Bài 15 : Các mỏ khoáng sản

Lý Thục Vân
Xem chi tiết
Đỗ Gia Ngọc
10 tháng 2 2017 lúc 21:17

- Những biện pháp:

+ Không khai thác bừa bãi

+ Khai thác và sử dụng một cách hợp lí và tiết kiệm

+ Không lãng phí khoáng sản (vì khoáng sản được tạo ra trong một khoảng thời gian rất dài nên rất quý)

+ Tuyên truyền cho mọi người những biện pháp khai thác, sử dụng, bảo vệ khoáng sản

mình chỉ nghĩ ra được có nhiêu đây thôi à, vì bài này mình tự làm nên nếu có sai gì thì thông cảm nha, chúc bạn học tốt

Bình luận (0)
_silverlining
11 tháng 2 2017 lúc 8:21

-Không lãng phí khoáng sản

-Phải khai thác đúng mức và hợp lí

-Không khai thác bừa bãi

- Phải sử dụng hợp lý, tránh lãng phí.

Bình luận (0)
Nguyễn Trần Thành Đạt
11 tháng 2 2017 lúc 15:53

- Không khai thác những tài nguyên khoáng sản đã gần cạn kiệt.

- Sử dụng đúng mục đích.

- Khai thúc đúng và đủ mức

Bình luận (0)
nguyenducan
Xem chi tiết
Trần Thanh Tùng
7 tháng 2 2017 lúc 21:40

3 loại

Bình luận (0)
Hoa Thạch Thảo
7 tháng 2 2017 lúc 21:40
GIỚI THIỆU Lịch sử phát triển Ban lãnh đạo Chức năng nhiệm vụ Sơ đồ tổ chức Công tác đào tạo Năng lực khoa học Các đơn vị trực thuộc TIN TỨC SỰ KIỆN Tin tức Hoạt động khoa học Hoạt động đoàn thể Hội nghị hội thảo THÔNG TIN KHOA HỌC Các đề tài nghiên cứu Đào tạo Phát hiện mới về Địa chất Bảo tàng địa chất Các ấn phẩm xuất bản Bản tin Kinh tế địa chất - Nguyên liệu khoáng LỊCH TUẦN TÀI LIỆU KHOA HỌC Tài nguyên Khoáng sản Việt Nam

Việt Nam có vị trí địa chất, địa lý độc đáo, là nơi giao cắt của hai vành đai sinh khoáng lớn Thái Bình Dương và Địa Trung Hải, là nước nhiệt đới gió mùa phát triển mạnh các quá trình phong hoá thuận lợi cho sự hình thành khoáng sản. Qua 65 năm nghiên cứu điều tra cơ bản và tìm kiếm khoáng sản của các nhà địa chất Việt Nam cùng với các kết qủa nghiên cứu của các nhà địa chất Pháp từ trước cách mạng tháng 8 đến nay chúng ta đã phát hiện trên đất nước ta có hàng nghìn điểm mỏ và tụ khoáng của hơn 60 loại khoáng sản khác nhau từ các khoáng sản năng lượng, kim loại đến khoáng chất công nghiệp và vật liệu xây dựng.

I. Nhóm khoáng sản năng lượng gồm có dầu khí, than khoáng, urani và địa nhiệt

Về dầu khí. Việt Nam có tiềm năng dầu khí đáng kể. Tiềm năng và trữ lượng dầu khí có khả năng thu hồi của các bể trầm tích Đệ tam của Việt Nam khoảng 4,300 tỷ tấn dầu quy đổi, trong đó trữ lượng phát hiện là 1,208 tỷ tấn và trữ lượng dầu khí có khả năng thương mại là 814,7 triệu tấn dầu quy đổi. Đến ngày 2/9/2009 tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam đã đạt mốc khai thác 300 triệu tấn dầu quy đổi. Với sản lượng khai thác dầu khí hàng năm, hiện nay Việt Nam đứng hàng thứ ba ở Đông Nam Á sau Indonesia và Malaysia.

Than khoáng. Việt Nam là nước có tiềm năng về than khoáng các loại. Than biến chất thấp (lignit - á bitum) ở phần lục địa trong bể than sông Hồng tính đến chiều sâu 1700m có tài nguyên trữ lượng đạt 36,960 tỷ tấn. Nếu tính đến độ sâu 3500m thì dự báo tổng tài nguyên than đạt đến 210 tỷ tấn.
Than biến chất trung bình (bitum) đã được phát hiện ở Thái Nguyên, vùng sông Đà và vùng Nghệ Tĩnh với trữ lượng không lớn, chỉ đạt tổng tài nguyên gần 80 triệu tấn.
Than biến chất cao (anthracit) phân bố chủ yếu ở các bể than Quảng Ninh, Thái Nguyên, sông Đà, Nông Sơn với tổng tài nguyên đạt trên 18 tỷ tấn. Bể than Quảng Ninh là lớn nhất với trữ lượng đạt trên 3 tỷ tấn. Bể than Quảng Ninh đã được khai thác từ hơn 100 năm nay phục vụ tốt cho các nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Urani. Ở Việt Nam đã phát hiện nhiều tụ khoáng urani ở Đông Bắc Bộ, Trung Trung Bộ và Tây Nguyên. Tổng tài nguyên urani ở Việt Nam được dự báo trên 218.000 tấn U308 có thể là nguồn nguyên liệu khoáng cho các nhà máy điện hạt nhân trong tương lai.

Địa nhiệt. Việt Nam có nhiều nguồn nước nóng, ở phần đất liền có 264 nguồn có nhiệt độ là 300 C trở lên. Các nguồn nước nóng chủ yếu được phân bố ở Tây Bắc, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Ngoài ra nhờ khoan thăm dò, khai thác dầu khí chúng ta cũng phát hiện được nhiều nguồn nước nóng ở dưới sâu thuộc Bể Sông Hồng và Bể Cửu Long. Tiềm năng địa nhiệt của Việt Nam không lớn nhưng có thể coi là nguồn năng lượng bổ sung cho các nguồn năng lượng truyền thống phục vụ cho nhu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước

II. Nhóm khoáng sản kim loại
Việt Nam có nhiều loại như sắt, mangan, crôm, titan, đồng, chì, kẽm, cobalt, nickel, nhôm, thiếc, vonfram, bismut, molybden, lithi, đất hiếm, vàng, bạc, platin, tantal-niobi v.v... Trong số khoáng sản kim loại kể trên có các loại tài nguyên trữ lượng lớn tầm cỡ thế giới như bauxit (quặng nhôm), đất hiếm, titan, wolfram, crôm v.v..

Bauxit có 2 loại chủ yếu là diaspor và gibsit.
Diaspor có nguồn gốc trầm tích phân bố ở Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hải Dương và Nghệ An với tài nguyên trữ lượng không lớn chỉ đạt gần 200 triệu tấn.
Gibsit có nguồn gốc phong hoá từ đá bazan, phân bố chủ yếu ở Tây Nguyên với trữ lượng đạt gần 2,1 tỷ tấn (Sở Địa chất Mỹ năm 2010 đã công bố sách hàng hoá khoáng sản thế giới và xếp bauxit Việt nam đứng hàng thứ 3 thế giới sau Guinea 7,4 tỷ tấn và Australia 6,2 tỷ tấn). Hiện bauxit đang được khai thác thử nghiệm để sản xuất alumina ở Tân Rai, Lâm Đồng và Nhân Cơ, Đăk Nông.

Đất hiếm ở Việt Nam tập trung chủ yếu ở Tây Bắc Bộ với tổng tài nguyên trữ lượng đạt gần 10 triệu tấn đứng thứ 3 trên thế giới sau Trung Quốc (36 triệu tấn) và Mỹ (13 triệu tấn). Quặng đất hiếm ở Việt Nam chưa được khai thác sử dụng.

Quặng titan (Ilmenit) ở Việt nam có 3 loại: quặng gốc trong đá xâm nhập mafic, quặng trong vỏ phong hoá và quặng sa khoáng ven biển.
Quặng titan gốc trong đá xâm nhập mafic ở Cây Châm, Phú Lương Thái Nguyên có trữ lượng 4,83 triệu tấn ilmenit và tài nguyên đạt 15 triệu tấn đang được khai thác.
Quặng ilmenit trong vỏ phong hoá và sa khoáng ở các huyện Phú Lương và Đại Từ Thái Nguyên với tài nguyên dự báo đạt 2,5 triệu tấn.
Quặng titan sa khoáng ven biển phân bố rải rác từ Móng Cái đến Vũng Tàu. Đặc biệt ở một số diện tích ven biển tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và Bà Rịa - Vũng Tàu có tiềm năng lớn, tài nguyên dự báo đạt hàng trăm triệu tấn. Ngoài khoáng vật ilmenit, còn có các khoáng vật có giá trị kinh tế kỹ thuật là zircon và monazit. Một số mỏ ilmenit ở Hà Tĩnh, Bình Định, Bình Thuận v.v.. đã được khai thác và xuất khẩu.

Quặng Wolfram tập trung chủ yếu ở tụ khoáng Đá Liền, Đại Từ, Thái Nguyên. Công ty Tiberon Minerals đã tiến hành thăm dò xác định tài nguyên và trữ lượng đạt 110,2 triệu tấn quặng chứa 227.500 tấn WO3 , 8,5 triệu tấn CàF2, 191.800 tấn Cu, 20,8 tấn Au và 107.000 tấn Bi. Đây là vùng quặng rất đáng được quan tâm chú ý vì có tài nguyên dự báo đáng kể.

Quặng crôm sa khoáng có giá trị kinh tế kỹ thuật được tìm thấy ở Cổ Định, Nông Cống Thanh Hoá với trữ lượng 22 triệu tấn đang được khai thác. Đi kèm crôm còn có trữ lượng đáng kể của Nickel và Cobal ... cần được nghiên cứu sử dụng.

III. Nhóm khoáng chất công nghiệp

Việt Nam có nhiều loại khoáng chất công nghiệp như apatit, phosphorit, baryt, fluorit, pyrit, serpentin, than bùn, sét gốm sứ, magnesit, dolomit, felspat, kaolin, pyrophylit, quartzit, cát thuỷ tinh, disthen, silimanit, sét dẻo chịu lửa, diatomit, graphit, talc, atbest, muscovit, vermiculit, bentonit, thạch anh tinh thể. Các khoáng chất công nghiệp ở Việt Nam đã được đánh giá và nhiều mỏ đã được khai thác phục vụ cho các ngành nông, công nghiệp. Các mỏ lớn đáng chú ý là apatit, baryt và graphit.
Apatit phân bố dọc bờ phải sông Hồng, từ biên giới Việt Trung ở phía Bắc đến vùng Văn Bàn, dài trên 100 Km, rộng trung bình 1 Km, được đánh giá có tài nguyên đến độ sâu 100m, là 2,5 tỷ tấn và trữ lượng đã được thăm dò đạt 900 triệu tấn.
Baryt phân bố chủ yếu ở miền Bắc Việt Nam, thường đi kèm với quặng Pb-Zn và đất hiếm. Tổng tài nguyên dự báo đạt 25 triệu tấn (trong tụ khoáng Đông Pao, Lai Châu có 4 triệu tấn).
Graphit có ở Lào Cai, Yên Bái và Quảng Ngãi với tổng tài nguyên và trữ lượng đạt gần 20 triệu tấn.

IV. Nhóm vật liệu xây dựng
Việt Nam có nhiều mỏ vật liệu xây dựng: sét gạch ngói, sét xi măng, puzzolan, cát sỏi, đá vôi, đá hoa trắng, đá ốp lát, đá ong. Các mỏ vật liệu xây dựng đã và đang được khai thác phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước.
Ngoài các loại khoáng sản kể trên, từ năm 1987 chúng ta đã phát hiện nhóm đá quý ruby, saphia, peridot, ... nhưng trữ lượng không lớn. Riêng ruby ở Yên Bái và Nghệ An có chất lượng cao được thế giới đánh giá đạt chất lượng quốc tế, tương đương với ruby nổi tiếng của Myanmar.
Điểm qua về tiềm năng khoáng sản của đất nước ta kể trên, nếu so sánh với các nước ở trong khu vực Đông Nam Á và thế giới, thì thấy rằng: nước ta tuy có diện tích đất liền không lớn, nhưng có vị trí địa chất, địa lý thuận lợi cho sự sinh thành và phát triển khoáng sản. Với nguồn tài nguyên khoáng sản đã biết thì có thể xếp nước ta vào hàng các nước có tiềm năng khoáng sản đáng kể.

Tuy nhiên cần phải chú ý các đặc điểm sau:

1. Việt Nam không có tiềm năng lớn về các khoáng sản năng lượng. Dầu khí chỉ đảm bảo khai thác được khoảng 30 năm nữa, do vậy cần tăng cường tìm kiếm thăm dò để tăng trữ lượng phục vụ lâu dài. Than biến chất cao (Anthracit) với trữ lượng đã được đánh giá đạt nhiều tỷ tấn cần phải khai thác sâu hàng trăm mét và hơn nữa mới bảo đảm cho nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Than biến chất thấp ở dưới sâu đồng bằng sông Hồng tuy dự báo có tài nguyên lớn đến vài trăm tỷ tấn nhưng ở độ sâu hàng ngàn mét dưới lòng đất, điều kiện khai thác cực kỳ khó khăn và phức tạp cả về công nghệ, cả về an sinh xã hội và môi trường. Tiềm năng urani và địa nhiệt không đáng kể và chưa được thăm dò đánh giá trữ lượng.

2. Việt Nam có nhiều khoáng sản kim loại nhưng trữ lượng không nhiều. Rất nhiều khoáng sản kim loại (vàng, bạc, đồng, chì , kẽm, thiếc v.v..) thế giới rất cần trong khi trữ lượng không có nhiều, chỉ khai thác mấy chục năm nữa sẽ cạn kiệt. thì Việt Nam cũng có ít, không đảm bảo tiêu dùng trong nước. Một số ít khoáng sản kim loại như bauxit, đất hiếm, ilmenit ta có nhiều, thế giới cũng có nhiều, song nhu cầu hàng năm không lớn, hàng trăm năm nữa mới cạn kiệt, nên chúng không là những khoáng sản "nóng", khoáng sản cạnh tranh để phát triển, lại càng không thể xem là cứu cánh của nền kinh tế Việt Nam.
Trữ lượng bauxit trên thế giới là 27 tỷ tấn và với sản lượng khai thác hàng năm trên 200 triệu tấn thì phải 135 năm nữa mới hết bauxit
Đất hiếm trên thế giới có trữ lượng đạt 99 triệu tấn, nhu cầu hàng năm chỉ cần 125.000 tấn thì 700 năm nữa mới cạn kiệt loại khoáng sản này
Thế giới có nhiều quặng titan với tổng tài nguyên đạt hơn 2 tỷ tấn, trong đó trữ lượng đạt 730 triệu tấn. Hàng năm thế giới chỉ tiêu thụ hơn 6 triệu tấn, như vậy 128 năm nữa mới hết quặng titan.

3. Việt Nam có nhiều loại khoáng chất công nghiệp và vật liệu xây dựng phục vụ tốt cho phát triển kinh tế của đất nước và có thể xuất khẩu. Tuy nhiên chúng không phải là khoáng sản có giá trị kinh tế cao và trên thế giới cũng có nhiều đủ dùng trong nhiều năm nữa.

4. Việt Nam chưa phát hiện được kim cương - loại khoáng sản quý có giá trị kinh tế kỹ thuật cao. Các nhà địa chất đã phát hiện ở Việt Nam có Ruby chất lượng cao, nhưng trữ lượng chưa rõ, các loại đá qúy khác cũng chưa được phát hiện nhiều. Thực tế nhóm đá quý được phát hiện ở Việt Nam chưa đóng góp gì đáng kể cho phát triển kinh tế đất nước.

Phân tích sâu về đặc điểm tiềm năng tài nguyên khoáng sản của Việt Nam trong bối cảnh chung về tài nguyên khoáng sản của khu vực và thế giới cho ta thấy rõ tuy Việt Nam là nước có nhiều loại khoáng sản nhưng trữ lượng hầu hết các loại không nhiều. Một số loại khoáng sản như bauxit, đất hiếm, ilmenit ta có tài nguyên trữ lượng tầm cỡ thế giới thì thế giới cũng có nhiều và không có nhu cầu tiêu thụ lớn. Điều đó có nghĩa là loại khoáng sản thế giới cần thì ta lại không có, mà loại khoáng sản ta có nhiều thì thế giới lại không cần nhiều, không có nhu cầu lớn. Đây là điều cần phải được quan tâm nghiên cứu đánh giá khách quan giữa cung và cầu để có chiến lược sử dụng tài nguyên khoáng sản đúng đắn, hợp lý, phục vụ cho phát triển kinh tế của đất nước. Nếu chỉ dựa đơn giản vào một số khoáng sản có tài nguyên trữ lượng nhiều, đứng thứ hạng cao trên thế giới như bauxit, đất hiếm, ilmenit,.. mà đánh giá quá cao vai trò của chúng trong phát triển kinh tế của đất nước sẽ là một sai lầm phải trả giá .

Để góp phần xây dựng và phát triển kinh tế thực hiện CNH, HĐH đất nước trong những năm tới cần đẩy mạnh điều tra, khảo sát, đánh giá các loại khoáng sản mà thế giới và trong nước rất cần, trữ lượng của chúng đang dần cạn kiệt như đầu khí, than, vàng, bạc, đồng, chì, kẽm, thiếc, v.v..

Một số loại khoáng sản thế giới và trong nước có nhiều trong khi không có nhu cầu tiêu thụ lớn như bauxit, đất hiếm, ilmenit thì lúc này chưa cần thiết đầu tư thăm dò.

Khoáng sản là loại tài nguyên không tái tạo được và có số lượng hạn chế trong lòng đất do đó cần có chiến lược quản lý bảo vệ khai thác để sử dụng hợp lý tiết kiệm và có hiệu quả phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước.

Bình luận (0)
Lưu Hạ Vy
7 tháng 2 2017 lúc 21:42

Khoáng sản có 3 loại :

- Khoáng sản năng lượng

- Khoảng sản kim loại

+) Kim loại đen

+) Kim loại màu

- Khoáng sản phi kim loại

Bình luận (0)
thanhthanh5026
Xem chi tiết
Phạm Thu Thủy
7 tháng 2 2017 lúc 22:24

Mỏ nội sinh và mỏ ngoại sinh có quá trình hình thành khác nhau:

- Mỏ nội sinh là mỏ khoáng sản được hình thành trong quá trình phun trào mác ma (núi lửa), hoặc do mác ma được đẩy lên gần bề mặt đất. Vì thế, chúng thường ở những nơi có đá mác ma lộ ra ngoài mặt đất hoặc ở gần mặt đất.

- Mỏ ngoại sinh là mỏ khoáng sản được hình thành do sự lắng đọng vật chất ở những chỗ trũng hoặc do phong hoá đá xảy ra trong thời gian dài ở trên bề mặt đất. Vì vậy, chúng có quan hệ nhiều với loại đá trầm tích và thường có trong các lớp đá trầm tích.



Bình luận (0)
nguyến xuân huy
Xem chi tiết
Không Quan Tâm
7 tháng 2 2017 lúc 19:44

-tài nguyên thiên nhiên ko phải là vô tận,để hinh thanh phải mất hàng triệu năm,nếu bị cạn kiệt khả năng phục hồi là rất khó.
-khóang sản có vai trò rất lớn trong các nganh ,khai thác,chế biến,công nghiệp năng lượng ,cn xây dựng đóng góp phần ko nhỏ trong sự phát triển của kinh tế quốc gia, thúc đây các ngành công nghiệp khác phat triển.

Bình luận (0)
Bướng Bỉnh
7 tháng 2 2017 lúc 19:44

Vì nếu chúng ta ko sử dụng hợp lí và tiết kiệm thì đến một ngày chúng sẽ cạn kiệt

thanghoachúc bn hok giỏi\

Bình luận (0)
Nguyễn Trần Khánh Huyền
7 tháng 2 2017 lúc 19:46

Vì khoáng sản là tài nguyên có ích cho con người và là tài nguyên hữu hạn, khó có thể khôi phục được.

Bình luận (0)
Lê Mi Na
Xem chi tiết
_silverlining
19 tháng 1 2017 lúc 4:01

Câu 1: Vì sao phải khai thác và sử dụng các loại khoáng sản hợp lí và tiết kiệm

=> Vi:

-tài nguyên thiên nhiên ko phải là vô tận,để hinh thanh phải mất hàng triệu năm,nếu bị cạn kiệt khả năng phục hồi là rất khó.
-khóang sản có vai trò rất lớn trong các nganh ,khai thác,chế biến,công nghiệp năng lượng ,cn xây dựng đóng góp phần ko nhỏ trong sự phát triển của kinh tế quốc gia, thúc đây các ngành công nghiệp khác phat triển.
-sử dụng hơp li tn ks đảm bảo sự tồn tai lâu dài,bên vững ,
-giảm thiểu tình trạng khai thác bừa bãi,gây ô nhiễm môi trường,ô nhiểm nguồn nước,ko khí,....
=> bảo vệ tài nguyên tn là bảo vệ cho sự phat trien bên vững cua kinh tê dât nước,ko chỉ cho ngày hôm nay mak còn cho thế hệ mai sau

Câu 2: Booxit nằm trong các loại khoáng sản nào sau đây:

A Năng lượng ( nhiên liệu )

B Kim loại đen

C Kim loại màu

D Phi kim loại

Bình luận (0)
Nguyễn Thị Thùy Dương
20 tháng 1 2017 lúc 22:26

Mình sẽ giúp bạn trả lời câu hỏi này

1. * Nguồn khoáng sản thiên nhiên không phải là vô tận ,khoáng sản được hình thành trải qua một thời gian dài ,nếu ta khai thác và sử dụng không hợp lí thì chúng sẽ bị cạn kiệt nguồn nguyên liệu phục vụ cho con người

2. Boxit thuộc khoáng sản loại kim loại màu

Vậy ta chọn câu C

Chúc bạn học ngày càng giỏi !

Đừng quên chọn câu trả lời của mình nha !

Bình luận (0)
Lưu Hạ Vy
18 tháng 1 2017 lúc 21:26

Câu 1 :

Vì các mỏ khoáng sản nội sinh hay ngoại sinh đều đc hình thành trong 1 t/g dài hạn , hàng triệu năm , nên rất quý

Bình luận (0)
Khanh Nguyen
Xem chi tiết
Khanh Nguyen
17 tháng 1 2017 lúc 21:22

bucquako si biet lam a . ai tra loi duoc se co phan thuong

Bình luận (0)
Bình Trần Thị
17 tháng 1 2017 lúc 21:25

mỏ ngoại sinh được hình thành trong quá trình tích tụ vật chất, thường ở những chỗ trũng cùng với các loại đá trầm tích .

Bình luận (1)
_silverlining
17 tháng 1 2017 lúc 21:44

- Mỏ ngoại sinh: là những mỏ được hình thành do các quá trình ngoại lực (quá trình phong hoá, tích tụ...): than, đá vôi…

Bình luận (0)
Khanh Nguyen
Xem chi tiết
Nguyen Thi Mai
17 tháng 1 2017 lúc 21:00

Mỏ nội sinh và mỏ ngoại sinh có quá trình hình thành khác nhau:

- Mỏ nội sinh là mỏ khoáng sản được hình thành trong quá trình phun trào mác ma (núi lửa), hoặc do mác ma được đẩy lên gần bề mặt đất. Vì thế, chúng thường ở những nơi có đá mác ma lộ ra ngoài mặt đất hoặc ở gần mặt đất.

- Mỏ ngoại sinh là mỏ khoáng sản được hình thành do sự lắng đọng vật chất ở những chỗ trũng hoặc do phong hoá đá xảy ra trong thời gian dài ở trên bề mặt đất. Vì vậy, chúng có quan hệ nhiều với loại đá trầm tích và thường có trong các lớp đá trầm tích.

Bình luận (1)
Bình Trần Thị
17 tháng 1 2017 lúc 21:27

- mỏ nội sinh: là những mỏ khoáng sản được hình thành do măcma rồi được đưa lên gần mặt đất.
- mỏ ngoại sinh: những khoáng được hình thành trong quá trình tích tụ vật chất, thường ở những chỗ trũng cùng với các loại đá trầm tích, thì gọi là khoáng sản ngoại sinh.

Bình luận (0)
_silverlining
17 tháng 1 2017 lúc 21:43

- Mỏ nội sinh: là những mỏ được hình thành do nội lực (quá trình măcma): đồng, chì, kẽm.
- Mỏ ngoại sinh: là những mỏ được hình thành do các quá trình ngoại lực (quá trình phong hoá, tích tụ...): than, đá vôi…

Bình luận (0)
Khanh Nguyen
Xem chi tiết
_silverlining
17 tháng 1 2017 lúc 20:54

Mỏ nội sinh: là những mỏ khoáng sản được hình thành do măcma rồi được đưa lên gần mặt đất.

Bình luận (0)
Quốc Đạt
18 tháng 1 2017 lúc 10:08

- Mỏ nội sinh: là những mỏ được hình thành do nội lực (quá trình măcma): đồng, chì, kẽm.

Bình luận (0)
Sáng
18 tháng 1 2017 lúc 21:00

Mỏ ngoại sinh: những khoáng được hình thành trong quá trình tích tụ vật chất, thường ở những chỗ trũng cùng với các loại đá trầm tích, thì gọi là khoáng sản ngoại sinh.

Bình luận (0)
văn tài
Xem chi tiết
Người iu JK
11 tháng 1 2017 lúc 19:52

đăng 1 câu hỏi thôi đc ko bạn

Bình luận (3)
CÔNG CHÚA CỦA BA
11 tháng 1 2017 lúc 22:16

Vì những khoáng sản này do ngoại lực hình thành.

Chú thích:

Ngoại lực : là những lực được sinh ra ở bên ngoài ( trên bề mặt Trái Đất ) chủ yếu có 2 quá trình : quá trình phong hóa các loại đá và quá trình xâm thực ( do nước chảy, do gió... )

Bình luận (0)
Phạm Lan Hương
12 tháng 1 2017 lúc 14:30

vì than và dầu mỏ được tạo ra bởi ngoại lực (là những lực ở ngoài bề mặt trái đất , làm bề mặt trái đất thêm bằng phẳng)vui

Bình luận (0)
văn tài
Xem chi tiết
_silverlining
11 tháng 1 2017 lúc 22:22

Xem link này nha:

Bài 15 : Các mỏ khoáng sản - Hỏi đáp | Học trực tuyến - Hoc24 hoc24.vn/hoi-dap/bai-15-cac-mo-khoang-san.1348
Bình luận (0)
Phạm Lan Hương
12 tháng 1 2017 lúc 14:32

bạn xem ở bên trên nhé ,mk vừa trả lời rùiok

Bình luận (0)