Bạn tham khảo nhé
Đây là bài ca dao có sức sống trường tồn mãnh liệt hay và sâu sắc thâm nhập sâu rộng trong quần chúng nhân dân; phản ánh hình tượng cây sen qua bốn dòng thơ ngắn nhưng ẩn chứa sâu xa nhiều ý nghĩa của một loài cây có thể nói đẹp “ thể xác lẫn tâm hồn”. Nhiều hình ảnh miêu tả được lặp lại tưởng chừng như giản dị, dễ hiểu nhưng ý tứ lại sâu xa thông qua ngôn ngữ một cách tự nhiên nhằm khẳng định cốt cách thanh cao của loài hoa quí nơi thôn quê đồng nội, để qua đó khẳng định phẩm chất giản dị chân chất, mộc mạc nhưng thanh cao trong sáng của người nông dân quanh năm lam lũ dãi nắng dầm sương, chịu thương chịu khó.
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng”
Hai câu đầu tác giã sử dụng lối dẫn dắt, khẳng định giới thiệu rất tự nhiên về loài sen mang một giá trị tạo hình thật đặc biệt. Chúng ta liên tưởng trong một đầm sen bốn bề là mặt nước có thể có nhiều cây thảo mộc khác cùng chung sống nhưng tất cả không thể đẹp bằng sen. Khóm sen, bông sen nổi lên giữa đầm nước của mùa hạ trong xanh lấp lánh trong sắc trời, lung linh theo gió. Lá sen xanh xanh, tươi nhô lên mặt nước thật đẹp trong ánh nắng trời bao la. Bông sen nở rộ xoè cánh trắng muốt, sáng lên trong đầm sen và lan toả ở những miền quê đồng nội. Nhị vàng toả hương thơm nồng nàn, xao xuyến lòng người luôn vươn lên dưới ánh nắng mặt trời ngào ngạt hương thơm. Tác giả yêu sen nhiều lắm nên mới có cách miêu tả sâu sắc như vậy. Tác giả dân gian đã truyền tình yêu ấy qua bao năm tháng đến trái tim của hàng triệu người dân Việt và người ta có quyền háo hức muốn nghe những lời nói về vẻ đẹp của sen
Đến câu thứ ba “Nhị vàng, bông trắng, lá xanh Có một điều thú vị xẩy ra trong cánh miêu tả và sử dụng nghệ thuật miêu tả, miêu tả thực. Đến đây ta thấy có một sự đổi vần chữ thứ sáu câu lục bát thứ ba này không hề hiệp vần với chữ thứ tám câu lục bát thứ hai ở trên. Bài thơ đổi vần đột ngột.
Tác giả dân gian vẫn sử dụng chi tiết, hình tượng ngôn từ cũ nhưng đã có sự hoán vị đổi chỗ các từ ngữ trong câu. Câu thứ hai miêu tả theo tình tự ngoài vào trong: lá xanh rồi bông trắng và nhấn mạnh lại chen nhị vàng. “Nhị vàng” trong trường hợp này là danh từ dùng để bổ ngữ cho động từ “lại chen”, làm nổi bật tính chất nhỏ nhoi mong manh của nhuỵ trong lá xanh bông trắng tạo nên vẻ đẹp sáng trong trong quần thể kiến trúc của cây sen. Vì ở câu thơ này, ta thấy lá xanh, bông trắng, nhị vàng được hiểu như những danh từ. Các tính từ: xanh, trắng, vàng bổ sung nghĩa về màu sắc cho lá, bông, nhuỵ.
Câu thứ ba “Nhị vàng, bông trắng, lá xanh”. Ta thấy vàng, trắng, xanh ở đây đóng vai trò vị ngữ, nhị thì vàng, lá thì xanh, bông thì trắng làm tăng tính khẳng định xác nhận hình dáng màu sắc của sen. Với cách hoán đổi vị trí này các tác giả dân gian miêu tả hết sức tỷ mỹ về sen, lật từng lá sen xanh, chỉ từng bông sen trắng đếm từng nhị sen vàng để cũng cố niềm tin vào nhận xét vào khẳng định trong đầm không có gì đẹp bằng sen, chỉ có hoa sen đẹp nhất trong đầm sen.
Câu cuối là câu thơ đem đến một điều thú vị bất ngờ nhất trong mạch cảm xúc của bài thơ nâng hẳn chất của câu ca dao lên làm cho ta hiểu sâu hơn về một triết lý của cuộc sống sâu sắc:
“Gần bùn mà chẳng hôi tanh muì bùn”.
Thì ra thông qua vẻ đẹp của màu sắc, hương thơm của sen, quần chúng đã khéo léo đưa ra bài học về cách sống về đạo lý làm người. Bài học đạo lý lẽ sống ấy lại được rút ra một cách nhẹ nhàng từ cây sen đồng nội, nhẹ nhàng thâm thuý nhưng dễ tiếp nhận biết bao. Gần bùn mà không hôi tanh mùi bùn, cũng như gần mực mà không đen, thể hiện phẩm chất thanh cao, trong sáng, liêm khiết không dễ gì bị cám giỗ, sa đoạ trước hiện thực của cuộc sống. Phải chăng đó cũng là muốn phản ánh bản lĩnh, truyền thống tốt đẹp, trong sáng ,thanh cao của dân tộc Việt Nam được hun đúc, chắt lọc qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là một dân tộc anh hùng lam lũ cần cù, tự lực tự cường, kiên cường bất khuất trong tiến trình lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, vất vã gian truân nhưng trong sáng vô ngần.
Lá xanh bông trắng lại chẹn nhị vàng.
Nhị vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hồi tanh mùi bùn.
Không hiểu bài ca dao xuất hiện từ bao giờ nhưng có nhiều y kiến cho rằng đây là bái ca dao mà nghệ thuật tuyệt vời và ý nghĩa triết lí nhân sinh sâụ sắc gắn liền với nhau, tạo nên giá trị muôn đời.
Hình ảnh cây sen được miêu tả vừa cụ thể, chân thật vừa mang tính tượng trưng và khái quát rất cao. Ca ngợi vẻ đẹp của hoa sen, tác giả dân gian nhằm phản ánh niềm tự hào của con người Việt Nam là luôn giữ được tâm hổn trong sáng, phẩm chất thanh cao, dù hoàn cảnh sống có nghiệt ngã đến mức nào. Ở câu mở đầu: Trong đầm gì đẹp bằng sen. Tác giả đã khẳng định hoa sen đẹp nhất so với tất cả các loài hoa nở trong đầm bằng một câu hỏi tu từ khéo léo, lôi cuốn người nghe, đặt họ vào vị trí và tâm thế thưởng thức cùng với mình. Để rồi sau khi so sánh, cân nhắc họ sẽ rút ra kết luận không thể khác. Câu thứ hai: Lá xanh bông trắng tạỉ chen nhị vàng. Để chứng minh cho lời khẳng định ở trên là có cơ sở, tác giả tuần tự miêu tả vẻ đẹp của cây sen, từ lá xanh qua bồng trắng đến nhị vàng. Trên nền xanh của lá, nổi bật màu trắng tinh khiết của hoa; giữa màu trắng của hoa lại chen chút sắc vàng của nhị. Từ lại được dùng rất tài tình, có tác dụng nhấn mạnh sự đa dạng màu sắc của hoa sen, từ chen nói lên sự kết hợp hài hoà giữa hoa và nhị, tất cả như cùng đua đẹp, đua tươi. Cảnh đầm sen giống như một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp hiện lên dưới ngòi bút chấm phá thần tinh. Câu thứ ba. Nhị vàng bông trắng lá xanh, Câu này có vị trí đặc biệt trong toàn bài vì nó là câu chuyển (chuyển vần, chuyển nhịp, chuyển ý) để chuẩn bị cho câu kết. Từ câu thứ hai sang câu thứ ba có sự đột ngột, khác thường trong cách gieo vần {ang, anh) nhưng nhiều người không để ý. Sở dĩ như vậy là do sự chuyển vần và sự thay đổi trật tự các từ ngữ và hình ảnh đã được thực hiện một cách khéo léo, tự nhiên, hợp lí vể cả nội dung và hình thức. Hai chữ nhị vàng ở cuối câu thứ hai được lặp lại ở đầu câu thứ ba tạo nồn tính liên tục trong tư duy, cảm xúc và sự liên kết chặt chẽ giữa nội dung với hình thức trong toàn bài. Câu đầu và câu cuối là nhận định, đánh giá về vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của cây sen. Hai câu giữa tả thực đến từng chỉ tiết: lá xanh, bông trắng, nhị vàng (tả đi); rồi tả lại: Nhị vàng, bông trắng, lá xanh. Tả từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới. Dường như người tả đang cố chứng minh bằng được vẻ đẹp của sen: đẹp từ sắc lá đến màu hoa, màu nhị. Sau đó lại nhấn mạnh thêm bằng cách đảo ngược: đẹp từ màu nhị đến màu hoa, sắc lá. Nghệ thuật miêu tả ở đây mới đọc qua tưởng chừng đơn giản, song thực sự đã đạt tới trình độ điêu luyện, tinh vi. Nghệ thuật ấy đã tôn vinh hoa sen lên hàng hoa quý, xứng đáng tượng trưng cho vẻ đẹp của con người chân chính. Đọc mấy câu ca dao trên, chúng ta liên tưởng tới hình dáng thanh tao, kiêu hãnh của hoa sen và trong tâm tưởng cũng bừng nở một đóa sen tuyệt đẹp!Câu thứ tư: Gần bùn mà chẳng hồi tanh mùi bùn. Dù mang tính chất ẩn dụ tượng trưng nhưng trước hết vẫn là tả thực về môi trường sống của cây sen. Sen thường sống ở trong ao, trong đầm lầy, nơi có nhiều bùn. Ấy vậy má hoa sen lại rất thơm, một mùi thơm thanh khiết lạ lùng! Có thể coi đây là cái nút của toàn bài ca dao. Thiếu câu ca dao này, hình tượng của hoa sen vẫn tồn tại nhưng không có linh hồn và ý nghĩa. Nếu câu ca dao mở đầu là luận để mang ý nghĩa khái quát về hình tượng của hoa sen thì đến câu kết của bài thờ, hình tượng bông sen trong tự nhiên đã chuyển sang hình tượng bông sen trong cuộc đời một cách uyển chuyển, nhẹ nhàng, không có một sự gượng ép nào, do đó mà nghĩa bóng của hoa sen cũng mở rộng không giới hạn. Chính vì vậy mà tính chất tượng trưng, ẩn dụ của hình tượng thơ nổi lên, lấn át hình ảnh thực. Nó tựa hồ như một cánh cửa kì diệu, khép nghĩa đen lại và mở nghĩa bóng ra một cách thần tình.
Và thế là trong phút chốc, sen hóa thành người, bùn trong đầm (nghĩa đen) biến thành bùn trong cuộc đời (nghĩa bóng). Rồi cả hình ảnh cái đầm cùng mùi hôi tanh của bùn cũng được coi là ẩn dụ tượng trưng vì nó được hiểu theo, nghĩa bóng với những mức độ rộng hẹp, xa gần khác nhau, tuỳ theo trình độ mỗi người.
Lá xanh bông trắng lại chẹn nhị vàng.
Nhị vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hồi tanh mùi bùn.
Không hiểu bài ca dao xuất hiện từ bao giờ nhưng có nhiều y kiến cho rằng đây là bái ca dao mà nghệ thuật tuyệt vời và ý nghĩa triết lí nhân sinh sâụ sắc gắn liền với nhau, tạo nên giá trị muôn đời.
Hình ảnh cây sen được miêu tả vừa cụ thể, chân thật vừa mang tính tượng trưng và khái quát rất cao. Ca ngợi vẻ đẹp của hoa sen, tác giả dân gian nhằm phản ánh niềm tự hào của con người Việt Nam là luôn giữ được tâm hổn trong sáng, phẩm chất thanh cao, dù hoàn cảnh sống có nghiệt ngã đến mức nào. Ở câu mở đầu: Trong đầm gì đẹp bằng sen. Tác giả đã khẳng định hoa sen đẹp nhất so với tất cả các loài hoa nở trong đầm bằng một câu hỏi tu từ khéo léo, lôi cuốn người nghe, đặt họ vào vị trí và tâm thế thưởng thức cùng với mình. Để rồi sau khi so sánh, cân nhắc họ sẽ rút ra kết luận không thể khác. Câu thứ hai: Lá xanh bông trắng tạỉ chen nhị vàng. Để chứng minh cho lời khẳng định ở trên là có cơ sở, tác giả tuần tự miêu tả vẻ đẹp của cây sen, từ lá xanh qua bồng trắng đến nhị vàng. Trên nền xanh của lá, nổi bật màu trắng tinh khiết của hoa; giữa màu trắng của hoa lại chen chút sắc vàng của nhị. Từ lại được dùng rất tài tình, có tác dụng nhấn mạnh sự đa dạng màu sắc của hoa sen, từ chen nói lên sự kết hợp hài hoà giữa hoa và nhị, tất cả như cùng đua đẹp, đua tươi. Cảnh đầm sen giống như một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp hiện lên dưới ngòi bút chấm phá thần tinh. Câu thứ ba. Nhị vàng bông trắng lá xanh, Câu này có vị trí đặc biệt trong toàn bài vì nó là câu chuyển (chuyển vần, chuyển nhịp, chuyển ý) để chuẩn bị cho câu kết. Từ câu thứ hai sang câu thứ ba có sự đột ngột, khác thường trong cách gieo vần {ang, anh) nhưng nhiều người không để ý. Sở dĩ như vậy là do sự chuyển vần và sự thay đổi trật tự các từ ngữ và hình ảnh đã được thực hiện một cách khéo léo, tự nhiên, hợp lí vể cả nội dung và hình thức. Hai chữ nhị vàng ở cuối câu thứ hai được lặp lại ở đầu câu thứ ba tạo nồn tính liên tục trong tư duy, cảm xúc và sự liên kết chặt chẽ giữa nội dung với hình thức trong toàn bài. Câu đầu và câu cuối là nhận định, đánh giá về vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của cây sen. Hai câu giữa tả thực đến từng chỉ tiết: lá xanh, bông trắng, nhị vàng (tả đi); rồi tả lại: Nhị vàng, bông trắng, lá xanh. Tả từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới. Dường như người tả đang cố chứng minh bằng được vẻ đẹp của sen: đẹp từ sắc lá đến màu hoa, màu nhị. Sau đó lại nhấn mạnh thêm bằng cách đảo ngược: đẹp từ màu nhị đến màu hoa, sắc lá. Nghệ thuật miêu tả ở đây mới đọc qua tưởng chừng đơn giản, song thực sự đã đạt tới trình độ điêu luyện, tinh vi. Nghệ thuật ấy đã tôn vinh hoa sen lên hàng hoa quý, xứng đáng tượng trưng cho vẻ đẹp của con người chân chính. Đọc mấy câu ca dao trên, chúng ta liên tưởng tới hình dáng thanh tao, kiêu hãnh của hoa sen và trong tâm tưởng cũng bừng nở một đóa sen tuyệt đẹp!Câu thứ tư: Gần bùn mà chẳng hồi tanh mùi bùn. Dù mang tính chất ẩn dụ tượng trưng nhưng trước hết vẫn là tả thực về môi trường sống của cây sen. Sen thường sống ở trong ao, trong đầm lầy, nơi có nhiều bùn. Ấy vậy má hoa sen lại rất thơm, một mùi thơm thanh khiết lạ lùng! Có thể coi đây là cái nút của toàn bài ca dao. Thiếu câu ca dao này, hình tượng của hoa sen vẫn tồn tại nhưng không có linh hồn và ý nghĩa. Nếu câu ca dao mở đầu là luận để mang ý nghĩa khái quát về hình tượng của hoa sen thì đến câu kết của bài thờ, hình tượng bông sen trong tự nhiên đã chuyển sang hình tượng bông sen trong cuộc đời một cách uyển chuyển, nhẹ nhàng, không có một sự gượng ép nào, do đó mà nghĩa bóng của hoa sen cũng mở rộng không giới hạn. Chính vì vậy mà tính chất tượng trưng, ẩn dụ của hình tượng thơ nổi lên, lấn át hình ảnh thực. Nó tựa hồ như một cánh cửa kì diệu, khép nghĩa đen lại và mở nghĩa bóng ra một cách thần tình.
Và thế là trong phút chốc, sen hóa thành người, bùn trong đầm (nghĩa đen) biến thành bùn trong cuộc đời (nghĩa bóng). Rồi cả hình ảnh cái đầm cùng mùi hôi tanh của bùn cũng được coi là ẩn dụ tượng trưng vì nó được hiểu theo, nghĩa bóng với những mức độ rộng hẹp, xa gần khác nhau, tuỳ theo trình độ mỗi người.
Có một cái gì đó rất gần gũi, đổng điệu giữa phẩm chất của hoa sen và phẩm chất của người lao động. Mùi bùn gợi liên tưởng đến những cái xấu xa, thấp hèn của mặt trái xã hội phong kiến thời suy tàn cùng với lũ tham quan ô lại vô liêm sỉ.
Nhân dân lao động, đặc biệt là nông dân gần gũi với hoa sen, hiểu và yêu quý sen hơn cả. Họ đã nhiều lần trân trọng đưa hoa sen vào ca dao. Họ mượn cái thanh khiết lạ kì của hoa sen để bày tỏ, gửi gắm tâm sự của mình. Với bài ca dao này, hoa sen đã lưu lại mãi mãi vẻ đẹp và hương thơm cao quý vào văn chương và vào lòng người dân đất Việt.
Tham khảo nhé bạn
Tuổi thơ của em đã trôi qua êm đềm trong tiếng mẹ ru, tiếng bà ngọt ngào thủ thỉ. Bao lời ru, bao bài hát đã trở thành một phần tâm hồn của em, nâng đỡ em trong cuộc sống. Bài ca dao Hoa sen cũng vậy, nó thâm nhập vào tim em với chất giọng dịu dàng, thanh thoát, nó giúp em suy nghĩ chính chắn về con người Việt Nam, khơi dậy trong em niềm xúc động chân thành nhất:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Ngày từ lúc còn ấu thơ, tuổi nhỏ chúng ta đã thấm đượm hương vị ngọt ngào, thơm ngát của hoa sen, lưu luyến một chút vị dịu dàng trên đầu lưỡi của tách trà ướp sen trong mát. Hoa sen đã in vào tâm trí chúng ta bởi những hình ảnh êm đẹp, nhẹ nhàng nhất. Và bài ca dao cũng đã mở đầu nhẹ nhàng êm đẹp như thế!
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Câu ca dao là lời khẳng định vẻ đẹp của hoa sen. Trong đầm đầy bùn đen đó, không có gì đẹp bằng hoa sen. Lời khẳng định thật tự nhiên nói lên một chân lí đều được mọi người biết đên. Thế hoa sen có gì mà đẹp? Bài ca dao trả lời:
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Chỉ có ba sắc màu xanh, trắng, vàng nhưng bức tranh được tạo nên thật hài hòa trang nhã. Nổi bật trên nền xanh mướt của lá, bông sen vươn cao, xòe cánh hoa trắng muốt như toát lên sự trinh nguyên trong trắng đến tuyệt vời. Và e dè, ẩn hiện dưới những cánh hoa là những cái nhị vàng xinh xinh đang nép vào nhau. Không rực rỡ kiêu sa, hoa sen dịu dàng giản dị, đơn sơ mà thanh khiết làm sao!
Ta tiếp tục say mê, thích thú với sắc đẹp của hoa
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Nếu không có một khoảnh khắc tỉnh lại, có lẽ ta không nhận ra câu ca dao đã đổi ngược một cách đột ngột. Việc chuyển vần đổi nhịp ấy, ta có thể hình dung nó như dòng nước đang chảy xuôi, bỗng gặp cái đập chắn ngang buộc dòng nước phải đổi chiều. Chính vì vậy, ta thấy dường như câu thơ kéo ta lại để nhìn cho rõ, để kiểm nghiệm lại. Nét thú vị của bài ca dao chính là chỗ đó. Ta thử đọc lại câu thơ một lần nữa.
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Dưới lời thơ dồn dập ấy, tưởng có gì lạ, nào ngờ đó chỉ là sự đảo ngược trật tự các hình tượng của câu thơ trước và sau. Cũng vẫn là ba sắc màu thanh nhã ấy – ta có thể hình dung dường như có ai đó đang đếm từng lá sen xanh, lật từng cánh sen trắng, chỉ từng nhị sen vàng như để giảng giải, để chứng minh với mọi người hoa sen là thế đấy! Nó tinh khiết trắng trong không vướng chút bợn nhơ nào. Và phẩm chất của hoa sen bừng lên sáng đẹp một chân lí.
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
Ta chợt vỡ lẽ, điều tác giả muốn nói đến là đây, ý tác giả cần nêu lên là đây. Bông hoa rạng rỡ, tỏa hương thơm ngát giữa đầm lầy u tối làm bừng sáng cả bài ca dao. Từng lời thơ, nhịp điệu đến câu chữ được kết hợp, hòa lẫn một cách nhuần nhuyễn như máu với thịt làm sáng rõ chân lí sáng ngời. Phẩm chất tốt đẹp của loài hoa đồng nội Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Ca dao là tiếng hát tâm tình của người dân lao động, làm dịu nỗi nhọc nhằn của họ trên ruộng đồng, nương rẫy. Giọng điệu bài ca dao nhẹ nhàng ấm áp, êm đềm, đơn giản chân chất như lời tâm sự của người dân lao động Việt Nam. Họ mượn bài ca để bộc bạch nỗi lòng trong trắng thanh cao của mình trong mọi hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống. Ta không thể quên được nỗi vất vả, gian truân mà họ phải trải qua. Ta thông cảm, hiểu rõ họ hơn bởi đã có bao nhiêu lão Hạc thà chết để giữ gìn danh dự, bao nhiêu chị Dậu lao đi trong đêm đen để bảo toàn chữ tiết trinh, trong trắng thủy chung, bao nhiêu con cò đã cất lời cầu xin chút ân huệ được chết trong để nâng niu tấm lòng trong trắng cho đến phút cuối cuộc đời.
Nhưng xét cho cùng, qua hình ảnh độc đáo được chọn lọc khéo léo trong bài ca dao, hình như đây là lời phân trần của những nhà trí thức phong kiến xưa kia. Chính từ chỗ đảo ngược vị trí của câu ca dao, ta nghe lời thơ như nghẹn ngào uất ức, dâng lên nỗi xót xa của những người đang tự bộc bạch, minh oan về một điều mà trong xã hội ấy khó ai tin được. Sống giữa chế độ xấu xa thối nát, họ là những đóa sen ngát hương lặng lẽ, âm thầm vươn lên trong sáng. Ở đây câu ca dao có vẻ gì nặng nề, có gì đó chua xót, thật khác hẳn với câu thơ của Bảo Định Giang.
Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ
Tháp Mười đẹp vì có hoa sen, Việt Nam đẹp vì có Bác Hồ. Hình ảnh lời thơ kết hợp hài hòa mà thống nhất, nó mới nhẹ nhàng thanh thoát làm sao!
Bài ca dao Hoa sen đã đi vào tâm hồn của mỗi người dân Việt Nam. Nó trở thành một phần máu thịt của mỗi chúng ta. Nó hòa quyện vào tâm hồn chúng ta làm bừng sáng truyền thống cao đẹp vốn cổ từ xưa. Cho đến hôm nay và mãi mãi về sau, bài ca dao không bao giờ bị lãng quên mà luôn được bổ sung thêm để hình thành nhân cách, đạo đức của mỗi con người. Tất cả chỉ từ một lời ru: Trong đầm gì đẹp bằng sen…
Nét trong sáng, cao đẹp trong tâm hồn con người Việt Nam từ bao đời được ca ngợi là chủ đề của nhiều câu tục ngữ, ca dao vô giá. Chúng ta không thể quên bài ca dao quen thuộc:
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Qua đó, ta nhận thức được điều gì từ ý nghĩa này?
Bằng ngôn từ trong sáng, giản dị nhất, bài ca dao làm nổi bật hình ảnh bóng sen thơm ngát, đang nở trên đầm lầy nước đong. Bông sen đơn sơ, chân chất như người dân lao động mang nét đẹp bình dị, thôn dã lúc nào cũng ngan ngát tỏa hương, hương thơm đặc biệt tinh khiết không pha lẫn một vị nào khác dù hoa sen ở “trong đầm”. Đầm lầy càng u tối, thối tha thì bông hoa càng đẹp đẽ, sáng tươi. Thông qua bài ca dao, hình ảnh của người dân lao động Việt Nam hiện lên một cách thật tự nhiên, hợp lí đến tài tình. Tâm hồn của mỗi con người được ví như một bông hoa thơm ngát, dù sống ở đâu, trong hoàn cảnh nào cũng giữ riêng cho mình nét trong trắng, thanh cao nguyên vẹn.
Sống trong sạch từ bao đời là quy tắc, luật sống của con người Việt Nam. Nó trở thành đạo đức, nhân cách, được bồi dưỡng và bổ sung truyền dạy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngay từ chế độ phong kiến nhiễu nhương, thối nát, những nhà nho, trí thức đã quan niệm “giấy rách phải giữ lấy lề” để sống một cách thanh bạch, giản dị nhưng vô cùng chân thật. Cuộc sống đầy những cạm bẫy, càng lúc càng phô trương trình bày đầy đủ những thói xấu của loài người. Nếu như ai cũng sống theo kiểu “gần mực thì đen” thì có lẽ cả xã hội này không còn tồn tại người tốt. Nhưng với truyền thống đạo lí cao đẹp từ xa xưa, người dân Việt Nam luôn ngẩng cao đầu, sử dụng nhân cách quý giá của chính mình để sống và hành động một cách chân chính nhất. Xã hội càng xấu xa thối nát chừng nào thì con người Việt Nam càng sáng trong chừng ấy. Chúng ta không thể quên bi kịch về cái chết của “Lão Hạc”, một nông dân chất phác, quê mùa thà chết để giữ được thanh danh không vướng bợn nhơ xấu xa. Chúng ta không thể quên được hình ảnh chị Dậu, trong một đêm “nhà ngói như nhà tranh” chị đã vùng chạy ra trong đêm tối đen như “tiền đồ của chị” để giữ lấy tiết hạnh, lòng thủy chung với chồng con. Và ta càng không thể quên được lời tha thiết, xót xa, nức nở của “con cò” ăn đêm, quyết giữ tâm hồn trong trắng đến phút cuối cuộc đời.
Đây có phải là hiện thân của người dân lao động? Quả vậy, kế tục và phát huy truyền thống cao đẹp, họ luôn sống một cách ngay thẳng, chân thực trong bất cứ hoàn cảnh nào, trở thành những đóa sen thơm ngát giữa đầm.
Không thể không có những bông hoa rũ cánh, cúi xuống đầm lầy để vướng phải bùn nhơ. Cũng như trong xã hội, không thiếu những kẻ đứng trước hoàn cảnh khó khăn đã không giữ được mình, nhắm mắt sa chân vào con đường đen tối. Tư tưởng hám danh hám lợi, cầu thân đã đưa họ đến những hành động đi ngược lại với lương tâm, đạo lí con người. Từ những việc nhỏ nhặt họ đã không giữ được bản thân mình cho được trong sạch thì đến những việc quan trọng, to lớn hơn làm sao họ không trở nên xấu xa nguy hiểm. Loại người như vậy là một gánh nặng, một căn bệnh của xã hội, càng trở nên trầm trọng trong cuộc sống hôm nay. Đất nước đang cần, hơn bao giờ hết những người mang đạo đức cách mạng, hết lòng vì dân mà phục vụ. Nối tiếp truyền thống xưa, các cán bộ chân chính hôm nay cũng trở thành những đóa hoa sen. Sống giữa khó khăn của xã hội đầy cạm bầy, lọc lừa họ vẫn xác định cho mình một lí tưởng đúng đắn. Để làm một đóa hoa sen cho mai sau, ngay từ bây giờ, ta phải tu dưỡng đạo đức, rèn luyện tinh thần, học hỏi thêm nhiều điều bổ sung lí trí nhằm có suy nghĩ chính xác khi đứng trước những ngã rẽ, biết đi trên những “lối mòn” quí giá của dân tộc, thêm vào những nhận thức mới mẻ của thời đại. Tất cả sẽ giúp ta trở thành người công dân tốt; không hổ thẹn với truyền thống xưa đồng thời ta cũng tự hào vì đã một phần tiếp tục phát huy di sản này.
Nói tóm lại, là người dân Việt Nam, chúng ta có quyền tự hào về tất cả những gì cao đẹp được ông bà xưa truyền lại, nhất là ở tâm hồn trong trắng.
Bạn tham khảo nhé!
– Sức sống của bài ca dao lâu bền cùng sự trường tồn của dân tộc Việt Nam.
Ca dao là tiếng nói tình cảm thể hiện đời sống tinh thần phong phú của nhân dân lao động. Đó là tấm lòng đối với người thân, với quê hương đất nước. Trong số những bài ca dao được sáng tác bởi nhân dân và được lưu truyền bởi nhân dân có không ít những kiệt tác. Bài ca dao sau là một trong số đó, không chỉ lấp lánh vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn ánh lên vẻ đẹp trong tâm hồn con người:
"Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Bài ca dao mở ra hình ảnh một đầm sen bát ngát. Đã là đầm sen thì hẳn hoa sen là thứ đẹp đẽ nhất:
"Trong đầm gì đẹp bằng sen"
Câu ca dao có dáng dấp của một câu hỏi "gì đẹp bằng sen" nhưng thực chất đó là một lời khẳng định: Trong đầm không có gì đẹp bằng sen, sen là đẹp nhất. Cách sử dụng câu hỏi tu từ như vậy bộc lộ niềm kiêu hãnh, tự hào về vẻ đẹp hiếm có của hoa sen.
Vậy sen đẹp như thế nào?
"Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh"
Những bộ phận, chi tiết của sen được ngắm nghía, nhận xét khá khắt khe từ "lá", "bông" đến "nhị". Màu sắc của chúng rất sắc nét, rõ ràng "Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng". Màu xanh, màu trắng, màu vàng. Câu ca dao hoàn toàn tả thực đồng thời làm nổi bật những sắc màu tự nhiên, hài hoà của sen. Từ "lại" nhấn mạnh đến sự phong phú, hài hoà rất tự nhiên, giản dị và cũng rất đẹp đẽ ấy. Câu ca dao tiếp hoàn toàn không có ý mới, chỉ là nhắc lại ý trên có đảo trật tự các cụm từ: "Nhị vàng, bông trắng, lá xanh". Vừa trên, bông hoa được ngắm nhìn từ ngoài vào trong, đến đây lại được ngắm từ trong ra ngoài. Sự xem xét ấy kĩ lưỡng, tỉ mỉ lắm, các vế câu đối nhau rất nhịp nhàng, được tách riêng ra bởi dấu phẩy (,); tưởng như người ngắm lật từng phần của sen mà chiêm ngưỡng vậy. Đến lần thứ hai này, sắc màu của sen không hề thay đổi, vẫn là những sắc màu rất giản dị và tự nhiên như thế. Hai câu ca dao lặp lại ý khiến người đọc tò mò về chủ định của tác giả. Và câu cuối cùng đã tháo gỡ những thắc mắc ấy:
"Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn"
Ý thơ mới tuyệt vời làm sao! Từ những sắc màu tươi tắn, thanh khiết của sen, tác giả dân gian liên tưởng đến sự trong sạch đến kì diệu của loài hoa này: gần chốn đầm lầy bùn đọng hôi tanh nhưng không hề bị cái ô uế làm cho phai hương nhạt sắc. Thì ra, việc người thưởng hoa ngắm nghía xem xét bông hoa kĩ lưỡng đến nhường kia là để chắc chắn về cái chất của nó. Khi sự xác minh đã hoàn tất, hoa sen đã vượt qua sự kiểm định khắt khe nhất và được vinh danh trong câu ca dao khép lại của bài: "Gần bùn ma chẳng hôi tanh mùi bùn".
Nhưng bài ca dao không dừng lại ở việc ngợi ca loài hoa thân quen của chốn hương đồng gió nội. Ăn sau đó là những tầng nghĩa sâu xa. Bùn trong đầm hôi tanh là có thực. Nhưng vẻ đẹp thuần khiết của hoa sen cũng là thực. Và trong cái nắng oi bức của trưa hè, mùi thơm ngát hương của sen còn khiến ta quên đi mùi bùn kia nữa. Khi đó, sự thanh cao đã lấn át, đã chiến thấng cái thấp hèn, nhỏ mọn. Không chỉ vậy, hoa sen còn là loài hoa rất gần gũi, thân thiết với đời sống lao động và sinh hoạt của người nông dân Việt Nam. Bởi vậy, ngợi ca hoa sen còn là thầm kiêu hãnh tự hào về vẻ đẹp tiềm ẩn của bản thân mình. Hoa sen đã trở thành hình ảnh ẩn dụ cho cả một giai cấp, cả một dân tộc. Con người Việt Nam dẫu nghèo đói, bần hàn, dẫu bị áp bức bóc lột rồi bị đẩy đến đáy cùng xã hội nhưng vẫn giữ được những bản chất tốt đẹp lương thiện. Nhắc đến đây, ta chợt nhớ đến những chị Dậu, lão Hạc... trong các thiên truyện đầu thế kỉ XX.
"Trong đầm gì đẹp bằng sen" là một bài ca dao hay và đẹp không chỉ ở hình ảnh thơ mà còn ở những lớp nghĩa sâu sắc, giàu tính nhân văn. Bài ca dao đã khép lại những dư âm về một loài hoa diệu kì vẫn còn đó. Chính bởi vẻ đẹp giản dị, trong sáng và thanh cao của mình, hoa sen đã được chọn làm biểu tượng cho tâm hồn, tính cách người Việt Nam.
Tuổi thơ của em đã trôi qua êm đềm trong tiếng mẹ ru, tiếng bà ngọt ngào thủ thỉ. Bao lời ru, bao bài hát đã trở thành một phần tâm hồn của em, nâng đỡ em trong cuộc sống. Bài ca dao Hoa sen cũng vậy, nó thâm nhập vào tim em với chất giọng dịu dàng, thanh thoát, nó giúp em suy nghĩ chính chắn về con người Việt Nam, khơi dậy trong em niềm xúc động chân thành nhất:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Ngày từ lúc còn ấu thơ, tuổi nhỏ chúng ta đã thấm đượm hương vị ngọt ngào, thơm ngát của hoa sen, lưu luyến một chút vị dịu dàng trên đầu lưỡi của tách trà ướp sen trong mát. Hoa sen đã in vào tâm trí chúng ta bởi những hình ảnh êm đẹp, nhẹ nhàng nhất. Và bài ca dao cũng đã mở đầu nhẹ nhàng êm đẹp như thế!
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Câu ca dao là lời khẳng định vẻ đẹp của hoa sen. Trong đầm đầy bùn đen đó, không có gì đẹp bằng hoa sen. Lời khẳng định thật tự nhiên nói lên một chân lí đều được mọi người biết đên. Thế hoa sen có gì mà đẹp? Bài ca dao trả lời:
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Chỉ có ba sắc màu xanh, trắng, vàng nhưng bức tranh được tạo nên thật hài hòa trang nhã. Nổi bật trên nền xanh mướt của lá, bông sen vươn cao, xòe cánh hoa trắng muốt như toát lên sự trinh nguyên trong trắng đến tuyệt vời. Và e dè, ẩn hiện dưới những cánh hoa là những cái nhị vàng xinh xinh đang nép vào nhau. Không rực rỡ kiêu sa, hoa sen dịu dàng giản dị, đơn sơ mà thanh khiết làm sao!
Ta tiếp tục say mê, thích thú với sắc đẹp của hoa
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Nếu không có một khoảnh khắc tỉnh lại, có lẽ ta không nhận ra câu ca dao đã đổi ngược một cách đột ngột. Việc chuyển vần đổi nhịp ấy, ta có thể hình dung nó như dòng nước đang chảy xuôi, bỗng gặp cái đập chắn ngang buộc dòng nước phải đổi chiều. Chính vì vậy, ta thấy dường như câu thơ kéo ta lại để nhìn cho rõ, để kiểm nghiệm lại. Nét thú vị của bài ca dao chính là chỗ đó. Ta thử đọc lại câu thơ một lần nữa.
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Dưới lời thơ dồn dập ấy, tưởng có gì lạ, nào ngờ đó chỉ là sự đảo ngược trật tự các hình tượng của câu thơ trước và sau. Cũng vẫn là ba sắc màu thanh nhã ấy – ta có thể hình dung dường như có ai đó đang đếm từng lá sen xanh, lật từng cánh sen trắng, chỉ từng nhị sen vàng như để giảng giải, để chứng minh với mọi người hoa sen là thế đấy! Nó tinh khiết trắng trong không vướng chút bợn nhơ nào. Và phẩm chất của hoa sen bừng lên sáng đẹp một chân lí.
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
Ta chợt vỡ lẽ, điều tác giả muốn nói đến là đây, ý tác giả cần nêu lên là đây. Bông hoa rạng rỡ, tỏa hương thơm ngát giữa đầm lầy u tối làm bừng sáng cả bài ca dao. Từng lời thơ, nhịp điệu đến câu chữ được kết hợp, hòa lẫn một cách nhuần nhuyễn như máu với thịt làm sáng rõ chân lí sáng ngời. Phẩm chất tốt đẹp của loài hoa đồng nội Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Ca dao là tiếng hát tâm tình của người dân lao động, làm dịu nỗi nhọc nhằn của họ trên ruộng đồng, nương rẫy. Giọng điệu bài ca dao nhẹ nhàng ấm áp, êm đềm, đơn giản chân chất như lời tâm sự của người dân lao động Việt Nam. Họ mượn bài ca để bộc bạch nỗi lòng trong trắng thanh cao của mình trong mọi hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống. Ta không thể quên được nỗi vất vả, gian truân mà họ phải trải qua. Ta thông cảm, hiểu rõ họ hơn bởi đã có bao nhiêu lão Hạc thà chết để giữ gìn danh dự, bao nhiêu chị Dậu lao đi trong đêm đen để bảo toàn chữ tiết trinh, trong trắng thủy chung, bao nhiêu con cò đã cất lời cầu xin chút ân huệ được chết trong để nâng niu tấm lòng trong trắng cho đến phút cuối cuộc đời.
Nhưng xét cho cùng, qua hình ảnh độc đáo được chọn lọc khéo léo trong bài ca dao, hình như đây là lời phân trần của những nhà trí thức phong kiến xưa kia. Chính từ chỗ đảo ngược vị trí của câu ca dao, ta nghe lời thơ như nghẹn ngào uất ức, dâng lên nỗi xót xa của những người đang tự bộc bạch, minh oan về một điều mà trong xã hội ấy khó ai tin được. Sống giữa chế độ xấu xa thối nát, họ là những đóa sen ngát hương lặng lẽ, âm thầm vươn lên trong sáng. Ở đây câu ca dao có vẻ gì nặng nề, có gì đó chua xót, thật khác hẳn với câu thơ của Bảo Định Giang.
Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ
Tháp Mười đẹp vì có hoa sen, Việt Nam đẹp vì có Bác Hồ. Hình ảnh lời thơ kết hợp hài hòa mà thống nhất, nó mới nhẹ nhàng thanh thoát làm sao!
Bài ca dao Hoa sen đã đi vào tâm hồn của mỗi người dân Việt Nam. Nó trở thành một phần máu thịt của mỗi chúng ta. Nó hòa quyện vào tâm hồn chúng ta làm bừng sáng truyền thống cao đẹp vốn cổ từ xưa. Cho đến hôm nay và mãi mãi về sau, bài ca dao không bao giờ bị lãng quên mà luôn được bổ sung thêm để hình thành nhân cách, đạo đức của mỗi con người. Tất cả chỉ từ một lời ru: Trong đầm gì đẹp bằng sen…
Có lẽ nếu có cuộc bình chọn loại hoa nào vừa dân dã, gần gũi với đời sống người dân nông thôn đồng bằng Việt Nam vừa toát lên vẻ cao quý, thanh khiết thì hoa sen ắt hẳn giành “vương miện”. Quả thật đồng bằng nước ta từ Bắc vào Nam đâu đâu cũng có hoa sen. Hoa sen được vẽ trang trí trên đồ gia dụng. Hoa sen cũng là mô típ tạo hình cho cả Thiền môn. Đức Phật từ bi toạ trên đoá sen. Chùa Một Cột tiêu biểu cho kiến trúc ViệtNam là hình ảnh cách điệu của đoá sen nổi trên hồ nước. Núi Dục Thuý, một vùng sơn thanh thuỷ tú lừng danh, cũng được thi hào Nguyễn Trãi ví với đoá sen. Những con người tài trí lỗi lạc cũng lấy sen để biểu lộ cho cốt cách tài năng của mình như trường hợp của Mạc Đĩnh Chi trong “Ngọc tỉnh liên phú”. Trong thời đại cách mạng, nhân dân Miền Namđã tự hào:
“Tháp Mười đẹp nhất hoa sen.
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”.
Thật thú vị, từ thời xa xưa nhân dân Việt Nam đã từng ấp iu bài ca dao nổi tiếng về loài hoa này:
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”
Bài ca dao này, chúng tôi đã được học từ thời “vỡ lòng” và thật bất ngờ nó có một sức sống dai dẳng trong lòng tưởng chừng nhập tâm đến mức không ý thức được sự cần thiết phải cắt nghĩa xem nó hay, nó đẹp ở chỗ nào!
Lời thơ lục bát ở đây tưởng bình lặng tuôn chảy qua bốn dòng thơ, nhiều hình ảnh được lặp lại tưởng chừng rất giản dị, dễ hiểu. Lời kết bài tưởng như cũng được lẩy ra một cách tự nhiên khẳng định cốt cách thanh cao của loài hoa quý nơi đồng nội để qua đó khẳng định phẩm chất thanh cao của người nông dân quanh năm lam lũ nơi “bùn lầy nước đọng”. Nhưng rồi đọc lại, ta vẫn thấy vỡ ra bao điều thú vị.
Hai câu đầu tác giả dân gian sử dụng lối dẫn dắt, giới thiệu rất tự nhiên, chân mộc - Trong đầm gì đẹp bằng sen. Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng- nhưng mang một giá trị tạo hình thật đặc biệt: Khóm sen nổi trội lên giữa đầm nước mùa hạ trong xanh dưới ánh nắng trời. Sắc lá xanh tươi như những chiếc ô xinh xắn nhô lên mặt nước, mát mắt, ưa nhìn. Bông sen mở cánh trắng muốt sáng lên dưới nắng trời, toả hương ngào ngạt từ nhị hoa vàng, Cách miêu tả từ bao quát đến chi tiết bằng những màu sắc tươi tắn hài hoà như vậy quả chứa đựng tình yêu sen nhiều lắm! Tác giả dân gian đã truyền tình yêu ấy qua hàng trăm, hàng nghìn năm nay đến trái tim của hàng triệu người dân Việt. Và người ta có quyền háo hức muốn nghe “hướng dẫn viên” nói gì nữa về vẻ đẹp của sen:
'Nhị vàng, bông trắng, lá xanh'
Thì ra vẫn là các chi tiết cũ. Chính các chi tiết đã biết này khiến ta “mất cảnh giác”, dễ thiếu thận trọng đúng mức trong thưởng thức. Ngẫm ra chữ thứ sáu câu lục thứ ba này không hề hiệp vần với với chữ thứ tám câu bát bên trên. Như vậy bài thơ đã đổi vần đột ngột. Vần trong thơ khác nào hệ thống kinh mạch trong một cơ thể con người. Sự đổi thay đột ngột nào chẳng gây những chấn động . Nhà thơ Huy Cận đã so sánh việc đổi vần này “có khác nào như một dòng nước đang chảy xuôi, ta dựng lên một cái đập, hoặc buộc dòng nước đổi chiều, đổi vần để bắt chúng ta phải chú ý, chỗ dòng nước cuộn lên, buộc ta phải quan sát, phải chứng kiến một sự kiện gì đây…” ( Báo Văn nghệ số 327)
Thì ra chỗ nhà thơ dân gian buộc chúng ta phải lưu ý là tuy vẫn nêu lại các chi tiết cũ nhưng đã có sự hoán đổi vị trí của chúng. Câu trên miêu tả theo trình tự từ ngoài vào trong: lá xanh, rồi bông trắng và nhấn mạnh “lại chen nhị vàng”. Dùng nhị vàng trong chức vụ bổ ngữ cho ngữ động từ “lại chen” càng nêu bật tính chất nhỏ nhoi, mong manh của nó. Do sự đăng đối trong cấu tạo, lá xanh, bông trắng, nhị vàng được hiểu như là những ngữ danh từ. Xanh, trắng vàng đóng vai trò định ngữ. Đến câu sau nhị vàng được nêu lên đầu tiên, rồi đến bông trắng và cuối cùng là lá xanh. Cũng do cấu trúc đăng đối nên có thể hiểu vàng, trắng, xanh ở đây đóng vai trò vị ngữ (Nhị thì vàng, bông thì trắng; lá thì xanh) làm tăng tính khẳng định, xác nhận những đặc điểm của sen. Chúng ta hình dung như được tác giả dân gian đang tỉ mỉ “lật từng lá sen xanh, chỉ từng bông sen trắng, đếm từng nhị sen vàng” để củng cố niềm tin của ta vào nhận xét “trong đầm gì đẹp bằng sen” (Huy Cận - Tài liệu đã dẫn) đã được nêu một cách tường minh ở câu thơ mở bài. Ừ, thì hoa sen đẹp thật , đẹp nhất trong đầm rồi!
Nhưng tác giả dân gian đâu nỡ để ta dừng lâu ở cảm nhận hời hợt, bề mặt ấy. Câu cuối đến như một “giọt nước làm đầy cốc nước” nâng hẳn chất của câu ca dao lên. Người nghệ sĩ dân gian đâu chỉ phô diễn nghệ thuật tạo hình và đâu chỉ thuyết phục người ta về tài năng miêu tả mà còn là thuyết phục người ta về triết lí “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Thì ra từ vẻ đẹp của màu sắc, hương thơm của sen người nghệ sĩ bình dân xưa đã khéo léo đưa ra bài học về cách sống, về đạo lí làm người. Bài học đạo lí, lẽ sống ấy lại được rút ra một cách nhẹ nhàng từ thảo mộc quê hương. Nhẹ nhàng, hợp lí, thâm thuý và dễ tiếp nhận biết bao!
Bài ca dao có sự hài hoà máu thịt giữa hình thức nghệ thuật (vần thơ, cách miêu tả, cách sử dụng từ ngữ) với tình cảm, ý tưởng, xứng đáng là một hòn ngọc quý trong kho tàng thơ ca dân gian dân tộc. Lời thơ giản dị, ý tưởng sâu xa thuyết phục người nghe, cả tình cảm lẫn lí trí. Phải chăng bài ca dao này là điểm xuất phát để kiến tạo nên những vần thơ bác học có hình ảnh hoa sen cao khiết, thanh thoát đã nói trên? Nhân dân Nam Bộ tự hào: “Thấy dừa thì nhớ Bến Tre. Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mười” phải chăng cũng xuất phát từ một cội nguồn tươn
Ca dao tục ngữ Việt Nam thể hiện truyền thống đạo lý của con người, là tình cảm của nhân dân với quên hương đát nước, với con người và toàn thể xung quanh con người, không chỉ vậy nó còn là nét đẹp tâm hồn, là phẩm chất cao quý của con người, của cả dân tộc Việt nam. Nét đẹp ấy được nhắc nhở qua hình ảnh rất quen thuộc thể hiện qua câu ca dao:
“ Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”
Câu ca dao đơn giản mà mộc mạc chân chất, ta cùng đi tìm hiểu ý nghĩa của bài ca dao để cảm nhận được nét đẹp ẩn chứa trong con người Việt nam.
Bài ca dao được nhắc nhở một hình ảnh rất quen thuộc, đó là hình ảnh bông sen quen thuộc gợi hương thơm tinh khiết giữa ao đầm. hoa sen mang một nét đẹp đơn sơ, chân chất như nét đẹp bình dị, dân dã cũng tỏa hương thơm. Một loại hoa đơn giản nhưng nó cỏ một vẻ đẹp huyền bí, nhìn đi nhìn lại bông sen câu ca dao khẳng định phẩm chất thật đáng quý: xuất thân tự bùn lầy mà không nhuốm mùi bùn hôi tanh, trái lại vẫn giữ hương hoa thơm tho tinh khiết. Bông sen là hình ảnh mang đậm phẩm chất của người lao động. Vẻ đẹp tâm hồn ấy luôn tinh khiết như bông sen giữa đầm lầy, dù gần bùn hôi tanh.
Bởi lẽ sen được ca ngợi vì thực sự sen mọc từ bùn lầy mà vẫn tỏa hương thơm ngát, vẫn đẹp rạng ngời giữa một đầm bùn lầy. Người nông dân , người lao động từ bao đời nay thật trong sạch. Nếp sống ấy biểu hiện cho đạo đức nhân cách tốt đẹp của họ. Dù cho xã hội còn đầy rẫy những cái xấu, nhưng con người lao động chân chính vẫn không bị tác động. Họ luôn quan niệm “ đói cho sach, rách cho thơm” dẫu “giấy có rách” cũng phải “ giữ lấy lề” để sống một cuộc sống thật trong sạch và cao quý. Dù thế nào trong bất cứ hoàn cảnh nào họ cũng không hề đánh mất chính mình, đánh mất những phẩm chất của một con người, một dân tộc. Ta cũng không quên con cò trước khi chết còn xin được “xáo nước trong chớ xáo nước đục đaulòng cò con. Lão Hạc dù có chết vẫn để lại tiền cho con và tiền lo hậu sự cho bản thân. Chị Dậu tung xòe đồng tiền mua chuộc khắp nền nhà, không chịu sống ô uế.
Nhưng trong giai đoạn hiện nay, giữa thời kỳ phát triển kinh tế, mọi người đang kiếm sống với nhu cầu vật chất ngày càng cao, người ta dễ quên đi những nét đẹp đẽ, cao quý của tâm hồn con người. do vậy, hơn bao giờ hết, những bài học đạo đức làm người, xem trọng nhân cách cần được thường xuyên nhắc nhở.
Tóm lại, giữa cái xấu xa thối nát của xã hội người Việt Nam vẫn giữ được truyền thống tốt đẹp cuả dân tộc, vẫn luôn ngẩn đầu, sống một cách trong sạch. Dù trong hoàn cảnh như thế nào thì họ vẫn mãi như đóa sen mãi tỏa ngát hương thơm giữa đầm bùn lầy tanh hôi. Ngay từ bây giờ, ta phải rèn luyện đạo đức, nhân cách để trở thành người công dân tốt, thành đóa sen làm đẹp cho đời sau này.
Là một thành viên của đất nước, là người Việt Nam, ta luôn tự hào về truyền thống cha ông, về lẽ sống trong sạch thanh cao. Ta luôn như đóa sen tỏa hương thơm giữa đầm lầy tượng trưng cho phẩm chất cao quý của con người lao động, luôn luôn được ca ngợi, được trân trọng. Đừng vì một lý do nào mà làm mất thanh danh, mất đi phẩm chất đạo đức làm người.
Trong cuộc sống thường nhật và tâm thức của mỗi người dân Việt, hoa sen giữ một vị trí quan trọng. Ta bắt gặp sen trong những hồ ao, đầm nước, trải suốt từ Bắc vào Nam. Ta bắt gặp hoa sen trong những bình gốm sứ trang trọng nơi phòng khách, sen trên bàn thờ gia tiên, trong chùa cúng phật và không thể không có sen trong những điệu hát dân ca, trong những câu ca dao uyển chuyển, mượt mà. Trong đầm gì đẹp bằng sen đã trở nên thân thuộc tự thuở xưa cho đến bấy giờ:
"Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn"
Ngôn ngữ trong sáng, giản dị, bài ca dao đã đem đến cho người đọc những cảm nhận tinh tế về cây sen, hoa sen. Hình tượng cây sen được miêu tả chính xác, cụ thể, vừa chân thực, sống động vừa giàu ý nghĩa tượng trưng, khái quát. Cảm giác thẩm mĩ, triết lí sâu sắc và vẻ đẹp trời phú của cây sen đã tạo ra vẻ đẹp và chiều sâu của bài ca dao ngắn. Bằng câu hỏi tu từ, "Trong đằm gì đẹp bằng sen..." tác giả đã khéo léo khẳng định, và tuyệt đối hoá vẻ đẹp của cây sen trong đầm. Hỏi đấy, nhưng nào cần đợi câu trả lời bởi cái hàm ý trong câu hỏi ấy đã quá rõ rồi. Trong đầm, chẳng có cây nào đẹp bằng sen đâu? Và như để minh chứng cho sự khẳng định đó, tác giả đem đến cho người đọc những hình ảnh cụ thể về vẻ đẹp của sen:
"Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng"
Theo trình tự quan sát từ ngoài vào trong rất tự nhiên, hợp lí, bằng sự phối màu hài hoà xanh - trắng - vàng cây sen hiện lên với vẻ đẹp trong sáng, tinh khiết. Đọc những vần thơ ấy, tưởng tượng đến đầm sen ấy, bông sen ấy, lòng ta sao có thể dửng dưng được trước vẻ đẹp trang nhã mà cao sang của sen. Bất chợt, trong ta, như thấy đâu đây hồ sen bát ngát đầu làng, như thấy hương sen thoang thoảng trong buổi tinh sương và bỗng dưng ta muốn hít thật căng lồng ngực cơn gió trong lành đẫm hương sen quê mình. Không nghi ngờ gì nữa, sen đẹp thật. Nhưng để khẳng định, để nhấn mạnh, tác giả tiếp tục miêu tả cây sen ở câu thứ ba:
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Tưởng có gì mới lạ, hoá ra, tác giả chỉ nhắc lại câu thơ thứ hai. Nhưng không chỉ là sự nhắc lại đơn thuần. Trình tự miêu tả đã được đảo ngược, chẳng phải từ ngoài vào trong nữa mà từ trong ra ngoài, vẫn là ba gam màu chủ đạo vàng - trắng - xanh ấy thôi nhưng một chút lật ngược rất khéo léo kia đã khiến ta đang trôi trong cảm giác nhẹ nhàng lâng lâng khi thả hồn phiêu du trên hồ sen, trong hương sen phải dừng lại. Nhịp thơ từ nhẹ nhàng khoan thai chuyển sang khẩn trương, dồn dập. Và ta chợt hiểu ra căn nguyên của sự thay đổi đó khi đọc câu thơ cuối cùng:
"Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn"
Cảm nhận một cách tổng thể, khái quát ta sẽ thấy câu đầu và cấu cuối là sự nhận định, đánh giá, liên tưởng về vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của cây sen. Hai câu giữa là sự phản ánh thực thể sống động, hấp dẫn của cây sen, là phần làm nên màu sắc, đường nét cho bức tranh đầm sen. Thiếu hai câu giữa bức tranh đầm sen còn gì hấp dẫn nữa. Và câu thơ cuối cũng chính là cái đích đến của bức tranh cây sen, đích đến của bài ca dao. Nếu câu đầu là lời giới thiệu chung về bức tranh sen, câu hai, ba là bức tranh sen qua màu sắc, đường nét của hội hoạ thì câu thứ tư là linh hồn của bức tranh và cũng là linh hồn của cả bài ca dao. Khép lại nghĩa đen, mở ra nghĩa bóng. Một cách dẫn dắt thần tình của tác giả dân gian. Từ bông sen của thiên nhiên, bông sen của đầm ao làng quê đất Việt, bông sen toả hương ngát suốt dọc mùa hè, bông sen mà ta có thể nhìn thấy màu sắc, ngửi thấy hương thơm, ta đến nghĩ bông sen của biểu tượng. Bông sen biểu tượng cho con người Việt Nam và tâm hồn Việt Nam, trong sáng, thanh tao tựa hương sen buổi sáng, tựa màu sen tinh khiết trong ngần vươn lên giữa bùn lầy. Đọc đến câu thơ này, không ai còn nghĩ nhiều về nghĩa thực của nó nữa. Bời vì ta đã hiểu rằng sen là người, với ý nghĩa sâu xa và triết lí nhân sinh ẩn chứa trong đó. Qua nghệ thuật ẩn dụ, ta ngầm hiểu sen hoá thành người, "bùn" trong hồ sen hoá "bùn" trong cuộc sống, xã hội. Cả cái đầm sen và mùi hôi tanh kia cũng là một ẩn dụ với nhiều hàm nghĩa, tầng nghĩa sâu sắc. Vậy là từ bài ca dao về cây sen, từ việc nói về cây sen, hoa sen tác giả đã phản ánh trung thực sự sống, lẽ sống, tâm hồn và phẩm chất của con người Việt Nam từ ngàn đời nay bằng hình thức cách điệu, rất thi vị nhưng cũng rất sâu sa. Tâm hồn, phẩm chất của con người việt Nam được ví như bông sen trong đầm kia, dù gần bùn hôi tanh thì màu hoa trắng, sắc nhị vàng và hương thơm thanh khiết vẫn vẹn nguyên, không phai nhạt, không đổi thay. Hãy trở về với quá khứ, ta sẽ thấy rõ hơn vẻ đẹp tâm hồn - truyền thống yêu đời ấy của con người Việt Nam. Từ những người lao động nghèo khổ tận cùng của xã hội, cả đời không biết nổi một con chữ, khi tai hoạ giáng xuống đầu, cận kề cái chết vẫn khẩn cầu tha thiết xin được chết trong:
"Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con "
Đến những nhà nho với vốn tri thức uyên thâm, bỏ lại đằng sau hào quang của công danh và bổng lộc của chốn quan trường khi xã hội mất hết kỉ cương để lui về vui với thú điền viên, vui với tiếng suối rì rầm, vui với việc phát cỏ ương sen. Rồi một chị Dậu dù nghèo túng, dù đang cần từng xu lẻ để nộp sưu vẫn ném cả nắm tiền vào mặt tên quan phủ để giữ gìn phẩm hạnh của người đàn bà. Lão Hạc thà chết để giữ gìn nhân phẩm của một người cha. Và bông sen thơm ngát, bông sen đẹp nhất của dân tộc Việt Nam toả hương ngàn đời vào cuộc sống suốt chiều dài lịch sử, làm rạng danh dân tộc là bông sen vàng xứ Nghệ. Tất cả những con người việt Nam ấy luôn đem câu "giấy rách phải giữ lấy lề" bên mình để làm phương châm sống, để răn mình, giữ mình. Nghèo túng, bần hàn, đôi lúc cả bị dập vùi nữa nhưng họ không để mình bị vướng bùn nhơ, không để cuộc đời vấy mùi bùn hôi tanh.
Nối tiếp cha ông xưa, con cháu ngày nay cần phải sống xứng đáng. Xã hội phát triển, cuộc sống hiện đại không ít những cám dỗ khiến con người dễ dàng sa ngã. Xác định cho mình một lí tưởng, một phương châm sống là vô cùng cần thiết với tất cả mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ chúng ta. Hãy nuôi dưỡng tâm hồn, nuôi dưỡng những bông sen quý để mãi mãi trong lòng chúng ta, sen toả hương thơm ngát, để màu sen thanh khiết đồng hành cùng mỗi người và đồng hành cùng dân tộc, xưa, nay và mãi mãi trong tương lai.
Nét trong sáng, cao đẹp trong tâm hồn con người Việt Nam từ bao đời đã được ca ngợi và trở thành chủ đề của nhiều câu tục ngữ, ca dao. Chúng ta không thể quên bài ca dao quen thuộc:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Bằng ngôn từ trong sáng, giản dị nhất, bài ca dao làm nổi bật hình ảnh bông sen thơm ngát, đang nở trên đầm lầy. Bông sen đơn sơ, chân chất như người dân lao động mang nét đẹp bình dị, thôn dã, lúc nào cũng ngan ngát toa hương, một thứ hương thơm đặc biệt tinh khiết không pha lẫn mùi vị nào khác dù hoa sen trong đầm. Đầm lầy càng u tối, thối tha thi bóng hoa lại càng đẹp đẽ, sáng trói. Thông qua bài ca dao, hình ảnh của người dân lao động Việt Nam hiện lên một cách tự nhiên, hợp lý đến tài tình. Tâm hồn của mỗi con người được ví như một bông hoa thơm ngát, dù sống ở đâu, trong hoàn cảnh nào cũng giữ riêng cho mình nét trong trắng, thanh cao nguyên vẹn.
Sống trong sạch là quy tắc, luật sống của con người Việt Nam từ bao đời nay. Nó trở thành đạo đức, nhân cách được bồi dưỡng và bổ sung truyền dạy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngay từ chế độ phong kiến nhiễu nhương, thối nát, nhưng nhà nho, trí thức đã quan niệm giấy rách phải giữ lấy lề để sống một cách thanh bạch, giản dị nhưng vô cùng chân thật. Cuộc sống đầy những cạm bẫy, càng lúc càng phô bày đầy đủ những thói xấu của loài người. Nếu như ai cũng sống gần mực thì đen thì có lẽ cả xã hội này không còn tồn tại người tốt. Nhưng với truyền thống đạo lí cao đẹp từ xa xưa, người dân Việt Nam luôn ngẩng cao đầu, sử dụng nhân cách quý giá của chính mình để sống và hành động một cách chân chính nhất. Xã hội càng xấu xa thối nát chừng nào thì con người Việt Nam càng sáng trong chừng ấy. Chúng ta không thể quên bi kịch về cái chết của Lão Hạc, một nông dân chất phác, quê mùa thà chết để giữ được thanh danh không vướng bùn nhơ xấu xa. Chúng ta không thể quên được hình ảnh chị Dậu trong đêm tối đen như mực và như tiền đồ của chị quyết giữ lấy tiết hạnh, lòng thuỷ chung với chồng con. Và ta càng không thế quên được lời khẩn cầu tha thiết, xót xa, nức nở của con cò ăn đêm, quyết giữ tâm hồn trong trắng đến phút cuối cuộc đời
Có xáo thi xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con
Đây có phải là hiện thân của người dân lao động? Quả vậy, kế tục và phát huy truyền thống cao đẹp, họ luôn sống một cách ngay thẳng, chân thực trong bất cứ hoàn cảnh nào để trở thành những đoá sen thơm ngát giữa đầm.
Không thể không có những bông hoa rũ cánh, cúi xuống đầm lầy để vướng phải bùn nhơ. Cũng như trong xã hội, không thiếu những kẻ đứng trước hoàn cảnh khó khăn đã không giữ được mình. Tư tưởng hám danh hám lợi, cầu thân đã đưa họ đến những hành động đi ngược lại với lương tâm, đạo lí con người. Từ những việc nhỏ nhặt họ đã không giữ bản thân mình cho được trong sạch thì đến những việc quan trọng, to lớn hơn làm sao họ không trở nên xấu xa, nguy hiểm. Loại người như vậy là một gánh nặng, một căn bệnh của xã hội, càng trở nên trầm trọng trong cuộc sống hôm nay. Đất nước đang cần, hơn bao giờ hết những người mang đạo đức cách mạng, hết lòng vì dân mà phục vụ. Nối tiếp truyền thống xưa, các cán bộ chân chính hôm nay cũng trở thành những đoá hoa sen. Sống giữa khó khăn của xã hội đầy cạm bẫy, lọc lừa, họ vẫn xác định cho mình một lí tưởng đúng đắn. Để làm một đoá hoa sen cho mai sau, ngay từ bây giờ, ta phải tu dưỡng đạo đức, rèn luyện tinh thần, học hỏi thêm nhiều điều bồ sung lí trí nhằm có suy nghĩ chính xác khi đứng trước những ngã rẽ, biết đi trên những lối mòn quý giá của dân tộc, thêm vào những nhận thức mới mẻ của thời đại. Tất cả sẽ giúp ta trở thành người công dân tốt, không hổ thẹn với truyền thống xưa đồng thời ta cũng tự hào vì đã tiếp tục phát huy di sản tâm hồn quý báu của dân tộc.
Nói tóm lại, là người dân Việt Nam, chúng ta có quyền tự hào về tất cả những gì cao đẹp được ông bà xưa truyền lại, nhất là ở tâm hồn trong trắng, thanh cao, luôn rạng ngời dù ở bất kì hoàn cảnh môi trường nào. Cũng chính vì thế, ta buộc phải suy nghĩ, hành động một cách nghiêm túc đế không làm mai một đi truyền thống này. Muốn đạt được như thế, ngay từ khi còn là học sinh, ta phải tự nhắc nhở nhau sống như hoa sen.