Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
tran trong
Xem chi tiết
thuy cao
11 tháng 3 lúc 8:42

Việc tự nhận ra điểm mạnh, điểm yếu giúp em hiểu hơn về những môn mình mạnh, những môn mình thiếu, mình còn thiếu kĩ năng  gì,...Từ đó giúp em nhận ra mình vẫn còn thiếu gì và cần làm gì để bù đắp những điểm yếu đó hoặc phát triển điểm mạnh,...

Mong được nhận thêm sự góp ý của mn

 

 Khi biết điểm mạnh của bản thân em có thể phát huy tối đa khả năng của mình, tận dụng lợi thế để học tập hiệu quả hơn

Khi nhận ra điểm yếu, em sẽ có cơ hội khắc phục, tìm cách cải thiện để không bị tụt lại phía sau. Nhờ đó, em có thể xây dựng kế hoạch học tập phù hợp, phân bổ thời gian hợp lý và đạt được kết quả tốt hơn

Ngoài ra việc hiểu rõ bản thân còn giúp em tự tin hơn trong học tập và cuộc sống từ đó mở ra nhiều cơ hội mới

Phan Văn Toàn
11 tháng 3 lúc 11:00

Việc tự nhận ra điểm mạnh, điểm yếu của bản thân giúp em xây dựng một kế hoạch học tập dài hạn hợp lý, tối ưu hóa thời gian và năng lực. Em có thể phát huy tối đa thế mạnh, đồng thời cải thiện các yếu điểm qua thời gian, từ đó phát triển toàn diện hơn trong học tập và chuẩn bị tốt cho tương lai.

le thi thuy trang
Xem chi tiết
duyen nguyen
6 tháng 3 2016 lúc 20:06

Dao Duy Tu

Lê Thị Tâm
8 tháng 3 2016 lúc 20:32

đào duy từ

Vương Quốc Anh
8 tháng 3 2016 lúc 22:53

Đào Duy Từ

le thi thuy trang
Xem chi tiết
Đặng Thị Phương Anh
4 tháng 3 2016 lúc 15:45

Người đó được gọi là Mõ làng

le thi thuy trang
2 tháng 3 2016 lúc 12:18

mink can gap day may pan co bit kobucqua ????????????  HELP ME bucminh

Selina Moon
2 tháng 3 2016 lúc 20:14

phải chăng là sứ giảyeu

Lê Thị Tâm
Xem chi tiết
○• Người Ra Đi •○
1 tháng 3 2016 lúc 20:06

Thể hiện:

+Lòng yêu nước của nhân dân ta

+Khát khao được sống yên bình của nhân dân

+Sự bất công trong xã hội thời bấy giờ

 

Đinh Tuấn Việt
1 tháng 3 2016 lúc 20:14

Nhận xét về tính chất và quy mô của phong trào nông dân Đàng Ngoài ở thế kỉ XVIII. Dựa vào diễn biến các cuộc khởi nghĩa (các địa phương nổ ra khởi nghĩa, các địa phương có hoạt động của nghĩa quân, thời gian tồn tại các cuộc khởi nghĩa, khẩu hiệu đấu tranh của nghĩa quân) để nêu lên tính chất chống phonq kiến (chính quyền Lê — Trịnh, địa chủ, quan lại) quyết liệt và quy mô rộng lớn của phong trào

Hoàng Tiến Đạt
1 tháng 3 2016 lúc 20:26

limdim.......

Hà Trần Khánh
Xem chi tiết
Trần Thị Hà Phương
27 tháng 2 2016 lúc 22:20

Lý Chiêu Hoàng 

- Lúc nhỏ có tên là Lý Phật Kim 

- Là gái thứ của vua Nghệ Tông và là bà hoàng đầu tiên của nước ta

- Sau khi nhường ngôi, Lý Chiêu Hoàng được phong làm Hoàng hậu, trở thành vị Hoàng hậu trẻ tuổi nhất trong lịch sử, vì khi đó bà mới 7 tuổi.

- Năm 19 tuổi Lý Chiêu Thánh bị phế làm Công Chúa vì lý do " không có con"

- Năm 40 tuổi , bà được gả cho một vị tướng thời trần là Lê Phụ Trần

- Đầu năm 1278, bà về thăm quê Cổ Pháp (Bắc Ninh). Tháng 3 âm lịch năm đó, bà mất, thọ 61 tuổi

 

Nguyễn Thành Đồng
28 tháng 2 2016 lúc 8:00

Khởi nghiệp từ Lý Thái Tổ và ừuỵền tới Lý Chiêu 
Hoàng, trải qua 216 năm tồn tại với 9 đời vua nối nhau trị 
vì, mặc dù có những thăng trầm, biến cố nhưng ừiều Lý 
ỉà triều đại đuợc sử sách đánh giá cao bởi “không có mta 
nào thất đức lớn, nhiều vua thánh hiền, lâu nãm thái binh, 
từ thời tìầi cổ đến khi ấy chua có triều đại nào hơn. Đại 
uớc cách thống trị của đời vua chi cần pháp độ chứ không 
cần người cho lắm, chỉnh $ự chuộng khoan hậu không 
chuộng sụ bạo tàn, đương; khi vô sự thì cứ theo sách cũ giữ 
chế độ cũ, hty là vua còn nhỏ tuổi mà vấn thống trị nổi 
thiên hạ” fWệt sử tiêu án). 
Nhà Lý có những đóng góp tích cực cho sự phát triển 
của đất nước và để lại dấu ấn sâu đậm trong xã hội trên mọi 
phương diện văn hóa, tôn gừio, pháp luật, kinh tế, chỉnh trị. 
Những ảấu ấn lớn của triều Lý qua các câng Mnk vật chắt 
và tinh thần đến nay vẫn được luu ừuyền, gìn giữ và được 
người đời ngợi ca, ngưỡng mộ. Một điều rất đặc biệt không 
thể không nhắc tới khi nói về triều Lý, đây chính ỉà vương 
BO 

5 0« 

________ m ộ t < ử i 

ỹ íẠ 

triều duỵ nhất có vua là nữ, đó là Lý Chiêu Hoàng, bà là vị 
vua thứ 9 và cũng là vua cuối cùng của nhà Lý, đồng thời 
ỉà nữ hoàng duy nhất ừong lịch sứ hơn 1000 năm tồn tại 
và phát triển của chế độ phong kiến w t Nam. 
Dưới nhãn quan Nho giáo, những đánh giá về Lý 
Chiêu Hoàng của các sứ gia phong kiến thường thiên về 
phê phún, chỉ trích nặng nề; bên cạnh đổ những ghi chép 
về bà củng không có nhiều, vì vậy, đề dựng lại một cách 
khái quát nhất về cuộc đời, sự nghiệp, vai trò và ảnh hưởng 
của nhân vật đặc biệt này là hết sức khó khàn 
Cuốn sách “Lý Chiêu Hoàng, một đời sóng giâ’ được 
thực hiện với mong muốn qita các dấu ẩn, câu chuỊ/ện ỉich 
sứ, giai thoại dân gian, truỵịn kỳ về Lý Chiêu Hoàng giúp 
người đọc hiều vầ biết thêm những thông tín chính về vị 
vua nữ của một vương triều lớn trong lịch sử nước nhà. 
Bên cạnh đó xin giới thiệu một số bài thơ, ừuyện ngắn, 
kịch vè Lý Chiêu Hoàng CỊua sáng tác của các tác gùi với 
những cung bậc tình cảm, suy iu, hoài niệm đốt với nữ 
nhân vật đặc biệt nhất trong lịch sử dân tộc. 
ÌAặc dừ có nhiều cố gắng nhìmg do có những hạn chế 
nhất định, đặc biệt là nguồn tư liệu tham khảo, trích dấn 
không nhiều nên việc biên soạn cuốn sách này không tránh 
ìỏtói những thiếu sót. Rất mong bạn đọc góp ý, phê bình. 
Hà Nội. 0?/7/m O 

m>6 m 

CHƯƠNG I 

Cuộcđời củamộtNửhoàng 

'^ù êu 

mSỈ <íời àófềỹỹiá 

I. BUỒN VUI THÂN PHẬN VUA BÀ 
ở ngôi trong khoảng thời gian ngắn, vai trò và 
tầm ảnh hưởng không lớn nên những gì mà người 
đời biết về Lý Chiêu Hoàng chỉ như gió thoảng 
mây bay, nhất là khi nhà Lý buộc phải rời khỏi vũ 
đài chính trị để nhườmg chỗ cho một triều đại mới 
với hào khí oai hùng đang lên. Chính vì vậy ít 
người biết rõ rằng Lý Chiêu Hoàng còn có một 
cuộc đời đầy những nỗi niềm suy tư, vui buồn, 
sướng khổ đan xen. 

1. Bông hoa nhỏ ti>ong cung đình triều Lý 
Lý Chiêu Hoàng tên thật là Lý Phật Kim, còn có 
tên khác là Lý Thiên Hữứầ, sinh tháng 9 năm Mậu 
Dần (1218), ià con gái thứ hai của vua Lý Huệ Tông, 
mẹ là Thuận IHnh thái hậu Trần Thị Dung; sau khỉ 
ra đời bà được phong là Chiêu Thánh công chúa. 
Nhà Lý từ đèri vua Lý Cao Tông (1175-1210) đã 
bất đầu đi xuống, giặc cướp nổi lên khắp nơi; đến 
đời Lý Huệ Tông tình hình càng ừầm trọng hơn, 
loạn lạc không dứt khiến vua phải nhiều phen bôn 
tẩu, quan lạì chia bè kết cánh, các phe phái cát cứ 
đánh giết lẫn nhau. 
»o9 « 

___________ ^ A iê ư . ứ ^ ổ > ă n Ỹ í n iM 

d ờ í iồ n Ỹ 

__________________ 

Để bình ổn xá hội, Lý Huệ Tông phải dựa vào 
thế lực của họ Trần và từ đó dòng họ này tìm cách 
tạo dựng vây cánh, thâu tóm quyền bính, khống 
chế triều đình. Tháng 10 năm Giáp Thân (1224) 
phe cánh họ 'ữần đứng đầu là Trần Thủ Độ lấy cớ 
vua mắc bệnh điên, ép Lý Huệ Tồng phải nhường 
ngôi cho con gái, rồi đi tu ở chùa Chân Giáo nằm 
toong đại nội thành Thăng Long. Vậy là khúc 
quanh của lịch sử đã đưa đẩy Lý Phật Kim, một cô 
bé 7 tuổi bước lên sân khấu chửih trị, mở đầu cho 
tấm bi kịch của đời mình. Được lập làm thái tử và 
ngay sau đó được truyền ngôi, trở thành nữ hoàng 
đầu tiên và cũng là duy nhất trong lịch sử \ìệ t 
Nam với hiệu là Chiêu Hoàng, đặt niên hiệu là 
Thiên chương hữu đạo. 
ở ngôi báu vào iúc ấu thơ, Chiêu Hoàng tất 

nhiên chưa cố khả năng chấp chính/ vua cha thl trở 
thành Huệ Quang đại sư, mẹ thì đang ỉo nghĩ C±10 
quyền lợỉ của dòng họ, chị gái thì đã hạ giá lấy 
chồng, “vua ỉà thân gái bé, nào có biết g^” (Việt sử 
tiêu án). Hết chỗ dựa ở cha, không nương nhờ được 
ở mẹ, Lý Chiêu Hoàng trở lên lạc lõng gỉữa triều 
đình tiếng là của mình mà sự thực đã nằm trong 
tay họ 'ữần. 
Nhằm đẩy mạnh kế hoạch ‘*đảo chúìh cung 
đình”, 'ữần Thủ Độ đưa cháu là 'ữần Cảnh mớỉ 6 
k>10m 

____________ ..Ô ỷ ^Ù Ể U ú/^>ÒAt/ỷ, m ậ t ắ lfi óáMỹ ỹ iổ -___________ 

tuổi vào cung làm người hầu cận cho Lý Chiêu 
Hoàng; mặt khác “tự đem gia thuộc thân thích vào 
ở trong cung cấm... đóng cửa thành và các cửa 
cung, sai người coi giữ, các quan đến chầu không 
được vào” (Đại Việt sử ký toàn thư). 
Sau khi kiểm soát được hoàng cung, Trần Thủ 
Độ cho loan báo rằng nữ hoàng đã có chồng, đó 
chính là Trần Cảnh. Thế là chuyện chơi bời, đùa 
nghịch của con trẻ trở thành chuyện tình duyên 
và bị lợi dụng trong việc “mưu bá đồ vương” ncrt 
cung cấm. 
Chuyện đến sẽ phải đến, vở kịch chuyển giao 
ngôi vị từ họ Lý sang họ Trần hạ màn vào ngày 11 
tháng Chạp năm Ất Dậu (1225), tại điện Thiên An, 
Lý Chiêu Hoàng xuống chiếu “nhường ngôi cho 
chồng", trong đó có đoạn viết: 
Tìẫm là nữ chúa, 
tài đức đều thiếu, không người giúp đỡ, giặc cướp 
nái lên như ong, giữ thế nào nổi ngôi báu nặng nề? 
Trẫm dậy sớm thức khuya, chỉ sợ không cáng đáng 
nổi, vẫn nghi tìm ngưèri hiền lương quân tử để 
cùng giúp chính tiỊ, đêm ngày khẩn khoản, đến 
thế là cùng cực rồi... Nay trẫm suy đi tính lại một 
mình, duy chi c6 Trần Cảnh lầ người văn chất đủ 
vẻ, thực thể cách hiền nhân qitân tử, uy nghi 
đưcmg hoàng, cố đủ tư chất tháiứì tiiần văn võ... 
Sớm hôm nghĩ chừi từ lâu, nghiệm xem nên 
tỡ 11 08 

___________ 'ẽ A iê u . 

9tiM 

ẩ ò í iỏ 9 iỹ 

( Ị Ị í/ị___________ 

nhường ngôi báu để thuận lòng ữời, cho xứng lòng 
ữẫm...” {Đại Việt sử ký toàn thư). 

2. TVỈỗi buồn nơi cung cám 
Sau khì nhường ngôi cho chồng, Lý Chiêu 
Hoàng trở thành hoàng hậu Chiêu Thánh; ngỡ 
rằng từ đây cuộc đời bà chi có niềm hạnh phúc, 
vui lòng với bổn phận người vợ bên một bậc anh 
quân am hiểu rộng rãi, có lài thao lược là Trần Thái 
Tông. Thế nhưng điều băn khoăn, lo lắng nhất của 
Chiêu Thánh là không hiểu vì sao sau nhiều nãm 
ở bên nhau mà hai người vẫn mãi chưa có con; đây 
chứih là nguyên nhâiì dẫn đến một nỗi đau tình 
cảm của bà. 
Thái sư Trần Thủ Độ sợ vua không có người 
thừa tự đã nói thẳng với Trần Thái Tông rằng; 
Hoàng hậu Chiêu Thánh iàm vợ đã hơn 10 năm mà 
không sinh nở ứủ ỉàm sao có hỉ vọng về sự nối dõi 
sau này, phải chọn một hoàng hậu khác! Nói là 
làm, bằng uy quyền của mình 1ì*ần Thủ Độ ép vua 
Trần Thái Tông phải lấy bà Thuận Thiên, lúc này 
đang cố mang ba tháng (Thuận Thiên là chị ruột 
của Chiêu Tháiứv vợ của Trần Liễu, là anh ruột 
Trần Thái Tông). 
Chúứi vì chuyện này mà '&ần Thái Tông coi là 
“một điều nhục nhã, không xứng ở ngôi vua” {Đại 
«>12m 

___________ ^ A iê u r 

* n ộ t c íỉiií i á t t ỹ ^ ỹ í á ___________ 

Vxệị sử ký toàn thư) bèn bỏ kinh thành lên núi Yên 

Tử (nay thuộc Quảng Ninh) định xuất gia tu hành; 
còn Trần Liễu vì uất ức mà khởi bmh làm loan. Măc 
dù mọi chuyện sau đó trở lại bình thường, Tì-ần 
Thái Tồng về Thăng Long, cuộc khởi loạn bị dẹp 
yên và '&ần Liễu được tha tội nhưng chỉ có một 
người là chịu đau khổ nhất, đó chính là Chiêu 
Thánh. Tước hiệu Chiêu Thánh hoàng hậu bị phế, 
triều đình nhà Trần giáng bà xuống làm công chúa. 
Thế là trong ngót 20 năm phải làm công chúa lần 
thứ hai này, Chiêu Thánh sống âm thầm nơỉ thâm 
cung, một mình một bóng với nỗi hiu quạnh, khổ 
đau, buồn tủi. 

3. -Họnh phúc muộn màng 
Những tưỏmg rằng Chiêu Thánh phải sống trong 
cảnh bị ruồng bỏ đến cuối đời, thế nhưng một điều 
bất ngờ đã đến với bà. Năm Mậu Ngọ (1258), sau 
chiến thắng chống Nguyên Mông xâm lược lần thứ 
nhất, vua Trần Thái Tông xuống chiếu gả bà cho Lê 
Tần (tức Lê Phụ Trần), một vị tướng có công lớn 
trong cuộc kháng chiến chống giặc vừa qua, ông 
vốn thuộc dòng dõi vua Lê Hoàn trước đây. 
Không biết vua Trần Thái Tông làm như vậy c6 
ý gì, phải chăng ông muốn tìm cho Chiêu Thánh 
một nơi nương tựa khi xế bóng mãn chiều hay 
»13 

___________ ^ ẽ > à /n Ỹ , m ậ í d ĩfù iỏ n Ỹ 

__________________________ 

không còn muốn thấy bà ở lại nơi cung vàng điện 
ngọc, chỗ mà một thời đả thuộc về bà, thuộc về 
triều Lý? Chi biết rằng lệnh vua ban ra, ai nào dám 
chống, Chiêu Thánh chấp nhận lấy Bảo Gia Vương 
Lê Phu• Trần với môt 
♦ số điều kiên. 
• 
Sau khi triều Trần chấp nhận các điều kiện đó, 
Chiêu Thánh mới đồng ý kết hôn cùng Lê Phụ 
Trần, lúc này bà đã 40 tuổi nhưng vẫn còn xuân 
sắc mặn mà. Chiêu Thánh sống hòa hợp bên Lê 
Phụ Trần, đó là những ngày tháng tốt đẹp nhất 
của cuộc đời bà. Chỉ một năm sau ngày cướiy 
Chiêu Thánh sinh hạ một cậu con trai đặt tên là 
Lê Tông, còn có tên khác là Lê Phụ Hiền (Lê Tông 
sau được ban quốc tính và đổi tên là Trần Bình 
Trọng), tiếp đó bà sinh thêm một người con gái 
tên là Minh Khuê, còn có tên khác là Ngọc Khuê 
(sau được phong là ư ng Thụy công chúa). Vậy là 
hạnh phúc đả đến với Chiêu Thánh, tuy muộn 
mỉừig nhưng dừ sao đó cũng ià kết thúc có hậu 
mà bà đáng được hưởng sau bao phen tủi hờri/ 
sầu thảm. 

4. jVJỗỉ oan này ai tỏ òm^ T^gưèri? 
Năm Mậu Dần (1278), bà Chiêu Thánh về thăm 
quê hương Cổ Pháp (nay thuộc huyện Từ Sơn, Bắc 
Ninh) dự ỉễ giỗ tổ; đến tháng 9 cùng nám bà mất 
»14of 

"ê /ũ ê u 

‘m ộ t 

iả n ỹ ỹ iẠ 

tại đây, thọ 60 tuổi; tương truyền tóc vẫn đen 
nhánh, môi vẫn đỏ như son, đôi má vẫn một màu 
hoa đào. 
N hân dân thương cảm táng bà ở bìa rừng 
Báng, phía tây Thọ Lăng Thiên Đức và ỉập đền 
thờ tưởng nhớ người phụ nữ đặc biệt này; ngôi 
đền có tên là Long miếu điện (thường gọi là đền 
Rồng). Sở dĩ Lý Chiêu Hoàng phải thờ riêng ở 
một ngôi điện nhỏ, không được thờ chung tại đền 
Đô (đền Lý Bát Đế) vì người ta cho rằng bà là 
người có tội, là đứa con bất hiếu đã làm mất ngôi 
vương triều Lý. Việc đổ lỗi không chỉ dừng ở đó, 
dân gian còn nại ra thuyết rằng ở c ổ Pháp có câu: 
“Tp ừuyền hát diệp, diệp ỉạc âm sinỉỉ’ nghĩa là truyền 
được 8 lá, lá rụng xuống rồi âm khí sinh ra, ý nói 
nhà Lý touyền ngôi được 8 đời, mất ngôi vì có vua 
đàn bà. 
Trên quan điểm Nho giáo, các sử sách phong 
kiến cũng có những nhận xét không mấy thiện 
cảm đ ố i với Lý Chiêu Hoàng, như sách Việt sử tiêu 
án viết: 
Bà là chất âm mà ở đương vị, trái hẳn lẽ 
thường,.., nhất sinh dâm cuồng, lấy chồng không 
vừa lứa đôi..."; việc bà lấy Lê Phụ Trần cũng bị coi 
là xấu xa: 
Chiêu Thánh vui thích sự gả đó, lại 
không được bằng ngưèâ đàn bà thường dãn còn có 
liêm sỉ,—là hoàng hậu mà ỉấy bầy tôi làm chồng, 
K> 15 c« 

___________ '& A iê tt. ứ f^ > à /n ỹ , n iệ l d ờ i iá n ỹ ỹ iỏ _________________ 

Phụ Trần là bầy tôi mà lấy bà hậu làm VỢ; mẹ ấy 
con ấy, chị ấy em ấy, vợ ấy chồng ấy, vua ấy tôi ấy 
thật không bằng cầm thú”. 
Thế là bao lời oán ưách đều đổ hết lên người 
phụ nữ nhỏ bé đáng thưcmg, trong khi người đời 
lại không chịu nhìn nhận rằng nhà Lý mất ngôi 
không phải lỗi của Lý Chiêu Hoàng, không phải 
do “thiên định” mà chứứì là do sự suy tìioái nảy 
sinh từ đời Lý Cao Tông, làm chmh sự đổ nát/ lòng 
dân ly tán.,, để rồi Lý Chiêu Hoàng khi mới 7 tuổi 
phải kế thừa một ngai vàng đã lung lay đến tận gốc 
rễ, cho dù một ngưỀổ khác ngồi lên đó cũng khó 
lòng cứu vãn được vưomg vị cho họ Lý. 
Rồi mặc cho người đờỉ đánh giá, phán xét Lý 
Chiêu Hoàng vẫn gan góc đi hết cuộc đồi gian khó 
của Iiúnh ở tuổi 60 và mang theo một nỗi oan lịch 
sử khố tỏ bày. 

II. NHỮNG ĐIỀU THÚ VỊ VỀ LÝ CHIÊU HOÀNG 
Sách sử viết về Lý Chiêu Hoàng không nhiều, 
chỉ một số dòng ghi chép ngắn gọn về cuộc đời của 
bà, cWnh vì vậy ít người biết rõ về một phụ nữ có 
số phận đặc biệt nhất trong lịch sử \ĩệ t Nam. 
* Lý Chiêu Hoàng là nữ hoàng duy nhất trong 
hơn 1000 năm tồn tại và phát triển của chế độ 


1 6 c« 

__________ '^ u ê u 

n i ậ t d ỉù , ì ớ ỉ ỉ Ỹ ỹ i ỏ - ___________ 

phong kiến Việt Nam, là trường hợp độc nhất vô 
nhị từ trước đến nay chưa từng có. 
* Lý Chiêu Hoàng tên thật là Lý Phật Kim, sau 
đổi là Lý Thiên Hinh^ bà là con gái út của vua Lý 
Huệ Tông với tôn hiệu là Chiêu Thánh công chúa 
và cũng là phụ nữ duy nhất trong lịch sử được 
phong làm Thái tử. 
* Lý Chiêu Hoàng cững là người ở ngôi Thái tử 
trong thời gian ngắn nhất. Sách Đại Việt sử ký toàn 
thư cho biết, tháng 10 năm Giáp Thân (1224) Lý 
Huệ Tông “xuống chiếu lập công chúa Chiêu 
Thánh làm Hoàng thái tử để truyền ngôi cho”. 
Như vậy Lý Chiêu Hoàng được lập làm Thái tử và 
ngay sau đó được ữuyền ngôi, vì thế bà làm thái tử 
không đầy một ngày. 
* Lý Chiêu Hoàng lên ngôi tháng 10 năm Giáp 

Thân (1224) khi đó bà mới 7 tuổi, thuộc danh sách 
những vỊ vua ứẻ ửong lịch sử nước ta. 
* Lý Chiêu Hoàng làm vua hơn 1 năm, từ tháng 
10 năm Giáp Thân (1224) đến tháng 12 năm Ất Dậu 
(1225) thì nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh 
(tức Trần Thái Tông). Bà là vị vua ở ngôi ngắn nhất 
trong số các vua triều Lý. 
* Lý Chiêu Hoàng là vua triều Lý đặt ít niên 

hiệu nhất và niên hiệu của bà là một trong những 
niên hiệu đài n h ất có tới 4 chữ, sử chép rằng: 
*a 17os 

___________ ,- ^ Ỷ 

• n iộ ỉ c tifí ié 'n ^ p iẠ ____________ 

“Chiêu Thánh lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên 
Chương Hữu Đạo” (Đại Việt sử ký toàn thu). 
* Chuyện hôn nhân của Lý Chiêu Hoàng và 

Trần Cảnh là một trong những nghi vấn của lịch 
sử. Chúng ta đều biết Trần Thủ Độ chính là người 
“đạo diễn” vở kịch “vợ nhường ngôi cho chồng”, 
chuyển vương quyền từ tay họ Lý sang họ Trần 
một cách êm thấm. Tuy nhiên dường như không 
hề có lễ thành hôn của Lý Chiêu Hoàng, sử sách 
không có dòng nào ghi chép về điều đó, tất cả chỉ 
dựa trên thông tin của Trần Thủ Độ mà thôi. Sách 
Đại Việt sử ký toàn thư \iế t: “Trần Thủ Độ tự đem gia 
thuộc thân thích vào trong cung cấm, sai đóng cửa 
thành và các của cung, củ người coi gíữ. Các quan 
đến chầu không được vào. Thú Độ loan báo rằng: 
Bệ hạ đã có chồng rồi. Các quan đều nói được, xin 
chọn ngày vào chầu”. 
* Lý Chiêu Hoàng là ngưởỉ duy nhất trong lịch sử 
2 lần ỉàm công chúa và lại là công chứa của hai triều 
đại khác nhau. Bà sữứi tháng 9 năm Mậu Dần (1218)/ 
sau khỉ ra đời được phong làm Chiêu Thánh công 
chúa. Năm Đinh Dậu (1237) Trần Thủ E)ộ vm cớ bà 
không ttiể sũih con nên đã ép Trần Thái Tông phế 
ngôi hoàng hậu rồi giáng bà xuống làm công chúa. 
* Lý Chiêu Hoàng ià người duy nhất trong lịch 
sử làm vua của một vương triều rồi lại làm hoàng 
Sữ 1 8 o s 

___________ r £ ỷ - 'ể À iê u 

n iộ l < jỉfi iổ n ỹ ỹ iá ____________ 

friậu của một vưctng triều khác. Ngày 11 tháng 12 
mâm Ất Dậu (1225) bà nhường ngôi cho chồng là 
'Itần Cảnh (tức Trần Thái Tông vị vua đầu tiên của 
mhà Trần) và trở thành hoàng hậu Chiêu Thánh. 
* Lý Chiêu Hoàng và Tìrần Thái Tông là đôi vợ 
* Lý Chiêu Hoàng là người mang một nỗi oan 
nịch sử, người đương thời cũng như các sách sử 
<đều cho rằng bà là người có tội đả làm mất ngôi 
vương triều Lý. Sách Vĩệt sử tiêu án cho rằng; 
Ibà là chất ầm mà ở dương vị, trái hẳn lẽ thường”; 
Việt giám thông khảo tổng luận chê Chiêu Hoàng là 
“Vua đàn bà vì thế không gánh vác nổi cơ nghiệp”... 
Còn trong dân gian đặt ra câu: “Tộ truyền bát 
Há, lá rụng xuống rồi âm khí sinh ra, ý nói nhà Lý 
I t r u y ề n ngồi được 8 đ ờ i rồi mất ngôi vì có vua 
>đàn bà. 
* Một việc xưa nay chưa từng có ừong lịch sử là 
Tìăm Mậu Ngọ (1258) Lý Chiêu Hoàng trở thành 
"phần thưởng" ban cho tướng có công. Chồng cũ 
'của bà là Trần Thái Tông xét thấy tướng Lê Tần có 
'CÔ ng đ ầ u 

tr o n g cu ộ c k h á n g c h iế n c h ố n g q u â n 

Mông Cổ nên đã cho ban quốc tính, đổi tên là Lê 
Phụ Trần và đem Chiêu Hoàng gả cho vị tướng này 
coi như là một phần thưởng đặc biệt. 
» 19c« 

___________ 'ể A tề ti- 

» iộ £ d ờ í ió n ỹ p iẠ __________ 

* Lý Chiêu Hoàng lấy Lê Tần khi đã 40 tuổi 
nhimg từ đó cuộc đời bà mới thực sự có hạnh 
phúc; bà đã sinh ra được 2 người con, con trai là Lê 
Tông, con gái là Ngọc Khuê. Một điều thú vị là Lê 
Tông (còn có tên khác là Lê Phụ Hiền) sau này 
được ban quốc tính (họ vua) và đổi tên thành Trần 
Bình Irọng, một danh tướng nổi tiếng với câu nói 
bất hủ: "la ứià làm quỷ nước Nam còn hơn làm 
vương đất Bắc”, ồng còn là phò mã triều Trần, được 
vua Trần Thái Tông gả công chúa Thụy Bảo làm vỢ. 
Còn Ngọc Khuê sau này được gả cho Trạng 
nguyên Trần cố (đỗ khoa thi năm Bứủi Dần 1266). 
* Lý Chiêu Hoàng là nguờỉ đuy nhất trong lịch 
sử trải qua 6 danh vị suốt cả cuộc đời thăng trầm: 
1. Công chúa nhà Lý, 2. Thái tử, 3. Nữ hoàng, 4. 
Hoàng hậu, 5. Công chúa nhà Irần, 6. Phu nhân 
tướng quân. 
* Lý Chiêu Hoàng mất ngày 23 tháng 9 nàm 
Mậu Dầu (1278) thọ 60 tuổi; điều đặc biệt kỳ lạ là 
khi đó tóc bà vẫn đen nhánh/ môi đỏ như tô son, 
đôi má vẫn một màu hồng đào. 
* Lịch sử ghi chép về Lý Chiêu Hoàng với nối 
niềm bi kịch mà không nêu rõ công lao gị trong 
hơn 1 năm ở ngôi của bà. Thế nhưng trong nhân 
dân nhiều nơi rất trân trọng tôn bà làm Thành 
hoàng vì đã giúp dân xây dụng xóm làng, an cư lạc 
» o 2 0 c« 

___________ ^ ù ê u 

^ n ộ l t/ò i 

ỹ iố ___________ 

nghiệp như làng Tmh Quang và làng Giao Tự (Gia 
Lâm, Hà Nội), làng Yên Thành (nay thuộc quận Ba 
Đình, Hà Nội)... 

Lý Chiêu Hoàng là vỊ vua duy nhất không 
được thờ ở đền Đô bởi quan niệm “Nữ nhân ngoại 
tộc”, bà đã làm dâu của họ Trần lại làm mất ngôi lên 
có tội với nhà Lý vì thế không được thờ cùng Lý 
Bát Đế. Nhân dân đã lập một ngôi đền thờ riêng 
cho bà ở gần đền Đô đặt lên là đền Rồng (Long 
miếu điện). Hàng năm vào dịp lễ hội đền Đô (15/3 
âm lịch) người dân lại rước kiệu của bà từ đền 
Rồng về đền Đô để bà được gặp vua cha và các vị 
vua triều Lý. 

III. MỘT SỐ NGHĨ VẤN VỀ QUÃNG ĐỜI SAU NÀY 
CỦA LÝ CHIÊU HOÀNG 
Những về Lý Chiêu Hoàng theo sử sách và 
giai thoại dân gian dưdmg như đã rõ ràng, tuy 
nhiên xem xét kỹ một số dữ Uệu, thông tín chúng 
ta sẽ thấy có những điểm khiến người đờỉ có chút 
băn khoăn, nghi vấn về cuộc đời của bà sau khi bị 
truất ngôi hoàng hậu và bị giáng xuống làm công 
chúa. Những nghỉ vấn dưới đây có căn cứ; song 
chúng tôi cũng tạm nêu ra với mục đích tìm hiểu, 
tiếp cận đa chiều về lịch sử: 
k »21 

CỉS 

Lý Chiêu Hoàng
Xem chi tiết
Trần Thị Hà Phương
27 tháng 2 2016 lúc 21:53

Thời Lý 

Vị vua đầu tiên : Lý Thái tổ ( Hay còn gọi là Lý Công Uẩn)

Vị vua cuối cùng : Lý Chiêu Hoàng ( Hay còn gọi là Lý Chiêu Thánh)

Thời Trần

Vị vua đầu tiên : Trần Thánh Tông ( hay còn gọi là Trần Cảnh )

Vị vua cuối cùng : Trần Thiếu Đế  (

Thời Lê 

Vị vua đầu tiên : Lê Thái Tổ ( Hay còn gọi là Lê Lợi )

Vị Vua cuối cùng : Lê Cung Hoàng ( hay còn gọi là Lê Xuân ) 

Lù Phương Thảo
13 tháng 11 2017 lúc 21:14

Nhà Trần có 12 đời vua:

Trần Thái Tông( 1225- 1258)

Trần Thánh Tông(1258- 1278)

Trần Nhân Tông(1279-1293)

Trần Anh Tông(1293- 1314)

Trần Minh Tông(1314- 1329)

Trần Hiển Tông(1329-1341)

Trần Dụ Tông(1341- 1369)

Trần Nghệ Tông(1370-1372)

Trần Duệ Tông(1372-1377)

Trần Phế Đế (1377- 1388)

Trần Thuận Tông(1388- 1398)

Trần Thiếu Đế(1398- 1400)

le thi thuy trang
Xem chi tiết
Ngô Thị Thảo May
25 tháng 2 2016 lúc 18:58

1. “Anh em như thể tay chân

Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần”

2. "Thấy ai đói rách thì thương

Đói thường cho mặc, đói thường cho ăn."

3. "Bầu ơi thương lấy bí cùng 

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn" 

Đinh Tuấn Việt
25 tháng 2 2016 lúc 18:50

1. “Anh em như thể tay chân

Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần”

2. "Thấy ai đói rách thì thương

Đói thường cho mặc, đói thường cho ăn."

3. "Bầu ơi thương lấy bí cùng 

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn" 

Nguyễn Ngọc Ánh
26 tháng 2 2016 lúc 19:15

 1  Anh em như thể tay chân

Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần

2  Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn

3   Khôn ngoan đối đáp người ngoài 

Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau

4 Lá lành đùm lá rách

Kiên NT
Xem chi tiết
Đinh Tuấn Việt
24 tháng 2 2016 lúc 19:49

Nông Nghiệp :

- Cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều đã phá hoại nghiêm trọng nên sản xuất nông nghiệp. Chính quyền Lê - Trịnh ít quan tâm đến công tác thuỷ lợi và tổ chức khai hoang. Ruộng đất công làng xã bị cường hào đem cầm bán. Ruộng đất bỏ hoang, mất mùa, đói kém xảy ra dồn dập, nhất là vùng Sơn Nam, Thanh Hoá, Nghệ An. Nông dân phải bỏ làng đi phiêu tán.

Thủ công nghiệp :

- Từ thế kỉ XVII, xuất hiện thêm nhiều làng thủ công, trong đó có nhiều làng thủ công nổi tiếng : gốm Thổ Hà (Bắc Giang), Bát Tràng (Hà Nội), dệt La Khê (Hà Nội), rèn sắt Nho Lâm (Nghệ An)...
 

Thương nghiệp :

- Buôn bán phát triển, nhất là ờ các vùng đồng bằng và ven biển. Các thương nhân châu Á, châu Âu thường đến Phố Hiến và Hội An buôn bán tấp nập. Xuất hiện thêm một số đô thị, ngoài Thăng Long còn có Phố Hiến (Hưng Yên), Thanh Hà (Thừa Thiên - Huế), Hội An (Quảng Nam), Gia Định (Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay).
Các chúa Trịnh và chúa Nguyễn cho thương nhân nước ngoài vào buôn bán để nhờ họ mua vũ khí. Về sau, các chúa thi hành chính sách hạn chế ngoại thương, do vậy, từ nửa sau thế kỉ XVIII, các thành thị suy tàn dần.

Thu Hà
27 tháng 2 2016 lúc 21:22

Nông Nghiệp:
- Cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều đã phá hoại nghiêm trọng nên sản xuất nông nghiệp. Chính quyền Lê - Trịnh ít quan tâm đến công tác thuỷ lợi và tổ chức khai hoang. Ruộng đất công làng xã bị cường hào đem cầm bán. Ruộng đất bỏ hoang, mất mùa, đói kém xảy ra dồn dập, nhất là vùng Sơn Nam, Thanh Hoá, Nghệ An. Nông dân phải bỏ làng đi phiêu tán.
- Thủ công nghiệp : Từ thế kỉ XVII, xuất hiện thêm nhiều làng thủ công, trong đó có nhiều làng thủ công nổi tiếng : gốm Thổ Hà (Bắc Giang), Bát Tràng (Hà Nội), dệt La Khê (Hà Nội), rèn sắt Nho Lâm (Nghệ An)...
- Thương nghiệp : Buôn bán phát triển, nhất là ờ các vùng đồng bằng và ven biển. Các thương nhân châu Á, châu Âu thường đến Phố Hiến và Hội An buôn bán tấp nập. Xuất hiện thêm một số đô thị, ngoài Thăng Long còn có Phố Hiến (Hưng Yên), Thanh Hà (Thừa Thiên - Huế), Hội An (Quảng Nam), Gia Định (Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay).
Các chúa Trịnh và chúa Nguyễn cho thương nhân nước ngoài vào buôn bán để nhờ họ mua vũ khí. Về sau, các chúa thi hành chính sách hạn chế ngoại thương, do vậy, từ nửa sau thế kỉ XVIII, các thành thị suy tàn dần.

haha

 

Võ Đông Anh Tuấn
29 tháng 2 2016 lúc 16:43

Nông Nghiệp:
- Cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều đã phá hoại nghiêm trọng nên sản xuất nông nghiệp. Chính quyền Lê - Trịnh ít quan tâm đến công tác thuỷ lợi và tổ chức khai hoang. Ruộng đất công làng xã bị cường hào đem cầm bán. Ruộng đất bỏ hoang, mất mùa, đói kém xảy ra dồn dập, nhất là vùng Sơn Nam, Thanh Hoá, Nghệ An. Nông dân phải bỏ làng đi phiêu tán.
- Thủ công nghiệp : Từ thế kỉ XVII, xuất hiện thêm nhiều làng thủ công, trong đó có nhiều làng thủ công nổi tiếng : gốm Thổ Hà (Bắc Giang), Bát Tràng (Hà Nội), dệt La Khê (Hà Nội), rèn sắt Nho Lâm (Nghệ An)...
- Thương nghiệp : Buôn bán phát triển, nhất là ờ các vùng đồng bằng và ven biển. Các thương nhân châu Á, châu Âu thường đến Phố Hiến và Hội An buôn bán tấp nập. Xuất hiện thêm một số đô thị, ngoài Thăng Long còn có Phố Hiến (Hưng Yên), Thanh Hà (Thừa Thiên - Huế), Hội An (Quảng Nam), Gia Định (Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay).
Các chúa Trịnh và chúa Nguyễn cho thương nhân nước ngoài vào buôn bán để nhờ họ mua vũ khí. Về sau, các chúa thi hành chính sách hạn chế ngoại thương, do vậy, từ nửa sau thế kỉ XVIII, các thành thị suy tàn dần.

hà minh phượng
Xem chi tiết
Hoàng Tony
28 tháng 2 2016 lúc 13:14
THỜI LÊ SƠTHỜI LÝTHỜI TRẦN 
Có 2 khuynh hướng văn thơ nổi trội dưới thời Lê sơ : văn thơ yêu nước dân tộc và văn thơ cung đình.

Theo đà dòng văn học yêu nước thời Lý - Trần, được tiếp sức thêm bởi cảm hứng qua những chiến công của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, nhiều tác phẩm văn thơ đã nói lên ý chí bất khuất và lòng tự hào về một quốc gia - dân tộc có bề dày lịch sử - văn hóa. Nguyễn Trãi với Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Lý Tử Tấn với Chí Linh sơn phú, Xương Giang phú, Nguyễn Mộng Tuân với Lam Sơn phú, Hậu Bạch Đằng giang phú, Lê Thánh Tông với các bài thơ ca tụng các nhân vật lịch sử - văn hóa và các danh lam thắng cảnh đất nước. Theo phương hướng tìm về cội nguồn dân tộc Vũ Quỳnh và Kiều Phú đã hiệu đính Lĩnh Nam thích quái, một tác phẩm dã sử truyền thuyết từ thời Trần. Tinh thần dân tộc còn biểu hiện ở việc phổ biến dùng chữ Nôm, với các tác giả Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông và tác phẩm Hồng Đức Quốc âm thi tập.

Bên cạnh đó, dòng văn học cung đình với nội dung hình thức thù phụng, thanh lệ cũng phát triển. Bùi Huy Bích nhận định: "Thời Hồng Đức gọi là cực thịnh nhưng lúc đó văn chương ưa chuộng thanh lệ (khuôn sáo hình thức)". Điển hình là hội Tao Đàn (nhị thập bát tú) do Lê Thánh Tông làm chủ soái, cùng các văn thần như Đỗ Nhuận, Thân Nhân Trung, Lương Thế Vinh. Tác phẩm chính của hội này là tập Quỳnh uyển cửu ca, với những bài thơ xướng họa tán tụng, với chủ đề khuôn sáo là "Minh quân, lương thần" (vua sáng, tôi hiền). Dòng văn học cung đình đã thể hiện rõ quan điểm giáo huấn "Văn dĩ tải đạo", yếu tố trữ tình, cá nhân đã vắng mặt trong đó.

Để phục vụ cho việc xây dựng chế độ phong kiến nhà nước quan liêu và thể hiện tinh thần dân tộc, "sánh ngang Nam - Bắc", các tác phẩm lịch sử, địa lý thời Lê sơ khá phong phú. Đó là các tác phẩm Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi, bộ điển chế đồ sộ Thiên Nam dư hạ tập 100 quyển (đã thất truyền, chỉ còn lại 4- 5 quyển).

Đặc biệt, bộ chính sử Đại Việt sử ký toàn thư của các sử thần nhà Lê (Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh), phát triển từ bộ sử gốc Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu trước đó, là một tác phẩm quý giá. Ở đây, lần đầu tiên, Ngô Sĩ Liên đã đưa truyền thuyết Hùng Vương - An Dương Vương vào chính sử dân tộc.

Về địa lý, đáng kể là cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi và tập bản đồ hành chính quốc gia soạn dưới thời Lê Thánh Tông, th­ường gọi là Hồng Đức bản đồ vẽ chi tiết 13 thừa tuyên và các phủ huyện. Các tác phẩm địa lý này cũng đã được bổ sung ở những thời kỳ sau.
Ngay trong thế kỷ đầu tiên của thời Lý đã để lại trong di sản tinh thần của dân tộc Việt Nam ba áng thơ văn cô đọng mà gây được một ấn tượng về khí phách phi thường: đó là tờ Chiếu dời đô (214 chữ), Phạt Tống lộ bố văn (148 chữ) và bài thơ Nam quốc sơn hà (28 chữ).
Trong thời Lý thơ văn phát triển khá rầm rộ, có tới hàng trăm tác giả nhưng trải qua các cuộc chiến tranh, lụt lội các sách vở đã bị hư hại nhiều, đặc biệt là chủ trương phá hủy văn hóa của nhà Minh thời kỳ đô hộ Đại Việt đã tịch thu hoặc tiêu hủy hầu hết chứng tích văn hóa thời nhà Lý. Một số văn bia các chùa còn lưu giữ các bài thơ, bài vịnh của thời này.
Tác phẩm đặc sắc tời này là Thiền Uyển tập anh, ghi lại hành trạng của 68 vị thiền sư, cùng 77 bài thơ, bài kệ. Một số tác gia thời này như thiền sư Viên Chiếu (999-1091), thiền sư Không Lộ (?-1119)... và Hoàng thái hậu Ỷ Lan cũng được xếp trong hàng ngũ tác gia với bài kệ "Sắc không".
Đời nhà Trần đã đào tạo được khá nhiều học giả nổi tiếng như Lê Văn Hưu soạn bộ Đại Việt Sử Ký và đây là bộ sử đầu tiên của Việt Nam. Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng là một ông trạng rất mực thanh liêm, đức độ và có tài ứng đối đã làm cho vua quan nhà Nguyên phải kính phục. Chu Văn An là một bậc cao hiền nêu gương thanh khiết, cương trực. Các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông đều là những người giỏi văn chương và có soạn Ngự tập và danh tướng Trần Quốc Tuấn có làm những tác phẩm giá trị như Hịch tướng sĩ.
Hàn Thuyên tức Nguyễn Thuyên có công làm thơ bằng chữ Nôm và đặt ra luật thơ Nôm. Vì thế đã có nhiều học giả, văn nhân đã theo gương của Hàn Thuyên mà làm những bài thơ Nôm rất giá trị. ĐVSKTT chép:
Bấy giờ (năm 1282) có cá sấu đến sông Lô. Vua sai hình bộ thượng thư Nguyễn Thuyên làm bài văn ném xuống sông, cá sấu bỏ đi. Vua cho việc này giống như việc của Hàn Dũ, bèn ban gọi là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc ngữ. Thơ phú nước ta dùng nhiều quốc ngữ, thực bắt đầu từ đấy.
Nghệ thuật điêu khắc thời Trần được đánh giá là có bước tiến bộ, tinh xảo hơn so với thời Lý, trong đó có một số phù điêu khắc hình nhạc công biểu diễn mang phong cách Chiêm Thành. Cách trang trí hoa dựa trên nghệ thuật dân dụng [5].
Về kiến trúc, dựa trên các tháp gốm, tháp đá, mô hình nhà bằng đất nung, mảnh ngói vỡ khai quật được, triều Trần tiếp tục kế thừa truyền thống nhà Lý với điểm nổi bật là chùa tháp, bộ đấu củng chống đỡ mái cầu kỳ và các hoạt tiết trang trí đậm màu sắc Phật giáo.
Âm nhạc Đại Việt thời Trần chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, Chiêm Thành và Trung Quốc [6]. Một số nhạc công bị bắt từ Chiêm Thành và Trung Quốc trong các cuộc chiến đã truyền nghề ca hát cho dân Đại Việt, càng ngày càng phổ biến.

 

Hoàng Tony
28 tháng 2 2016 lúc 13:15

tick nha

Võ Đông Anh Tuấn
29 tháng 2 2016 lúc 16:50
Thời Lý : Thời Trần : Thời Lê Sơ :
*Văn học : Chiếu dời đô, Phạt Tống lộ bố văn, Nam quốc sơn hà, Thiền Uyển tập anh,...*Văn học : Phi sa tập (Hàn Thuyên), Hịch Tướng Sĩ (Trần Hưng Đạo), Phò giá về kinh (Trần Quang Khải), Phú sông Bạch Đằng, (Trương Hán Siêu),...

*Sử học : Đại Việt sử ký (Lê Văn Hưu), Việt sử cương mục ( Hồ Tông Thốc), Trung hưng thực lục, Tăng già toái sự, Thiền uyển tập anh, Việt điện u linh tập,...

*Văn học : Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập, Nguyễn Trãi, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi) , Anh hoa hiếu trị, Chinh Tây kỷ hành, Minh lương cẩm tú, Quỳnh uyển cửu ca, Xuân Vân thi tập, Châu cơ thắng thưởng, Văn minh cổ suý, Cổ kim cung từ thi tập Lam Sơn Lương thuỷ (Lê Thánh Tông),...

* Sử học : Đại Việt sử kí, Đại Việt sử kí toàn thư, Lam Sơn Thực Lục, Đại Việt thông giám, Việt giám thông khảo tổng luận,...

 

Tiddy 1303
Xem chi tiết
le thi thuy trang
22 tháng 2 2016 lúc 18:49

- bình ngô đại cáo : thể hiện lòng yêu nước và thương dân sâu sắc của nguyễn trãi với con người, đất nước thời lê 

 

 

Nguyễn Vũ Thiên Trúc
22 tháng 2 2016 lúc 19:20

Bình ngô đại cáo

Tiddy 1303
22 tháng 2 2016 lúc 19:21

3 tác phẩm 

Võ Đông Anh Tuấn
Xem chi tiết
Võ Đông Anh Tuấn
21 tháng 2 2016 lúc 13:06

Lương Thế vinh vẫn được người đời quen gọi là Trạng Lường. Lí do là vì ngay từ nhỏ, ông đã tỏ ra rất giỏi trong việc đo lường. Khi đỗ đạt ra làm việc quan, ông đã viết cuốn sách nhan đề “Đại thành toán pháp” (2) nhằm tổng kết kiến thức tính toán của thời đó và cả những phát minh của chính bản thân ông. Lương Thế Vinh đã viết đề tựa, nêu mục đích của cuốn sách như sau:

“ Trước thời cho biết cách đo lường
Tính toán bình phân ở cửu chương
Thông hay mọi nhẽ điều vinh hiển
Học lấy cho tinh giúp thánh vương!”


Tương truyền rằng thuở còn nhỏ, một lần Lương Thế Vinh cùng chúng bạn ngồi hóng mát dưới một gốc cây cổ thụ. Cả bọn thách đố nhau làm thế nào để biết được cây cao - thấp. Một số cho rằng chỉ có cách là trèo lên ngọn cây, rồi dùng dây thòng xuống đất mà đo. Riêng Lương Thế Vinh cho rằng không cần trèo, đứng dưới đất vẫn có thể đo được. Cậu lấy chiếc gậy cầm ở tay đo xem dài ngắn bao nhiêu, đoạn dựng gậy lên mặt đất và đo chiều dài bóng gậy. Tiếp đến cậu đo bóng cây và sau một lát nhẩm tính, cậu đã tìm được chiều cao của cây. Bọn trẻ không tin bèn dùng thừng nối lại, buộc hòn đá phía dưới, rồi trèo lên tít ngọn cây dong thừng xuống đất để đo. Kết quả, đúng như Vinh đã tính.

Ngày nay, cách tính chiều cao của cây mà Lương Thế Vinh đã áp dụng, chắc chắn các bạn học sinh chúng ta không lấy gì làm lạ. Nhưng cách đây gần 5 thế kỉ, khi ở châu Âu số người hiểu được định lí Pitago về cạnh tam giác vuông a2 + b2 = c2 chỉ mới đếm trên đầu ngón tay, thì việc Lương Thế Vinh tìm ra được tỉ lệ chiều cao của cây và chiều cao của chiếc gậy bằng tỉ lệ bóng của chúng trên mặt đất, là một sáng tạo, thể hiện nước ta ở thế kỉ XV đã có nhà toán học đầy tài năng.

Khi đến tuổi trưởng thành, có lần Lương Thế Vinh đến một khúc sông, thấy mấy người đang bàn tính nhau tìm cách đo chiều rộng của con sông để bắc cầu. Hôm đó nước sông rất to và chảy xiết, nên không thể bơi qua. Lương Thế Vinh bèn góp ý:

- Không cần sang sông làm gì. Các ông tìm cho tôi mấy cái cọc, tôi sẽ đo giúp.

Lúc đầu mấy người tưởng ông nói đùa, không tin. Nhưng chỉ sau một lúc đóng cọc, ngắm nghía và tính toán, ông đã cho họ biết khúc sông rộng bao nhiêu thước. Thì ra từ thời đó, Lương Thế Vinh đã biết đến kiến thức về tam giác đồng dạng...

Lại một lần khác, đoàn sứ bộ nhà Minh sang nước ta. Vua Lê Thánh Tông cử trạng nguyên Lương Thế Vinh đón tiếp. Trưởng đoàn sứ Minh vốn nghe tiếng trạng nguyên 
Việt chẳng những nổi tiếng văn chương, mà còn có trí thức uyên bác về khoa học, bèn hỏi:

- Có phải ông là người làm sách “Đại thành toán pháp”?

Lương Thế Vinh tỏ vẻ khiêm tốn, đáp:

- Vâng, đúng vậy!

Nhân lúc đó có con voi đang kéo gỗ dưới sông lên, sứ Tàu bèn thách:

- Vậy quan trạng có thể cân xem con voi kia nặng bao nhiêu được không?

- Được ạ!

Dứt lời, Lương Thế Vinh lấy chiếc cân, xăm xăm đi ra phía sông để cân voi.

Sứ Tàu phì cười, nói:

- Xem chiếc cân quan trạng chỉ đủ cân được cái đuôi voi thôi!”

- Thì chia nhỏ voi ra nhiều phần để cân.

Lương Thế Vinh trả lời, tỉnh khô.

Vị chánh sứ Tàu lại châm chọc:

- Ông định mổ thịt voi chắc? Nhớ phần tôi miếng gan nhé!

Lương Thế Vinh không trả lời. Ông sai lính dắt voi xuống chiếc thuyền bỏ không buộc lên bờ. Voi nặng, thuyền đắm sâu xuống nước. Ông lại sai đánh dấu mép nước bên mạn thuyền, rồi dắt voi lên. Đoạn ông ra lệnh cho quân lính khuân đá bỏ vào thuyền, cho đến khi thuyền đắm ngang mực nước đã đánh dấu thì thôi. Thế rồi trạng cho bắc cân cân hết số đá trong thuyền và bảo với sứ Minh:

- Đây, con voi ông chỉ, nặng chừng này cân!

Viên sứ Tàu tuy trong bụng đã phục lăn, nhưng bề ngoài vẫn làm vẻ chưa tin, muốn thử tài trạng thêm, bèn xé một tờ giấy bản trong cuốn sách dày và đưa cho trạng một chiếc thước, nhờ đo xem tờ giấy dày bao nhiêu.

Tình huống đặt ra thật khó xử. Tờ giấy quá mỏng, mà các nấc chia trên thước vừa lớn, lại không rõ. Nhưng với trí tuệ linh hoạt, Lương Thế Vinh đã nghĩ ngay được cách đo. Ông mượn viên sứ Tàu quyển sách, lấy thước đo chiều dày cả quyển, rồi chia cho số tờ và tìm ra đáp số, trước con mắt thán phục của sứ bộ nhà Minh.

Ngô Thị Thảo May
21 tháng 2 2016 lúc 13:06

Lương Thế Vinh vẫn được người đời quen gọi là Trạng Lường. Lí do là vì ngay từ  nhỏ, ông đã tỏ ra rất giỏi trong việc đo lường. Khi đỗ đạt ra làm việc quan, ông đã viết cuốn sách nhan đề “Đại thành toán pháp” (2) nhằm tổng kết kiến thức tính toán của thời đó và cả những phát minh của chính bản thân ông. Lương Thế Vinh đã viết đề tựa, nêu mục đích của cuốn sách như sau:

“ Trước thời cho biết cách đo lường 
Tính toán bình phân ở cửu chương 
Thông hay mọi nhẽ điều vinh hiển 
Học lấy cho tinh giúp thánh vương!”


Tương truyền rằng thuở còn nhỏ, một lần Lương Thế Vinh cùng chúng bạn ngồi hóng mát dưới một gốc cây cổ thụ. Cả bọn thách đố nhau làm thế nào để biết được cây cao - thấp. Một số cho rằng chỉ có cách là trèo lên ngọn cây, rồi dùng dây thòng xuống đất mà đo. Riêng Lương Thế Vinh cho rằng không cần trèo, đứng dưới đất vẫn có thể đo được. Cậu lấy chiếc gậy cầm ở tay đo xem dài ngắn bao nhiêu, đoạn dựng gậy lên mặt đất và đo chiều dài bóng gậy. Tiếp đến cậu đo bóng cây và sau một lát nhẩm tính, cậu đã tìm được chiều cao của cây. Bọn trẻ không tin bèn dùng thừng nối lại, buộc hòn đá phía dưới, rồi trèo lên tít ngọn cây dong thừng xuống đất để đo. Kết quả, đúng như Vinh đã tính.

Ngày nay, cách tính chiều cao của cây mà Lương Thế Vinh đã áp dụng, chắc chắn các bạn học sinh chúng ta không lấy gì làm lạ. Nhưng cách đây gần 5 thế kỉ, khi ở châu Âu số người hiểu được định lí  Pitago về cạnh tam giác vuông    a2 + b2 = c2 chỉ mới đếm trên đầu ngón tay, thì việc Lương Thế Vinh tìm ra được tỉ lệ chiều cao của cây và chiều cao của chiếc gậy bằng tỉ lệ bóng của chúng trên mặt đất,  là một sáng tạo, thể hiện nước ta ở thế kỉ XV đã có nhà toán học đầy tài năng.

Khi đến tuổi trưởng thành, có lần Lương Thế Vinh đến một khúc sông, thấy mấy người đang bàn tính nhau tìm cách đo chiều rộng của con sông để bắc cầu. Hôm đó nước sông rất to và chảy xiết, nên không thể bơi qua. Lương Thế Vinh bèn góp ý:

- Không cần sang sông làm gì. Các ông tìm cho tôi mấy cái cọc, tôi sẽ đo giúp.

Lúc đầu mấy người tưởng ông nói đùa, không tin. Nhưng chỉ sau một lúc đóng cọc, ngắm nghía và tính toán, ông đã cho họ biết khúc sông rộng bao nhiêu thước. Thì ra từ thời đó, Lương Thế Vinh đã biết đến kiến thức về tam giác đồng dạng...

Lại một lần khác, đoàn sứ bộ nhà Minh sang nước ta. Vua Lê Thánh Tông cử trạng nguyên Lương Thế Vinh đón tiếp. Trưởng đoàn sứ Minh vốn nghe tiếng trạng nguyên Việt chẳng những nổi tiếng văn chương, mà còn có trí thức uyên bác về khoa học, bèn hỏi:

- Có phải ông là người làm sách “Đại thành toán pháp”?

Lương Thế Vinh tỏ vẻ khiêm tốn, đáp:

- Vâng, đúng vậy!

Nhân lúc đó có con voi đang kéo gỗ dưới sông lên, sứ Tàu bèn thách:

- Vậy quan trạng có thể cân xem con voi kia nặng bao nhiêu được không?

- Được ạ!

Dứt lời, Lương Thế Vinh lấy chiếc cân, xăm xăm đi ra phía sông để cân voi.

Sứ Tàu phì cười, nói:

- Xem chiếc cân quan trạng chỉ đủ cân được cái đuôi voi thôi!”

- Thì chia nhỏ voi ra nhiều phần để cân.

Lương Thế Vinh trả lời, tỉnh khô.

Vị chánh sứ Tàu lại châm chọc:

- Ông định mổ thịt voi chắc? Nhớ phần tôi miếng gan nhé!

Lương Thế Vinh không trả lời. Ông sai lính dắt voi xuống chiếc thuyền bỏ không buộc lên bờ. Voi nặng, thuyền đắm sâu xuống nước. Ông lại sai đánh dấu mép nước bên mạn thuyền, rồi dắt voi lên. Đoạn ông ra lệnh cho quân lính khuân đá bỏ vào thuyền, cho đến khi thuyền đắm ngang mực nước đã đánh dấu thì thôi. Thế rồi trạng cho bắc cân cân hết số đá trong thuyền và bảo với sứ Minh:
- Đây, con voi ông chỉ, nặng chừng này cân!

Viên sứ Tàu tuy trong bụng đã phục lăn, nhưng bề ngoài vẫn làm vẻ chưa tin, muốn thử tài trạng thêm, bèn xé một tờ giấy bản trong cuốn sách dày và đưa cho trạng một chiếc thước, nhờ đo xem tờ giấy dày bao nhiêu.

Tình huống đặt ra thật khó xử. Tờ giấy quá mỏng, mà các nấc chia trên thước vừa lớn, lại không rõ. Nhưng với trí tuệ linh hoạt, Lương Thế Vinh đã nghĩ ngay được cách đo. Ông mượn viên sứ Tàu quyển sách, lấy thước đo chiều dày cả quyển, rồi chia cho số tờ và tìm ra đáp số, trước con mắt thán phục của sứ bộ nhà Minh.

Thu Hà
27 tháng 2 2016 lúc 21:27

Trạng nguyên Lương Thế Vinh người làng Cao Hương, huyện Thiên Bản (nay thuộc Nam Định) thuở còn nhỏ đã tỏ ra hài hước, hóm hỉnh và khôn ngoan.


1. Chú bé láu lỉnh
Có lần, người bố là Lương Thế Thiện đi vắng, chủ nợ đến đòi tiền, thấy cậu bé Vinh đang chơi trò nặn đất ở sân, liền hỏi:
- Bố mẹ đi đâu?

Vinh làm thinh không trả lời. Chủ nợ hỏi lại, cậu mới đáp:

- Bố, mẹ tôi đã đi khắc có việc, ông hỏi làm gì?

Chủ nợ cứ gặng hỏi đi đâu, bao giờ về... Cuối cùng, Vinh mới trả lời, giọng tỉnh khô:

- Bố tôi đi giết một người sống. Mẹ tôi đi cứu một người chết.

Chủ nợ ngơ ngác, không hiểu đầu đuôi thế nào, nên cứ hỏi mãi. Thấy Vinh im lặng, chủ nợ dỗ:

- Nếu mày nói thật, ta sẽ trừ cho khoản nợ trước kia bố mẹ mày vay.

Bấy giờ Vinh mới vui vẻ đáp:

- Nếu vậy thì ông in ngón tay vào bánh đất này để làm bằng.

Người chủ nợ vì tò mò muốn biết, nên cũng thử chiều ý cậu bé xem sao.

Lúc ấy Vinh mới vừa mỉm cười, vừa nói:

- Bố tôi đi nhổ mạ. Mẹ tôi đi cấy lúa!

Lúc này chủ nợ mới vỡ lẽ, trong lòng thầm thán phục Lương Thế Vinh là đứa trẻ khôn ngoan.

Ngày hôm sau chủ nợ lại đến đòi. Bố mẹ Vinh chưa biết nói sao, thì Vinh đã giơ đồ chơi bằng đất cho mọi người xem và nói:

- Hôm qua ông đã hứa xoá nợ cho nhà tôi rồi kia mà? Dấu tay ông in còn đây này?

Người chủ nợ giật mình, nói với ông Thiện:

- Tôi mừng cho ông bà có cháu bé rất thông minh. Tôi xin biếu khoản nợ để gia đình lo cho cháu học sớm, sau này chắc thế nào cũng chiếm được khôi nguyên.

Từ đó cậu bé Lương Thế Vinh đã nổi tiếng là “Thần đồng làng Hương”.


2. Trạng Lường

Lương Thế vinh vẫn được người đời quen gọi là Trạng Lường. Lí do là vì ngay từ nhỏ, ông đã tỏ ra rất giỏi trong việc đo lường. Khi đỗ đạt ra làm việc quan, ông đã viết cuốn sách nhan đề “Đại thành toán pháp” (2) nhằm tổng kết kiến thức tính toán của thời đó và cả những phát minh của chính bản thân ông. Lương Thế Vinh đã viết đề tựa, nêu mục đích của cuốn sách như sau:

“ Trước thời cho biết cách đo lường
Tính toán bình phân ở cửu chương
Thông hay mọi nhẽ điều vinh hiển
Học lấy cho tinh giúp thánh vương!”


Tương truyền rằng thuở còn nhỏ, một lần Lương Thế Vinh cùng chúng bạn ngồi hóng mát dưới một gốc cây cổ thụ. Cả bọn thách đố nhau làm thế nào để biết được cây cao - thấp. Một số cho rằng chỉ có cách là trèo lên ngọn cây, rồi dùng dây thòng xuống đất mà đo. Riêng Lương Thế Vinh cho rằng không cần trèo, đứng dưới đất vẫn có thể đo được. Cậu lấy chiếc gậy cầm ở tay đo xem dài ngắn bao nhiêu, đoạn dựng gậy lên mặt đất và đo chiều dài bóng gậy. Tiếp đến cậu đo bóng cây và sau một lát nhẩm tính, cậu đã tìm được chiều cao của cây. Bọn trẻ không tin bèn dùng thừng nối lại, buộc hòn đá phía dưới, rồi trèo lên tít ngọn cây dong thừng xuống đất để đo. Kết quả, đúng như Vinh đã tính.

Ngày nay, cách tính chiều cao của cây mà Lương Thế Vinh đã áp dụng, chắc chắn các bạn học sinh chúng ta không lấy gì làm lạ. Nhưng cách đây gần 5 thế kỉ, khi ở châu Âu số người hiểu được định lí Pitago về cạnh tam giác vuông a2 + b2 = c2 chỉ mới đếm trên đầu ngón tay, thì việc Lương Thế Vinh tìm ra được tỉ lệ chiều cao của cây và chiều cao của chiếc gậy bằng tỉ lệ bóng của chúng trên mặt đất, là một sáng tạo, thể hiện nước ta ở thế kỉ XV đã có nhà toán học đầy tài năng.

Khi đến tuổi trưởng thành, có lần Lương Thế Vinh đến một khúc sông, thấy mấy người đang bàn tính nhau tìm cách đo chiều rộng của con sông để bắc cầu. Hôm đó nước sông rất to và chảy xiết, nên không thể bơi qua. Lương Thế Vinh bèn góp ý:

- Không cần sang sông làm gì. Các ông tìm cho tôi mấy cái cọc, tôi sẽ đo giúp.

Lúc đầu mấy người tưởng ông nói đùa, không tin. Nhưng chỉ sau một lúc đóng cọc, ngắm nghía và tính toán, ông đã cho họ biết khúc sông rộng bao nhiêu thước. Thì ra từ thời đó, Lương Thế Vinh đã biết đến kiến thức về tam giác đồng dạng...

Lại một lần khác, đoàn sứ bộ nhà Minh sang nước ta. Vua Lê Thánh Tông cử trạng nguyên Lương Thế Vinh đón tiếp. Trưởng đoàn sứ Minh vốn nghe tiếng trạng nguyên 
Việt chẳng những nổi tiếng văn chương, mà còn có trí thức uyên bác về khoa học, bèn hỏi:

- Có phải ông là người làm sách “Đại thành toán pháp”?

Lương Thế Vinh tỏ vẻ khiêm tốn, đáp:

- Vâng, đúng vậy!

Nhân lúc đó có con voi đang kéo gỗ dưới sông lên, sứ Tàu bèn thách:

- Vậy quan trạng có thể cân xem con voi kia nặng bao nhiêu được không?

- Được ạ!

Dứt lời, Lương Thế Vinh lấy chiếc cân, xăm xăm đi ra phía sông để cân voi.

Sứ Tàu phì cười, nói:

- Xem chiếc cân quan trạng chỉ đủ cân được cái đuôi voi thôi!”

- Thì chia nhỏ voi ra nhiều phần để cân.

Lương Thế Vinh trả lời, tỉnh khô.

Vị chánh sứ Tàu lại châm chọc:

- Ông định mổ thịt voi chắc? Nhớ phần tôi miếng gan nhé!

Lương Thế Vinh không trả lời. Ông sai lính dắt voi xuống chiếc thuyền bỏ không buộc lên bờ. Voi nặng, thuyền đắm sâu xuống nước. Ông lại sai đánh dấu mép nước bên mạn thuyền, rồi dắt voi lên. Đoạn ông ra lệnh cho quân lính khuân đá bỏ vào thuyền, cho đến khi thuyền đắm ngang mực nước đã đánh dấu thì thôi. Thế rồi trạng cho bắc cân cân hết số đá trong thuyền và bảo với sứ Minh:

- Đây, con voi ông chỉ, nặng chừng này cân!

Viên sứ Tàu tuy trong bụng đã phục lăn, nhưng bề ngoài vẫn làm vẻ chưa tin, muốn thử tài trạng thêm, bèn xé một tờ giấy bản trong cuốn sách dày và đưa cho trạng một chiếc thước, nhờ đo xem tờ giấy dày bao nhiêu.

Tình huống đặt ra thật khó xử. Tờ giấy quá mỏng, mà các nấc chia trên thước vừa lớn, lại không rõ. Nhưng với trí tuệ linh hoạt, Lương Thế Vinh đã nghĩ ngay được cách đo. Ông mượn viên sứ Tàu quyển sách, lấy thước đo chiều dày cả quyển, rồi chia cho số tờ và tìm ra đáp số, trước con mắt thán phục của sứ bộ nhà Minh.

Theo: edu.goonline.vn

View more random threads:

Trí tuệ Lương Thế Vinh, vì sao gọi là Trạng Lường?Tào Tháo – “Gian hùng chi mê”Lịch sử Quảng NamAnh hùng dân tộc Trương ĐịnhÝ nghĩa của tên gọi Hà NộiCách mạng tháng 8 và người trí thứcHoàng Sa quần đảo vàng bị xâm chiếmNhững Chuyện chưa ai kể về Bác HồLịch sử tỉnh Quảng Bình.Cuộc chiến đấu nhằm bảo vệ đảo Cồn Cỏ trong những...

var pageOptions = { 'webId' : 535, 'category' : 0 }; var adblock = { 'adblock1' : { 'divIdShow' : 'adVatgia_block_1', 'numAd' : 3, 'typeShow' : 1, 'style' : {'width' : 950} } }; new vatgiaAd(pageOptions, adblock).Ads(); Nguồn: http://diendankienthuc.net. Những bộ óc tuyệt nhất đang dùng vào việc nhỏ 
Thứ Sáu, ngày 18/11/2011, 09:39
(giao duc) - Những bộ óc tuyệt vời nhất của trường đại học Việt Nam đang bị dùng vào một việc rất nhỏ là mưu sinh để tồn tại. Đó là lý do TS Nguyễn Thị Từ Huy quyết định từ bỏ công việc dạy học để chuyển sang làm việc ở Viện Nghiên cứu và Phát triển Giáo dục (Institute for Research on Educational Development), gọi tắt là “Viện IRED”, một công việc cho phép chị tiếp tục đóng góp cho nền giáo dục Việt Nam.

PV có cuộc trao đổi với TS Nguyễn Thị Từ Huy, người lấy bằng tiến sĩ văn chương của ĐH Paris 7 về hình ảnh của người thầy đại học ngày nay.

Vì sao chị rời bỏ nghề giảng viên để chuyển sang làm nghiên cứu giáo dục?

Làm giảng viên, để có thể sống được, tôi buộc phải đi dạy quá nhiều, không có thời gian cho công việc nghiên cứu. Qua các giờ giảng cho bậc cao học và nghiên cứu sinh mà tôi từng tham dự ở Pháp, phát hiện quan trọng nhất của tôi là: giảng viên không truyền thụ kiến thức, giảng viên làm công việc sản xuất ra kiến thức (nghiên cứu). Bài giảng là các nghiên cứu mới của họ, không lặp lại của người khác, và không lặp lại chính họ. Ở trình độ cử nhân, có những loại bài giảng nhằm tổng hợp kiến thức hoặc diễn giải phân tích các tác, giả tác phẩm kinh điển.

Tuy nhiên, xem xét kỹ ta thấy các diễn giải đó đều ít nhiều mang dấu ấn cá nhân của người giảng dạy. Viện IRED sẽ cho tôi cơ hội gắn bó với công việc nghiên cứu mà tôi yêu thích, và hơn cả yêu thích, nghiên cứu là điều kiện cho sự phát triển và hoàn thiện. Có hiện tượng nào trong đời sống có thể đạt chất lượng cao, đạt hiệu quả mà không cần tới sự nghiện cứu không? Tôi nghĩ muốn phát triển giáo dục cần có những nghiên cứu cẩn thận.

Những giảng viên ĐH hiện nay có thể coi là nguồn trí thức rất quan trọng của đất nước, nhưng theo chị, họ có đang được sử dụng đúng với tiềm năng của họ? Phải chăng chúng ta đang không để cho “những bộ óc mạnh nhất, những bộ óc tuyệt vời nhất phải được dùng để giải quyết các vấn đề lớn nhất” (Bill Gate) mà diễn ra tình trạng ngược lại như chị từng phát biểu: “nhiều trí tuệ mạnh đã chỉ được sử dụng để giải quyết những việc rất nhỏ nhặt, đôi khi buộc phải dùng chỉ để giải quyết vấn đề mưu sinh cá nhân mà thôi”?

Đa số những đồng nghiệp trẻ của tôi, những sinh viên xuất sắc được giữ lại làm việc ở các trường đại học đều là những người rất có năng lực. Nhưng năng lượng của họ, chất xám của họ, trí tuệ của họ phần lớn bị tiêu dùng vào việc làm thế nào để tồn tại, bởi vì đồng lương không cho phép họ tồn tại, thậm chí chỉ tồn tại ở mức độ tối thiểu."Nếu giảng viên đại học của chúng ta có mức lương đủ sống, điều kiện làm việc tương tự thì khả năng của họ không thua kém giảng viên nước ngoài" (TS Nguyễn Thị Từ Huy)


Những cựu lưu học sinh nước ngoài như chúng tôi thường chia sẻ với nhau ý nghĩ rằng chúng ta (các giảng viên ĐH) sẽ không thua kém quá nhiều các đồng nghiệp trên thế giới như hiện nay, nếu chúng ta có điều kiện làm việc tương tự. Tôi thực sự rất đau lòng khi nhìn thấy nguồn năng lượng chất xám, nhiệt tình và tâm huyết của “những bộ óc mạnh” đang bị lãng phí hàng ngày hàng giờ trên đất nước này nơi đang rất cần đến trí tuệ để phát triển xã hội.

Làm sao có thể nâng cao chất lượng đại học nói riêng và giáo dục nói chung khi mà giáo viên phải sống dưới mức nghèo khổ như hiện nay, khi mà chất lượng giảng dạy và nghiên cứu bị hy sinh một cách không thể tránh khỏi trước nhu cầu “phải sống”? Có lẽ là tôi quá bi quan khi nghĩ như vậy, nhưng làm sao chối bỏ được thực tế. Mọi mong muốn nâng cao chất lượng sẽ chỉ dừng lại ở mức độ mong muốn mà thôi, nếu điều kiện sống tối thiểu của giáo viên không được bảo đảm, và nếu không đảm bảo được điều kiện căn bản của giáo dục: tự do học thuật, tự do giảng dạy và tự do học tập.

Chị từng viết:“Thầy không chỉ truyền dạy cho trò, mà còn đánh giá được các giá trị của trò” nhưng cũng viết “sinh viên có nghĩa vụ phải vượt qua giảng viên, người thuộc về thế hệ trước”, chị giải thích điều này như thế nào?

Quan hệ thầy trò đúng nghĩa không chỉ là quan hệ giữa người cung cấp tri thức và người tiếp nhận tri thức, mà còn là quan hệ giữa người giữ vai trò đào luyện văn hóa và người sẽ bảo tồn và phát triển các giá trị của cả nền văn hóa, ở phạm vi hẹp của một quốc gia và ở phạm vi rộng của nhân loại.

Nhìn như vậy thì thầy là một giá trị và trò cũng là một giá trị. Lúc đó người thầy sẽ xem học trò như là các giá trị mà mình cần góp phần xây dựng và góp phần vào quá trình tự xây dựng các giá trị của trò. Người thầy không thể giúp trò tự xây dựng các giá trị của mình nếu như họ không đánh giá được rằng mỗi học sinh có những giá trị riêng như thế nào, nếu họ không đánh giá được khả năng và thế mạnh của học sinh.

Người thầy cần hiểu rằng việc học sinh có thể giỏi hơn họ ở nhiều phương diện là chuyện bình thường. Và người học trò cần hiểu rằng mình phải cố hết sức để đi xa nhất có thể trong khả năng của mình, và đi xa hơn cả thầy, vì như thế mới tạo nên sự phát triển, không chỉ cho chính mình mà cho cả xã hội.

Tuy nhiên chúng ta không nên tuyệt đối hóa chữ “vượt qua”. Có những đầu óc không bao giờ nhân loại vượt qua được. Người ta thừa nhận rằng cho đến nay nhân loại đã tiến những bước dài trên con đường nhận thức thế giới và nhận thức chính mình, nhưng vẫn chỉ là giải quyết những gì đã được đặt nền móng bởi các đầu óc khổng lồ thời Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên một trong những nghĩa vụ làm người của mỗi cá nhân là phải vượt qua chính mình; và nghĩa vụ của mỗi thế hệ là phải đi xa hơn thế hệ trước. Điều đó làm nên sự phát triển.



TS Nguyễn Thị Từ Huy.

Từng là giảng viên khoa Văn học và Ngôn ngữ, chị thấy sinh viên ngày nay học tập như thế nào? (Sự chủ động thay vì thụ động, lòng khát khao kiến thức, tự nghiên cứu, tính sáng tạo, khả năng ngoại ngữ…)

Trước đây, trong các giờ giảng của mình, tôi thường để cho sinh viên tự tìm hiểu tác phẩm (sáng tác và lý luận) ở nhà và thuyết trình phần chuẩn bị của họ ở trên lớp. Do vậy, những gì họ bộc lộ cho tôi thấy là sự chủ động, khả năng tìm kiếm các nguồn tư liệu một cách độc lập, khả năng xử lý tư liệu. Một số sinh viên đã làm tôi ngạc nhiên về những ý tưởng độc sáng của họ khi họ vận dụng một vài kiến thức lý luận để phân tích thực tế sáng tạo.

Tuy nhiên, nguồn tư liệu tiếng Việt của chúng ta, trong lĩnh vực hẹp của tôi là lý luận về văn chương, không có sự đa dạng, và không cập nhật được thời sự của giới nghiên cứu ở lĩnh vực này trên thế giới. Và sinh viên, dù chủ động đến mấy, thì cũng không thể tự sáng tạo ra các phương pháp hay cách thức nghiên cứu riêng của họ, khi mà các bờ vai khổng lồ còn ở đâu đó rất xa xôi. Chúng ta đều biết rằng ta chỉ có thể tư duy trên cơ sở kết quả tư duy của người khác mà thôi.

Còn về năng lực ngoại ngữ thì không thể phủ nhận một thực tế đáng buồn là sinh viên ngành khoa học xã hội nhìn chung yếu kém về ngoại ngữ. Trước tình trạng thiếu trầm trọng các tác phẩm dịch như hiện nay thì ngoại ngữ là một công cụ hết sức quan trọng để tiếp xúc với các nguồn tư liệu, với sự hỗ trợ kỳ diệu của Internet.

Điều sinh viên phải làm là suy nghĩ (chứ không phải học thuộc lòng) về những gì giảng viên nói, SV cần biết cách hoài nghi và phản biện để có thể đi tới xác lập sự tin tưởng trên cơ sở của lý lẽ và lập luận. Tại các lớp chị dạy, có bao nhiêu phần trăm sinh viên làm được điều này?

"Công nghệ "chiếu chép" có nguy cơ thủ tiêu hoàn toàn các chức năng của não bộ, còn nguy hiểm hơn hình thức đọc chép cổ truyền" (TS Nguyễn Thị Từ Huy)

Tôi nghĩ rằng hầu hết SV có khả năng làm điều này, nếu có sự khích lệ đồng bộ của tất cả các giảng viên. Nếu (lại nếu) chỉ có một số giảng viên khuyến khích hoài nghi, phản biện, trong khi một bộ phận vẫn giảng dạy, ra đề thi và chấm điểm theo kiểu thầy truyền thụ kiến thức, trò ghi nhớ đầy đủ, trung thành với quan điểm của giáo viên thể hiện trong bài giảng, thì dưới áp lực của điểm số, SV sẽ khó có thể xây dựng khả năng hoài nghi, phản biện, (áp lực của điểm đồng nghĩa với áp lực về cơ hội công việc sau khi ra trường).

Một số ít sinh viên rất bản lĩnh và có ý thức đầy đủ về giá trị cá nhân và về khả năng tư duy của họ, điều khiến họ chấp nhận những điểm số thấp, đổi lại là giữ được sự độc lập trong nhận thức và trong việc trình bày nhận thức riêng. Tuy nhiên rủi ro là những sinh viên đó sẽ gặp khó khăn khi tìm việc, và các nhà tuyển dụng sẽ có nguy cơ bỏ lỡ mất những người có năng lực thực sự nếu việc tuyển dụng chỉ dựa trên hồ sơ (ở đây chúng ta giả định là đã loại bỏ những “tiêu chí” tuyển dụng khác như quan hệ cá nhân, phong bì, quyền lực…giả định là nhà tuyển dụng muốn chọn những người có năng lực).

Giáo dục thế giới đang trở thành một “công nghệ” nhiều hơn là sáng tạo, chị có đồng ý như vậy không?

Theo những kinh nghiệm cá nhân mà tôi có được khi tiếp xúc với các khoa về khoa học xã hội của một số trường đại học ở Paris thì không thấy có gì mang tính công nghệ. Các kỹ thuật như máy chiếu rất ít được sử dụng, trừ khi họ dùng để chiếu các tư liệu ảnh, phim…Dạy học đòi hỏi các phương pháp. Các kỹ năng giảng dạy có thể được công nghệ hóa. Tuy nhiên dạy học là cả một nghệ thuật.

Đó không phải là nghệ thuật thôi miên học trò, mà đó là nghệ thuật thức tỉnh năng lực tư duy, nhận thức, khơi dậy tiềm năng sáng tạo, đánh thức các khát vọng và bồi đắp cảm xúc, mở rộng nhãn quan… Nghệ thuật ấy đòi hỏi người thầy cũng phải huy động tất cả những năng lực đó ở chính mình.

Công nghệ chỉ là phần phụ trợ, theo tôi. Hơn nữa, chính các sinh viên của tôi nhận thấy rằng công nghệ “chiếu chép” ngày nay, nếu không cẩn thận, còn nguy hiểm hơn hình thức đọc chép cổ truyền. Vì trong quá trình đọc chép, dù sao sinh viên vẫn còn phải để cho não bộ hoạt động, não cần phải ghi nhớ những gì nghe được trước khi chép ra giấy. Còn công nghệ “chiếu chép” có nguy cơ thủ tiêu hoàn toàn các chức năng của não bộ, chỉ còn lại mắt và tay hoạt động mà thôi. Và công nghệ “copy-paste”, được sinh viên vận dụng khi chuẩn bị bài thuyết trình, hoàn tất nốt quá trình thủ tiêu các năng lực tư duy, và tạo điều kiện cho nạn dịch đạo văn phát triển.

hiha :P