Nội dung lý thuyết
Các phiên bản khácDI TRUYỀN Y HỌC – DI TRUYỀN Y HỌC TƯ VẤN
- Di truyền y học là một bộ phận của Di truyền học người chuyên nghiên cứu phát hiện các nguyên nhân, cơ chế gây bệnh di truyền ở người và đề xuất các biện pháp phòng ngừa, cách chữa trị các bệnh di truyền ở người.
- Khái niệm: Di truyền y học tư vấn là lĩnh vực chẩn đoán di truyền y học được hình thành trên cơ sở những thành tựu về Di truyền người và Di truyền y học.
- Nhiệm vụ: chẩn đoán, cung cấp thông tin về khả năng mắc các các loại bệnh di truyền ở đời con của các gia đình đã có bệnh này từ đó cho lời khuyên trong việc kết hôn, sinh đẻ, đề phòng và hạn chế hậu quả xấu cho đời sau.
- Cơ sở khoa học: sử dụng các phương pháp nghiên cứu di truyền người để xác minh xem có bệnh di truyền hay không, đặc điểm di truyền của bệnh như thế nào (gen quy định bệnh là trội hay lặn, nằm trên NST thương hay NST giới tính, tần suất biểu hiện bệnh trong quần thể là bao nhiêu ?)
- Bệnh, tật di truyền là bệnh của bộ máy di truyền ở người gồm những bệnh, tật phát sinh do sai sót trong cấu trúc hoặc số lượng NST, bộ gen hoặc sai sót trong quá trình hoạt động của gen.
- Bệnh di truyền gồm các bệnh rối loạn chuyển hóa bẩm sinh, bệnh miễn dịch bẩm sinh, các khối u bẩm sinh, chậm phát triển trí tuệ bẩm sinh. Có thể chia thành 2 nhóm: Bệnh di truyền phân tử và các Hội chứng di truyền liên quan đến đột biến NST.
- Tật di truyền: là những bất thường hình thái lớn hoặc nhỏ, có thể biểu hiện ngay trong quá trình phát triển phôi thai, ngay từ khi mới sinh hoặc biểu hiện ở các giai đoạn muộn hơn nhưng đã có nguyên nhân từ trước khi sinh.
- Bệnh di truyền phân tử là những bệnh di truyền do cơ chế gây bệnh ở mức độ phân tử, phần lớn do đột biến gen gây ra. Mức độ nặng nhẹ của bệnh tùy thuộc vào chức năng của từng loại protien do gen đột biến quy định. Alen đột biến có thể hoàn toàn không tổng hợp được protein hoặc tăng, giảm lượng protein tổng hợp ra hoặc tổng hợp ra protein bị thay đổi chức năng làm rối loạn cơ chế chuyển hóa của tế bào và cơ thể.
- Các đột biến cấu trúc hay số lượng NST thường liên quan đến rất nhiều gen gây ra hàng loạt các tổn thương ở các hệ cơ quan của người bệnh nên thường được gọi là hội chứng bệnh:
- Ung thư là loại bệnh được đặc trưng bởi sự tăng sinh không kiểm soát được của một số loại tế bào cơ thể dẫn đến hình thành các khối u chèn ép các cơ quan trong cơ thể.
- Do đột biến gen, đột biến NST.
- Do con người tiếp xúc với tia phóng xạ, hóa chất gây đột biến, các virut tạo nên tế bào đột biến không thể đáp ứng cơ chế điều khiển phân bào mà phân chia liên tục tạo nên các khối u.
- Do đột biến gen kiểm soát chu kỳ tế bào, gồm 2 nhóm:
a/ Nhóm gen quy định các yếu tố sinh trưởng: gọi là các gen tiền ung thư, chiu trách nhiệm tổng hợp các protein tham gia điều hòa quá trình phân chia bình thường của tế bào.
- Khi nhóm gen này bị đột biến thành gen trội, gen hoạt động mạnh hơn tạo quá nhiều sản phẩm, làm gia tăng tốc độ phân bào không kiểm soát được làm khối u xuất hiện và tăng sinh quá mức.
- Đột biến gen tiền ung thư thành gen ung thư thường là các đột biến trội, không di truyền được vì chúng xuất hiện ở tế bào sinh dưỡng.
b/ Nhóm gen ức chế khối u: làm cho khối u không thể hình thành được.
- Khi các gen này bị đột biến làm cho gen mất khả năng kiểm soát khối u thì các tế bào ung thư xuất hiện tạo nên các khối u.
- Đây thường là các đột biến lặn.