá,
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi. . .
1. Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ
Ai vô xứ nghệ thì vô
2.
Non Hồng ai đắp mà cao,
Sông Lam ai bới, ai đào mà sâu?
3.
Hồng sơn cao ngất mấy trùng
Lam Giang mấy trượng thì lòng mấy nhiêu
4.
Đức Thọ gạo trắng nước trong
Ai về Đức Thọ thong dong con người
5.
Trèo lên chót vót Hai Vai
Ra tay khoát gió khoác vai ông Đùng.
6.
Ai về Hà Tĩnh thì về
Mặc lục chợ Hạ, uống chè Hương Sơn.
7.
Đọi nước chè em múc ra
Khặm đụa vô nỏ bổ
8.
Ai về Hồng Lộc thì về
Ăn cơm cá Bàu Nậy,
Uống nước chè khe Yên
9.
Ai về Cửa Hội quê tôi
Cá thu, cá nục, cá mòi thiếu chi.
10.
Ai về Thạch Hạ mà coi
Bắc nồi lên bếp xách oi ra đồng.
11.
Ai hay mít ngọt, trám bùi
Có về Cát Ngạn với tui thì về.
12.
Quê ta ngọt mía Nam Đàn
Bùi khoai chợ Rộ, thơm cam Xã Đoài.
13.
Bánh đa chợ Cày, bánh tày chợ Voi
Bánh đúc cháo kê là nghề làng Trại
14.Nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn
15.
Quê tôi vốn ở Nguyệt Đàm
Tôi đi bán hến chợ Sa Nam gần kề
Hến tôi ngon gớm ngon ghê
Ai muốn ăn hến thì về quê tôi
16.
Lắm ló Xuân Viên, lắm tiền Hội Thống,
Lắm nống Do Nha, lắm cà Lộc Châu,
Lắm dâu Cẩm Mỹ, lắm bị Kẻ Giăng,
Lắm măng Kẻ Cừa, lắm bừa Trung Sơn,
Lắm cơn Yên Xứ
17.
Kẻ Dặm đục đá nấu vôi
Miệng thì thổi lửa, tay lôi rành rành
18.
Trai Đông Thái gái Yên Hồ
Gặp nhau ta nổi cơ đồ cũng nên
19.
Đặng Sơn người đẹp nước trong
Dâu non xanh bại, tơ tằm vàng sân
20.Xôi nếp cái, gái Tràng Lưu
CHÚC BẠN HỌC TỐT!
Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa
Hay để tả một tình yêu trong trắng mới chớm nở của đôi lứa, ca dao noi:
Đôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu
Đến như tả hạng người ngu đần, ca dao cũng đã đưa ra những hình ảnh táo bạo:
Mặt nạc đóm dày
Mo nang trôi sấp biết ngày nào khôn
Ca dao ngoài nghệ thuật cụ thể hoá, còn có nghệ thuật nhân cách hoá, dùng vật vô tri để gán cho những tâm tư, tình cảm con người.
Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thời một dạ khăng khăng đợi thuyền
Một số thể cổ điển của ca dao:
Thể phú: Là trình bày, diễn tả...
Đường lên xứ lạng bao xa
Cách một trái núi với ba quãng đồng
Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ
Em chớ thấy anh lắm bạn mà ngờ
Bụng anh vẫn phẳng như tờ giấy phong...
Thể tỉ: là so sánh, người ta thường mượn một cái khác để ngụ ý, so sánh, hay gửi gắm tâm sự của mình. Đây là phương pháp nghệ thuật chủ yếu trong sự diễn đạt tư tưởng và tình cảm. So sánh cũng là một lối cụ thể hoá những cái trừu tượng, làm cho lời thêm ý nhị, tình tứ và thắm thiết. So sánh trực tiếp:
Gối mền, gối chiếu không êm
Gối lụa không mềm bằng gối tay em
Lối tỉ gián tiếp, tức nghệ thuật ẩn dụ, một phương pháp nghệ thuật tế nhị hơn:
Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa, bến cũ, con đò khác đưa
....
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
- Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
- Đan sàng thiếp cũng xin vâng
Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?
..........
Thể hứng: Ca dao còn một phương pháp nghệ thuật độc đáo nữa là cách biểu lộ cảm xúc đối với ngoại cảnh, mở đầu cho sự biểu lộ tâm tình. Hứng là do cảm xúc mà nảy nở tình cảm, có thể là vui, cũng có thể là buồn
Cơm trắng ăn với chả chim
Chồng đẹp vợ đẹp, những nhìn mà no
Trên trời có đám mây vàng
Bên sông nước chảy có nàng quay tơ
Nàng buồn nàng bỏ quay tơ
Chàng buồn chàng bỏ thi thơ học hành
Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa
Hay để tả một tình yêu trong trắng mới chớm nở của đôi lứa, ca dao noi:
Đôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu
Đến như tả hạng người ngu đần, ca dao cũng đã đưa ra những hình ảnh táo bạo:
Mặt nạc đóm dày
Mo nang trôi sấp biết ngày nào khôn
Ca dao ngoài nghệ thuật cụ thể hoá, còn có nghệ thuật nhân cách hoá, dùng vật vô tri để gán cho những tâm tư, tình cảm con người.
Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thời một dạ khăng khăng đợi thuyền
Một số thể cổ điển của ca dao:
Thể phú: Là trình bày, diễn tả...
Đường lên xứ lạng bao xa
Cách một trái núi với ba quãng đồng
Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ
Em chớ thấy anh lắm bạn mà ngờ
Bụng anh vẫn phẳng như tờ giấy phong...
Thể tỉ: là so sánh, người ta thường mượn một cái khác để ngụ ý, so sánh, hay gửi gắm tâm sự của mình. Đây là phương pháp nghệ thuật chủ yếu trong sự diễn đạt tư tưởng và tình cảm. So sánh cũng là một lối cụ thể hoá những cái trừu tượng, làm cho lời thêm ý nhị, tình tứ và thắm thiết. So sánh trực tiếp:
Gối mền, gối chiếu không êm
Gối lụa không mềm bằng gối tay em
Lối tỉ gián tiếp, tức nghệ thuật ẩn dụ, một phương pháp nghệ thuật tế nhị hơn:
Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa, bến cũ, con đò khác đưa
....
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
- Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
- Đan sàng thiếp cũng xin vâng
Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?
..........
Thể hứng: Ca dao còn một phương pháp nghệ thuật độc đáo nữa là cách biểu lộ cảm xúc đối với ngoại cảnh, mở đầu cho sự biểu lộ tâm tình. Hứng là do cảm xúc mà nảy nở tình cảm, có thể là vui, cũng có thể là buồn
Cơm trắng ăn với chả chim
Chồng đẹp vợ đẹp, những nhìn mà no
Trên trời có đám mây vàng
Bên sông nước chảy có nàng quay tơ
Nàng buồn nàng bỏ quay tơ
Chàng buồn chàng bỏ thi thơ học hành
1. Ai lên làng Quỷnh hái chè,
Hái dăm ba lá xuống khe ta ngồi!
2. Muốn ăn cơm trắng cá mè,
Thì lên làng Quỷnh hái chè với anh.
Muốn ăn cơm trắng cá rô,
Thì lên làng Quỷnh quẩy bồ cho anh!
3. Hà Nội ba mươi sáu phố phường
Hàng Gai, hàng Đường, hàng Muối trắng tinh.
Từ ngày ta phải lòng mình
Bác mẹ đi rình đã mấy mươi phen.
Làm quen chẳng được nên quen
Làm bạn mất bạn ai đền công cho
4. Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Đường ra Hà Nội như tranh vẽ rồng
5. Ai về Hà nội ngược nước Hồng Hà
Buồm giong ba ngọn vui đà nên vui
Đường về xứ Lạng mù xa..
Có về Hà nội với ta thì về
Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng,
6. Ai đi trẩy hội chùa Hương
Làm ơn gặp khách thập phương hỏi giùm
Mớ rau sắng, quả mơ non
Mơ chua sắng ngọt, biết còn thương chăng?
7. Ngày xuân cái én xôn xao
Con công cái bán ra vào chùa Hương.
Chim đón lối, vượn đưa đường
Nam mô đức Phật bốn phương chùa này.
8. Ra đi anh nhớ Nghệ An,
Nhớ Thanh Chương ngon nhút, nhớ Nam đàn thơm tương.
9. "Yến sào Vinh Sơn
Cửu khổng cửa Ròn
Nam sâm Bố Trạch
Cua gạch Quảng Khê
Sò nghêu quán Hàn...
Rượu dâu Thuận Lý..."
10. Ước gì anh lấy được nàng,
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây.
Xây dọc rồi lại xây ngang,
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
Đừng thủy thì tiện thuyền bè
Đường bộ cứ bến Bồ Đề mà sang
11. Bắc Cạn có suối đãi vàng
Có hồ Ba Bể có nàng áo xanh
12. Bình Định có núi Vọng Phu
Có đầm Thị Nại, có cù lao Xanh
Em về Bình Định cùng anh
Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa
13. Bóng đèn là bóng đèn hoa
Ai về vùng Bưởi với ta thì về
Vùng Bưởi có lịch có lề
Có sông tắm mát cò nghề seo can
14. Cát Chính có cây đa xanh
Có đường cái lớn chạy quanh trong làng
Cát Chính có giếng rìa làng
Vừa trong vừa ngọt cả làng chắt chiu.
15. Cổ Đô tốt đất cao nền
Ai đi đến đó cũng quên ngày về
16. Cổ Đô thực chốn giang hồ
Ai đi đến đất Cổ Đô cũng nhìn
Trên bờ gió thổi rung rinh
Dưới sông sóng đánh rập rình thêm vui
Thuyền bè lên ngược xuống xuôi
Tiện đường buôn bán, tiện nơi đi về.
17. Cổ Loa là đất Đế Kinh
Trông ra lại thấy tòa thành Tiên xây.
18. Ai về Bình Ðịnh mà coi
Con gái Bình Ðịnh múa roi, đi quyền
19. Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang
Xe hơi đã tới Đèo Ngang
Ấy qua Hà Tĩnh, đường sang Quảng Bình
20. Cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp,
Em đi không kịp tội lắm anh ơi
Cảm ơn các bạn đã tham khảo !