Viết một bài văn ( 600 chữ ) trình bày suy nghĩ của em về ý chí của tuổi trẻ trong quá trình tạo dựng sự nghiệp, đi đến thành công.
Viết một bài văn ( 600 chữ ) trình bày suy nghĩ của em về ý chí của tuổi trẻ trong quá trình tạo dựng sự nghiệp, đi đến thành công.
Ý chí của tuổi trẻ trong quá trình tạo dựng sự nghiệp và đi đến thành công là một nguồn động lực mạnh mẽ, là ngọn lửa không bao giờ tắt. Tuổi trẻ luôn tràn đầy năng lượng, nhiệt huyết và khát khao khám phá, chinh phục những thử thách mới. Chính sự nhiệt huyết và khát vọng đó là yếu tố quan trọng giúp tuổi trẻ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ trên con đường sự nghiệp.
Một trong những đặc điểm nổi bật của tuổi trẻ là tinh thần dám nghĩ, dám làm. Tuổi trẻ không ngại đối mặt với thất bại, bởi họ hiểu rằng thất bại là một phần không thể thiếu của hành trình đi đến thành công. Họ sẵn sàng thử nghiệm những ý tưởng mới, không ngại mạo hiểm để tìm ra con đường đúng đắn nhất. Sự sáng tạo và khả năng tư duy linh hoạt của tuổi trẻ cũng là một yếu tố quan trọng giúp họ tìm ra những giải pháp đột phá, mang lại những thành tựu đáng kể trong sự nghiệp.
Ngoài ra, ý chí của tuổi trẻ còn được thể hiện qua sự kiên trì, nhẫn nại. Dù gặp phải khó khăn, trở ngại, họ không bao giờ từ bỏ mục tiêu của mình. Thay vào đó, họ luôn cố gắng, nỗ lực hết mình để vượt qua mọi thử thách. Sự kiên trì này không chỉ giúp họ đạt được những mục tiêu ngắn hạn mà còn xây dựng nên nền tảng vững chắc cho sự nghiệp lâu dài.
Cuối cùng, ý chí của tuổi trẻ còn được thể hiện qua tinh thần học hỏi, không ngừng trau dồi kiến thức và kỹ năng. Họ hiểu rằng, để thành công trong sự nghiệp, việc học hỏi và phát triển bản thân là vô cùng quan trọng. Chính vì vậy, họ luôn tìm kiếm cơ hội để học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, cũng như phát triển những kỹ năng mềm cần thiết cho công việc.
Tóm lại, ý chí của tuổi trẻ là một yếu tố quan trọng giúp họ tạo dựng sự nghiệp và đi đến thành công. Với tinh thần dám nghĩ, dám làm, sự kiên trì nhẫn nại và tinh thần học hỏi không ngừng, tuổi trẻ chắc chắn sẽ chinh phục được những đỉnh cao mới, góp phần xây dựng một tương lai tươi sáng và phát triển cho bản thân cũng như cho xã hội.
Câu 7. (2.0đ) Qua nhân vật Lão Hạc, Nam Cao đã gửi gắm những tình cảm gì khi viết về người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám 1945?
Qua nhân vật Lão Hạc, Nam Cao đã gửi gắm tình cảm yêu thương và đau xót cho số phận đau khổ không lối thoát của những người nông dân nghèo trước Cách Mạng tháng Tám năm 1945. Đồng thời Nam Cao cũng thể hiện sự nâng niu và trân trọng những phẩm chất tốt đẹp vốn có bao đời của người nông dân Việt Nam và chia sẻ đồng cảm với những ước mơ về hạnh phúc chính đáng của họ.
Nhân vật “tôi” có thái độ như thế nào đối với Lão Hạc?
Thái độ và tình cảm của nhân vật “tôi” đối với lão Hạc có sự thay đổi qua từng tình huống truyện.
- Lúc đầu nghe chuyện của lão với thái độ thờ ơ, dửng dưng
- Khi nghe câu chuyện của lão về con trai, ông giáo đã thốt lên: “Lão Hạc ơi! Bây giờ thì tôi hiểu tại sao lão không muốn bán con chó Vàng của lão. Lão chỉ còn một mình nó để làm khuây” -> nhân vật "tôi" bắt đầu có sự đồng cảm với hoàn cảnh của lão Hạc.
- Khi thấy lão Hạc khóc: “Tôi muốn ôm choàng lấy lão mà òa lên khóc. Bây giờ thì tôi không xót xa năm quyển sách của tôi quá như trước”. Nhân vật “tôi” đã hoàn toàn hiểu được nỗi đau trong lòng lão Hạc. Dùng cách động viên an ủi chia sẻ với lão để vơi đi những buồn đau. Bên cạnh đó giúp đỡ lão âm thầm trong những ngày túng thiếu.- Khi chứng kiến cái chết dữ dội của lão Hạc: Nhân vật “tôi” đã vô cùng cảm động, hứa làm tròn những điều mà lão Hạc gửi gắm.
=> thái độ của nhân vật "tôi" đối với lão Hạc có sự biến chuyển theo hướng tích cực
Thái độ và tình cảm của nhân vật “tôi” đối với lão Hạc có sự thay đổi qua từng tình huống truyện.
- Lúc đầu nghe chuyện của lão với thái độ thờ ơ, dửng dưng
- Khi nghe câu chuyện của lão về con trai, ông giáo đã thốt lên: “Lão Hạc ơi! Bây giờ thì tôi hiểu tại sao lão không muốn bán con chó Vàng của lão. Lão chỉ còn một mình nó để làm khuây” -> nhân vật "tôi" bắt đầu có sự đồng cảm với hoàn cảnh của lão Hạc.
- Khi thấy lão Hạc khóc: “Tôi muốn ôm choàng lấy lão mà òa lên khóc. Bây giờ thì tôi không xót xa năm quyển sách của tôi quá như trước”. Nhân vật “tôi” đã hoàn toàn hiểu được nỗi đau trong lòng lão Hạc. Dùng cách động viên an ủi chia sẻ với lão để vơi đi những buồn đau. Bên cạnh đó giúp đỡ lão âm thầm trong những ngày túng thiếu.- Khi chứng kiến cái chết dữ dội của lão Hạc: Nhân vật “tôi” đã vô cùng cảm động, hứa làm tròn những điều mà lão Hạc gửi gắm.
=> thái độ của nhân vật "tôi" đối với lão Hạc có sự biến chuyển theo hướng tích cực
Hãy chỉ ra và nêu tác dụng của phép tu từ trong đoạn văn sau: " Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc... "
Phép tu từ trong đoạn văn: So sánh
"Cái miệng móm méo của lão mếu như con nít".
Tác dụng:
- Thể hiện cụ thể chi tiết sinh động hình ảnh hành động khóc của nhân vật.
- Nổi bật miêu tả được tất cả tình thái, tâm trạng khổ sở khó khăn của tầng lớp nhân dân thấp cổ bé hỏng. Câu văn tăng giá trị đặc tả gợi hình ảnh đặc sắc, gợi cảm xúc chân thật cho câu văn.
- Thể hiện tỉ mỉ, tinh tế, khéo léo giản dị tự nhiên cách nói tả nhân vật dễ dàng cho người đọc hình dung rõ ràng.
a) Nhân vật “tôi” có thái độ như thế nào đối với Lão Hạc?
b) Hãy chỉ ra và nêu tác dụng của phép tu từ trong đoạn văn sau: " Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc... "
(Lược phần đầu: Nhân vật “tôi” sang nhà Lão Hạc cùng hút thuốc lào và nói chuyện. Lão
Hạc nói với nhân vật “tôi” rằng sẽ bán con chó mà lão đã gọi nó bằng cái tên thân thương là cậu Vàng. Con chó do thằng con trai của lão mua về nuôi, định để đến lúc cưới vợ thì giết thịt. Nhưng vì nhà gái thách cưới nặng quá, mặc dù thương con trai nhưng lão không thể hỏi cưới vợ cho con. Thằng con lão phẫn chí nên đã bỏ làng ra đi làm đồn điền cao su. Những lúc buồn nhớ con trai lão lại gọi cậu Vàng lại nói chuyện để làm khuây).
Hôm sau lão Hạc sang nhà tôi. Vừa thấy tôi, lão báo ngay :
- Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ !
- Cụ bán rồi ?
- Bán rồi ! Họ vừa bắt xong.
Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước, tôi
muốn ôm choàng lấy lão mà oà lên khóc. Bây giờ thì tôi không xót năm quyển sách của tôi quá như trước nữa. Tôi chỉ ái ngại cho lão Hạc.
Tôi hỏi cho có chuyện :
- Thế nó cho bắt à ?Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...
- Khốn nạn... Ông giáo ơi ! Nó có biết gì đâu ! Nó thấy tôi gọi thì chạy ngay về, vẫy đuôi
mừng. Tôi cho nó ăn cơm. Nó đang ăn thì thằng Mục nấp trong nhà, ngay đằng sau nó, tóm lấy hai cẳng sau nó dốc ngược nó lên. Cứ thế là thằng Mục với thằng Xiên, hai thằng chúng nó chỉloay hoay một lúc đã trói chặt cả bốn chân nó lại. Bấy giờ cu cậu mới biết là cu cậu chết ! Này ! Ông giáo ạ ! Cái giống nó cũng khôn ! Nó cứ làm in như nó trách tôi; nó kêu ư ử, nhìn tôi như muốn bảo tôi rằng : "A ! Lão già tệ lắm ! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này ?". Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó !
(Lược dẫn một đoạn: Nhân vật “tôi” đã tìm mọi cách an ủi lão Hạc. Hai người cùng ngồi ăn
khoai lang, uống nước chè và nói chuyện. Lão Hạc tỏ ý muốn nhờ ông giáo một việc).
…. Và lão kể. Lão kể nhỏ nhẹ và dài dòng thật. Nhưng đại khái có thể rút vào hai việc. Việc thứ nhất : Lão thì già, con đi vắng, vả lại nó cũng còn dại lắm, nếu không có người trông nom cho thì khó mà giữ được vườn đất để làm ăn ở làng này. Tôi là người nhiều chữ nghĩa, nhiều lý luận người ta kiêng nể, vậy lão muốn nhờ tôi cho lão gửi ba sào vườn của thằng con lão, lão viết văn tự nhượng cho tôi để không ai còn tơ tưởng dòm ngó đến ; khi nào con lão về thì nó sẽ nhận vườn làm, nhưng văn tự cứ để tên tôi cũng được, để thế để tôi trông coi cho nó... Việc thứ hai :
Lão già yếu lắm rồi, không biết sống chết lúc nào : con không có nhà, lỡ chết không biết ai đứng ra lo cho được ; để phiền cho hàng xóm thì chết không nhắm mắt : lão còn được hăm nhăm đồng bạc với năm đồng vừa bán chó là ba mươi đồng bạc, muốn gửi tôi để lỡ có chết thì tôi đem ra, nói với hàng xóm giúp, gọi là của lão có tí chút, còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả...
Tôi bật cười bảo lão :
- Sao cụ lo xa quá thế ? Cụ còn khoẻ lắm, chưa chết đâu mà sợ ! Cụ cứ để tiền ấy mà ăn, lúc
chết hãy hay ! Tội gì bây giờ nhịn đói mà tiền để lại ?
- Không, ông giáo ạ ! Ăn mãi hết đi thì đến lúc chết lấy gì mà lo liệu ?
- Ðã đành rằng là thế, nhưng tôi bòn vườn của nó bao nhiêu, tiêu hết cả. Nó vợ con chưa có.
Ngộ nó không lấy gì lo được, lại bán vườn thì sao ?... Tôi cắn rơm, cắn cỏ tôi lạy ông giáo !
Ông giáo có nghĩ cái tình tôi già nua tuổi tác mà thương thì ông giáo cứ cho tôi gửi.
Thấy lão nằn nì mãi, tôi đành nhận vậy. Lúc lão ra về, tôi còn hỏi :
- Có đồng nào, cụ nhặt nhạnh đưa cho tôi cả thì cụ lấy gì mà ăn ?
Lão cười nhạt bảo :
- Ðược ạ ! Tôi đã liệu đâu vào đấy... Thế nào rồi cũng xong.
(Lược dẫn một đoạn: Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết.
Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Tôi giấu giếm vợ tôi, thỉnh thoảng giúp ngấm ngầm lão Hạc. Nhưng hình như lão cũng biết vợ tôi không ưng giúp lão. Lão cứ chối tất cả những cái gì tôi cho lão. Và lão cứ xa tôi dần dần...)
… Lão không hiểu tôi, tôi nghĩ vậy, và tôi càng buồn lắm. Những người nghèo nhiều tự ái
vẫn thường như thế. Họ dễ tủi thân nên rất hay chạnh làng. Ta khó mà ở cho vừa ý họ... Một hôm, tôi phàn nàn về việc ấy với Binh Tư. Binh Tư là một người láng giềng khác của tôi : Hắn làm nghề ăn trộm nên vốn không ưa lão Hạc bởi vì lão lương thiện quá. Hắn bĩu môi và bảo :
- Lão làm bộ đấy ! Thật ra thì lão chỉ tâm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu.
Lão vừa xin tôi một ít bả chó...
Tôi trố to đôi mắt, ngạc nhiên. Hắn thì thầm :
- Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão... Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu. Hỡi ơi lão Hạc ! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hết...
Một người như thế ấy !... Một người đã khóc vì trót lừa một con chó !... Một người nhịn ăn để
tiền lại làm ma, bởi không muốn liên luỵ đến hàng xóm, láng giềng.. Con người đáng kính ấy
bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư ? Cuộc đời quả thật cứ một ngày một thêm đáng
buồn…
*
* *
Không ! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một
nghĩa khác. Tôi ở nhà Binh Tư về được một lúc lâu thì thấy những tiếng nhốn nháo ở bên nhà lão Hạc. Tôi mải mốt chạy sang. Mấy người hàng xóm đến trước tôi đang xôn xao ở trong nhà. Tôi xồng xộc chạy vào. Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, giật nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy. Chỉ có tôi với Binh Tư hiểu. Nhưng nói ra làm gì nữa ! Lão Hạc ơi ! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt ! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Ðến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn : "Ðây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn : cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào..."
(Trích Lão Hạc*, Nam Cao, in trong Tiểu thuyết thứ bảy, số 484)
a.
- Nhân vật "tôi" có thái độ thương cảm và đồng cảm sâu sắc đối với Lão Hạc. Ngay từ khi nghe tin con chó Cậu Vàng của Lão Hạc đã bị bắt đi, "tôi" đã cảm thấy xót xa và muốn ôm lão để an ủi. "Tôi" không chỉ cảm thấy tiếc nuối cho Lão Hạc mà còn lo lắng và quan tâm đến tình trạng tinh thần và vật chất của ông.
b.
- Phép tu từ được sử dụng trong đoạn văn: nhân hóa
"Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc..."
- Tác dụng: Mô tả sự khóc lóc của Lão Hạc mà còn thể hiện sự dày công chăm chút trong việc chọn từ và hình ảnh, giúp đọc giả hình dung được cảm xúc đau đớn và bất lực của ông trong khoảnh khắc đó.
Điểm nhìn của truyện “Sống mòn” được đặt ở đâu? Điểm nhìn đó có tác dụng gì trong việc kể lại truyện.
`=>` Điểm nhìn trong truyện "Sống mòn" được đặt ở ngôi thứ nhất thông qua nhân vật chính Thứ. Nhờ vậy, tác phẩm:
$+$ Gần gũi, chân thực `->` giúp người đọc đồng cảm với Thứ.
$+$ Khách quan `->` người đọc tự đánh giá sự việc.
$+$ Hé lộ nội tâm `->` miêu tả tâm lý Thứ tinh tế.
$+$ Bất ngờ `->` tạo hiệu ứng bất ngờ cho người đọc.
$#haeng2010$
Qua văn bản “ Hạnh phúc của một tang gia “ và một số hiểu biết về tác giả Vũ Trọng Phụng, em có nhận xét gì về văn phong của tác giả.
$-$ Văn phong sắc sảo, châm biếm:
$+$ Miêu tả hiện thực xã hội thối nát qua đám tang cụ cố Hồng.
$+$ Lột tả bản chất xấu xa, giả tạo của tầng lớp thượng lưu.
$+$ Ngòi bút châm biếm, mỉa mai sắc bén, sử dụng nhiều từ ngữ khẩu ngữ, biện pháp tu từ.
$#haeng2010$
Điểm khác biệt nào em nhận ra qua đám tang trong “ Hạnh phúc của một tang gia “ với nét văn hóa tang ma truyền thống của người Việt.
Trong văn chương Việt Nam, "Hạnh phúc của một tang gia" của nhà văn Vũ Trọng Phụng là một tác phẩm nổi bật với cái nhìn châm biếm về xã hội. Qua đám tang của cụ cố tổ trong tác phẩm, tác giả đã khắc họa rõ nét những mặt trái của xã hội thời bấy giờ. Để thấy rõ sự khác biệt, chúng ta hãy so sánh đám tang trong tác phẩm với những nét văn hóa tang ma truyền thống của người Việt.
Trong văn hóa truyền thống của người Việt, đám tang là một nghi lễ quan trọng, đầy trang nghiêm và thể hiện lòng kính trọng đối với người đã khuất. Mỗi nghi thức trong tang lễ đều mang ý nghĩa sâu sắc, từ việc khâm liệm, đưa tang cho đến chôn cất. Người thân thường mặc áo tang, khóc than để bày tỏ lòng tiếc thương và cầu nguyện cho linh hồn người quá cố được siêu thoát. Không khí của đám tang truyền thống luôn đượm buồn, lắng đọng và thiêng liêng.
Ngược lại, trong "Hạnh phúc của một tang gia," Vũ Trọng Phụng đã vẽ nên một bức tranh hoàn toàn khác. Đám tang trong tác phẩm không mang nặng nỗi buồn hay sự tiếc thương mà thay vào đó là niềm "hạnh phúc" của những người thừa kế. Mỗi nhân vật đều có những toan tính riêng, mừng rỡ vì sự ra đi của cụ cố tổ mang lại cho họ những lợi ích cá nhân. Họ không quan tâm đến việc kính nhớ người đã khuất mà chỉ tập trung vào việc phân chia tài sản. Đám tang trở thành nơi phô trương sự giàu có và địa vị xã hội, thay vì là dịp để bày tỏ lòng thành kính.
Sự khác biệt này phản ánh sự suy đồi của xã hội thời bấy giờ, nơi mà giá trị đạo đức bị đảo lộn, con người sống vì lợi ích cá nhân mà quên đi những giá trị truyền thống tốt đẹp. Vũ Trọng Phụng đã sử dụng đám tang để làm nổi bật sự mỉa mai, châm biếm về một xã hội mà tình người và đạo đức đang dần bị phai nhạt.
Tóm lại, sự khác biệt giữa đám tang trong "Hạnh phúc của một tang gia" và nét văn hóa tang ma truyền thống của người Việt không chỉ nằm ở hình thức bên ngoài mà còn ở ý nghĩa sâu xa của nó. Nếu như đám tang truyền thống là dịp để thể hiện lòng kính trọng và tiếc thương, thì đám tang trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng lại là bức tranh châm biếm về sự suy thoái đạo đức trong xã hội. Qua đó, tác giả muốn gửi gắm thông điệp về sự cần thiết phải giữ gìn và tôn trọng những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
* Hãy tìm 2 khía cạnh mâu thuẫn nhau trong đoạn trích. Từ đó em có nhận xét gì về hiện thực xã hội đương thời:
Ðám ma đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy. Cả một thành phố đã nhốn nháo lên khen đám ma to, đúng với ý muốn của cụ cố Hồng. Thiên hạ chú ý đặc biệt vào những kiểu quần áo tang của tiệm may Âu Hoá như ý ông Typn và bà Văn Minh. Cụ bà sung sương vì ông đốc Xuân đã không giận mà lại giúp đáp, phúng viếng đến thế và đám ma như kể đã là danh giá nhất tất cả.
Ðám cứ đi...
Kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu, lần lượt thay nhau mà rộn lên. Ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, song le sự thật thì vẫn thì thầm với nhau chuyện về vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may. Trong mấy trăm người đi đưa thì một nửa là phụ nữ, phần nhiều tân thời, bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó Ðoan, vân vân... Thật là đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma.
Chen lẫn vào những tiếng khóc lóc, mỉa mai nhau của những người trong tang gia, người ta thấy những câu thì thào như sau này:
- Con bé nhà ai kháu thế? – Con bé bên cạnh đẹp hơn nữa! - Ừ, ừ, cái thằng ấy bạc tình bỏ mẹ! – Xưa kia vợ nó bỏ nó chớ? – Hai đời chồng rồi! – Còn xuân chán! - Gớm cái ngực, cái đầm quá đi mất! – Làm mối cho tớ nhé? - Mỏ vàng hay mỏ chì? – Không, không hẹn hò gì cả - Vợ béo thế, chồng gầy thế, thì mọc sừng mất!
Vân vân...Và còn nhiều câu nói vui vẻ, ý nhị khác nữa, rất xứng đáng với những người đi đưa đám ma.
Ðám cứ đi...
Ðến huyệt, lúc hạ quan tài, cậu tú Tân luôn thuộm trong chiếc áo thụng trắng đã bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau mắt như thế này, như thế nọ... để cậu chụp ảnh kỷ niệm lúc hạ huyệt. Bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau.
Xuân Tóc Ðỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ, bên cạnh ông Phán mọc sừng. Lúc cụ Hồng ho khạc mếu máo và ngất đi, thì ông này cũng khóc to “Hứt!... Hứt!... Hứt!...”
Ai cũng để ý đến ông cháu rể quý hoá ấy.
Ông ta khóc quá, muốn lặng đi thì may có Xuân đỡ khỏi ngã. Nó chật vật mãi cũng không làm cho ông đứng hẳn lên được. Dưới cái khăn trắng to tướng, cái áo thụng trắng loè xòe, ông phán cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi.
- Hứt!... Hứt!... Hứt!...
Xuân Tóc Ðỏ muốn bỏ quách ra chợt thấy ông Phán dúi vào tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư... Nó nắm tay cho khỏi có người nom thấy, rồi đi tìm cụ Tăng Phú lạc trong đám ba trăm người đương buồn rầu và đau đớn về những điều sơ suất của khổ chủ.
Theo Vũ Trọng Phụng – Trích tiểu thuyết Số đỏ.
- Có 2 khía cạnh mâu thuẫn trong đoạn trích:
+ Sự phân biệt giàu nghèo, đẹp xấu, giai cấp.
+ Sự lừa dối, sự giả tạo trong lễ tang.
* Nhận xét về hiện thực xã hội đương thời từ đoạn trích này là xã hội đang đối diện với những vấn đề về sự phân biệt giai cấp, sự giả tạo trong các lễ nghi và sự thiếu tranh đấu chân thật với hiện thực. Các nhân vật trong tiểu thuyết thể hiện sự quan tâm nhiều đến vẻ bề ngoài và xã hội, nhưng lại bỏ qua những giá trị thực sự nhân văn và tâm linh trong các nghi lễ tang.
Nhận xét về cách sử dụng ngôn ngữ qua đoạn văn sau:
- Con bé nhà ai kháu thế? – Con bé bên cạnh đẹp hơn nữa! - Ừ, ừ, cái thằng ấy
bạc tình bỏ mẹ! – Xưa kia vợ nó bỏ nó chớ? – Hai đời chồng rồi! – Còn xuân
chán! - Gớm cái ngực, cái đầm quá đi mất! – Làm mối cho tớ nhé? - Mỏ vàng
hay mỏ chì? – Không, không hẹn hò gì cả - Vợ béo thế, chồng gầy thế, thì mọc
sừng mất! Vân vân...
Cách sử dụng ngôn ngữ: phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.
=> Thể hiện lời ăn tiếng nói hàng ngày, sự đối thoại giữa mọi người với nhau. Ở đây tác giả sử dụng những câu từ địa phương, tự nhiên để dễ dàng lột tả tính sân si, sự phiếm chuyện về vẻ bề ngoài, chuyện người khác vô ích. Qua đó diễn đạt tính cách nhân vật đối thoại và sự châm biếm về tầng lớp người chỉ biết săm soi quan tâm đến bên ngoài mà vô nghĩ đến tình cảm đáng giá cần có, sự tôn trọng tối thiểu.