Dân tộc ta có một truyền thống đâu tranh chống xâm lược, đã bao thế hệ cha ông nối tiếp nhau đứng lên chống ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc và viết nên những trang sử oai hùng. Trong giai đoạn chông Pháp gay go ác liệt, để động viên cổ vũ lòng yêu nước của toàn dân, tại Đại hội Đảng lần II năm 1954, trong bài viết “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”, Hồ Chủ tịch đã khẳng định:
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước”
Thật vậy, lòng yêu nước đã trở thành truyền thống, phẩm chất của cọn người Việt Nam từ thế hệ này qua thế hệ khác. Tình cảm này có khi được thực hiện băng những hành động cụ thể, nhiều lúc thể hiện qua thơ ca. Đó có biết bao chiến sĩ, nhà thơ đã mượn lời thơ để giãi bày tấm lòng yêu quê hương của mình.
Trải qua một ngàn năm Bắc thuộc, cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là một minh chứng hùng hồn nhất của lòng yêu nước:
Một xin rửa sạch thù nhà
Hai xin nối lại nghiệp xưa họ Hùng
Đầu mùa xuân 1077, chiến thắng trên sông Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt đánh tan 4 vạn quân Tống xâm lược đã khẳng định chủ quyền dân tộc. Ta làm sao quên được bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên, tương truyền của Lý Thường Kiệt, ngân nga trong ngôi đền bên sông ấy:
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
(Sông núi nước Nam – đã dịch ra tiếng Việt)
Chính lòng yêu nước mãnh liệt ấy khiến Trần Quốc Tuấn thốt lên những lời tâm sự thiết tha và đầy chân thành:
“Ta thường đến bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, dẫu cho trăm thây này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”
(Hịch tướng sĩ)
Và đêm đêm giấc ngủ không tròn, Nguyễn Trãi cứ mãi lo nghĩ đến quê hương đất nước:
Những trằn trọc trong cơn mộng mị
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.
Đến lúc thực dân Pháp xâm lược nước ta, tinh thần yêu nước của nhân dân ta được phát huy cao độ.
Với giọng thơ hào hùng, Phan Bội Châu, con người tài cao chí lớn, dù bị giam trong nhà lao vẫn tự hào, vẫn không mất nhuệ khí của người trai:
Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù
(Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác)
Đối với người yêu nước, nhưng tù đày khổ sở mà bọn giặc cố tình hành hạ cũng không làm cho họ chùn bước ngã lòng, mà ngược lại dó là dịp để cho “người lỡ bước” thể hiện khí phách của mình
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan chi kể việc con con
(Đập đá ở Côn Lôn)
Từ năm 1930 cuộc đấu tranh giành độc lập được tiến hành dưới ngọn cờ của giai cấp vô sản, những người thanh niên trẻ yêu nước, giác ngộ lí tưởng sẵn sàng hiến dâng đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
(Từ ấy-Tố Hữu)
Cũng trong lúc này, những tấm gương chiến đấu hi sinh dũng cảm của giới thanh niên đáng để chúng ta khâm phục. Họ là những chiến sĩ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Một canh… hai canh… lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Canh bốn canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh
(Không ngủ được – Hồ Chí Minh;
Và truyền thống ấy được dân tộc ta phát huy tới đỉnh cao nhất trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm – cuộc chiến chống Mĩ cứu nước. Giai đoạn này toàn dân trẻ, già, trai, gái… đều hiến dâng sức lực, trí tuệ của mình cho công cuộc đấu tranh giữ nước:
Lớp cha trước, lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành.
Và cũng có biết bao tấm gương yêu nước của các chiến sĩ cách mạng đã làm cho kẻ thù khiếp sợ… như anh Nguyễn Văn Trỗi với chín phút cuối cùng của đời anh (Sống như anh); như chị Sứ vẫn hiên ngang giữ được phẩm chất anh hùng của mình trước cái chết gần kề (Hòn đất); như anh giải phóng quân kiên cường dũng cảm trên đường băng Tân Sơn Nhất:
…Anh chẳng để lại gì cho riêng anh trước lúc lên đường.
Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ.
(Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)
Rõ ràng với lòng yêu nước nồng nàn, nhân dân ta đã viết tiếp những trang sử vàng của Lê Lợi, Quang Trung:
Chi Lăng bài học thuở xưa Người đi thì có, người về thì không Lòng yêu nước đã khiến cho nhân dân ta có sức mạnh phi thường vượt qua mọi khó khăn gian khổ, chiến thắng bọn cướp nước và bán nước. Đáng tự hào thay sự hi sinh cao cả của những người con nước Việt.
Có thể nói lòng yêu nước của dân tộc ta là nhân tố quyết định thắng lợi trong công cuộc đấu tranh chống xâm lược, để bảo vệ Tổ quốc. Em nguyện sống sao cho xứng đáng với truyền thống tốt đẹp của cha anh đã ngã xuống vì độc lập, tự do, vì hạnh phúc của nhân dân Dân tộc ta có một truyền thống đâu tranh chống xâm lược, đã bao thế hệ cha ông nối tiếp nhau đứng lên chống ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc và viết nên những trang sử oai hùng. Trong giai đoạn chông Pháp gay go ác liệt, để động viên cổ vũ lòng yêu nước của toàn dân, tại Đại hội Đảng lần II năm 1954, trong bài viết “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”, Hồ Chủ tịch đã khẳng định:
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước”
Thật vậy, lòng yêu nước đã trở thành truyền thống, phẩm chất của cọn người Việt Nam từ thế hệ này qua thế hệ khác. Tình cảm này có khi được thực hiện băng những hành động cụ thể, nhiều lúc thể hiện qua thơ ca. Đó có biết bao chiến sĩ, nhà thơ đã mượn lời thơ để giãi bày tấm lòng yêu quê hương của mình.
Trải qua một ngàn năm Bắc thuộc, cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là một minh chứng hùng hồn nhất của lòng yêu nước:
Một xin rửa sạch thù nhà
Hai xin nối lại nghiệp xưa họ Hùng
Đầu mùa xuân 1077, chiến thắng trên sông Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt đánh tan 4 vạn quân Tống xâm lược đã khẳng định chủ quyền dân tộc. Ta làm sao quên được bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên, tương truyền của Lý Thường Kiệt, ngân nga trong ngôi đền bên sông ấy:
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
(Sông núi nước Nam – đã dịch ra tiếng Việt)
Chính lòng yêu nước mãnh liệt ấy khiến Trần Quốc Tuấn thốt lên những lời tâm sự thiết tha và đầy chân thành:
“Ta thường đến bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, dẫu cho trăm thây này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”
(Hịch tướng sĩ)
Và đêm đêm giấc ngủ không tròn, Nguyễn Trãi cứ mãi lo nghĩ đến quê hương đất nước:
Những trằn trọc trong cơn mộng mị
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.
Đến lúc thực dân Pháp xâm lược nước ta, tinh thần yêu nước của nhân dân ta được phát huy cao độ.
Với giọng thơ hào hùng, Phan Bội Châu, con người tài cao chí lớn, dù bị giam trong nhà lao vẫn tự hào, vẫn không mất nhuệ khí của người trai:
Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù
(Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác)
Đối với người yêu nước, nhưng tù đày khổ sở mà bọn giặc cố tình hành hạ cũng không làm cho họ chùn bước ngã lòng, mà ngược lại dó là dịp để cho “người lỡ bước” thể hiện khí phách của mình
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan chi kể việc con con
(Đập đá ở Côn Lôn)
Từ năm 1930 cuộc đấu tranh giành độc lập được tiến hành dưới ngọn cờ của giai cấp vô sản, những người thanh niên trẻ yêu nước, giác ngộ lí tưởng sẵn sàng hiến dâng đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
(Từ ấy-Tố Hữu)
Cũng trong lúc này, những tấm gương chiến đấu hi sinh dũng cảm của giới thanh niên đáng để chúng ta khâm phục. Họ là những chiến sĩ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Một canh… hai canh… lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Canh bốn canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh
(Không ngủ được – Hồ Chí Minh;
Và truyền thống ấy được dân tộc ta phát huy tới đỉnh cao nhất trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm – cuộc chiến chống Mĩ cứu nước. Giai đoạn này toàn dân trẻ, già, trai, gái… đều hiến dâng sức lực, trí tuệ của mình cho công cuộc đấu tranh giữ nước:
Lớp cha trước, lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành.
Và cũng có biết bao tấm gương yêu nước của các chiến sĩ cách mạng đã làm cho kẻ thù khiếp sợ… như anh Nguyễn Văn Trỗi với chín phút cuối cùng của đời anh (Sống như anh); như chị Sứ vẫn hiên ngang giữ được phẩm chất anh hùng của mình trước cái chết gần kề (Hòn đất); như anh giải phóng quân kiên cường dũng cảm trên đường băng Tân Sơn Nhất:
…Anh chẳng để lại gì cho riêng anh trước lúc lên đường.
Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ.
(Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)
Rõ ràng với lòng yêu nước nồng nàn, nhân dân ta đã viết tiếp những trang sử vàng của Lê Lợi, Quang Trung:
Chi Lăng bài học thuở xưa Người đi thì có, người về thì không Lòng yêu nước đã khiến cho nhân dân ta có sức mạnh phi thường vượt qua mọi khó khăn gian khổ, chiến thắng bọn cướp nước và bán nước. Đáng tự hào thay sự hi sinh cao cả của những người con nước Việt.
Có thể nói lòng yêu nước của dân tộc ta là nhân tố quyết định thắng lợi trong công cuộc đấu tranh chống xâm lược, để bảo vệ Tổ quốc. Em nguyện sống sao cho xứng đáng với truyền thống tốt đẹp của cha anh đã ngã xuống vì độc lập, tự do, vì hạnh phúc của nhân dân
Chúc bạn học tốt!!!!!
Đất nước ta từ buổi đầu dựng nước và giữ nước đã trải qua 4000 năm lịch sử với biết bao cuộc kháng chiến vĩ đại, hào hùng của dân tộc. Nhưng trong đó, phải nói đến lòng nồng nàn yêu nước của dân ta. Đó là một truyền thống quý báu của dân tộc, chính nó là nguồn động lực lớn để chúng ta đánh thắng mọi kẻ thù.
Chúng ta phải tự hào là con rồng cháu tiên. Tự hào là người dân Việt, tự hào về lịch sử vĩ đại của dân tộc ta. Đặc biệt chúng ta phải ghi nhớ đến công lao vô cùng to lớn của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của dân tộc anh hùng qua các thời đai.
Trong lịch sử phong kiến có: khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40, chiến thắng sông Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938, Quang trung đại phá quân Thanh, Phan Bội Châu và cuộc cách mạng Đông Dương, ... với tình yêu nước sâu sắc, họ đã đánh tan sức mạnh của giặc ngoại xâm. Không gì có thể quý hơn và quan trọng hơn lòng yêu nước.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân ta đã chiến đấu hết mình và đã có những cuộc chiến vô cùng hào hùng, oanh liệt. Nhưng, để có tuyền tiến vững chắc thì hậu phương cũng phải chắc chắn. Đó cũng là nhờ công lao to lớn của những người phụ nữ, trẻ em và ngay cả đến người già. Và chính những nguyên nhân đó đã tạo nên Cách mạng tháng tám thành công 1945 và chiến thắng Điện Biên Phủ làm chấn động toàn cầu. Đấy cũng là lòng yêu nước của nhân dân ta.
Còn trong kháng chiến chống đế quốc Mĩ thì sao? Nhân dân và bộ đội ta đã chiến thắng kẻ thù một cách vẻ vang, vì đó là ngày giải phóng miền Nam 30-4-1975. Đấy là ngày không thể quên được đối với người dân Việt. Đó là do đâu? Chỉ có câu trả lời đó là lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta và cũng là tiếng nói của dân tộc.
Khi hòa bình lập lại, đất nước ta bước vào thời kì đổi mới. Xây dựng đất nước giàu mạnh. Để nước ta có thể sánh vai bằng Hoa Kì, Trung Quốc, Nhật Bản, v.v... những nước có nền kinh tế đứng đầu thế giới. Và cũng là để biết ơn những người có công lao to lớn với tổ quốc và dân tộc.
Qua đây, chúng ta đã hiểu thêm hơn nữa về tinh thần yêu nước của nhân dân ta qua mọi thời đại. Vì vậy nó mãi là truyền thống quy sbáu của dân tộc ta trước đây và mãi mãi về sau.