Dải đất này đã đăng ký tên tuổi của mình vào lịch sử dân tộc bằng một cuộc khởi nghĩa nổi tiếng do một nhà nho nổi tiếng lãnh đạo: Khởi nghĩa Mỹ Lương nổ ra năm 1854 do Cao Bá Quát khởi xướng, một danh nho đã được nhân dân đương thời tôn là bậc thánh.
Ngày nay huyện Mỹ Lương không còn.
Huyện này vốn lập ra từ đời Trần, hồi thế kỷ 13, thuộc vào phủ Quảng Oai. Tới thế kỷ 18 thuộc vào phủ Quốc Oai. Tới giữa thế kỷ 19, sau khi đã đàn áp dã man cuộc khởi nghĩa nông dân lớn, triều đình Huế mới xóa bỏ huyện này. Một huyện mới - gọi là Mỹ Đức - được thành lập trên cơ sở phần lớn đất đai của huyện Mỹ Lương cũ. Phần đất còn lại sáp nhập vào hai huyện Chương Mỹ và Lương Sơn (nay thuộc tỉnh Hòa Bình). Ngày trước, tên gọi của một huyện thường là mượn từ tên gọi của một làng (thuở đó, từ Hán Việt là xã) nằm trong huyện đó. Cho nên ngày nay, tuy huyện Mỹ Lương không còn nhưng vẫn còn cái làng đã cho huyện đó mượn tên, đó là làng Mỹ Lương ở bên bờ phải sông Tích Giang, nay thuộc xã Mỹ Lương, huyện Chương Mỹ. Và huyện lỵ của huyện đó thì nay vẫn còn vết tích. Sách Đại Nam nhất thống chí quyển 21, phần tỉnh Sơn Tây còn ghi: “Lỵ sở huyện Mỹ Lương ở vào xã Cao Bộ; trước ở vào thôn Cảm, đời Gia Long dời đến xã Trung Bộ, sau dời đến chỗ hiện nay (tức xã Cao Bộ)”. Ngày nay, cả hai làng (mà sách gọi là xã) Cao Bộ và Trung Bộ đều thuộc xã Trung Hòa, huyện Chương Mỹ, ở bên bờ trái sông Tích Giang, cách làng Mỹ Lương độ dăm sáu cây số.
Huyện lỵ thì nằm giữa vùng đồng bằng như vậy, nhưng thực ra Mỹ Lương là một huyện lắm núi nhiều rừng. Đời Lê mạt, tức cuối thế kỷ 18, Lê Quý Đôn có ghi trong tập Kiến văn tiểu lục như sau: “ Huyện Mỹ Lương chỉ có các xã thuộc tổng Cao Bộ là ở đất bằng phẳng, còn thì đều là ven núi, rất nhiều khí lam chướng; có đường cái rộng chừng hai trượng, là đường triều trước đi vào Thanh Hóa, người ta nói đây là đường tắt rất gần nhưng nay đường núi bế tắc không đi được nữa ”.
Ngày nay tuy hình thế có đổi khác, nhưng cứ ngắm suốt một dải núi rừng trùng điệp chạy từ núi Ba Vì qua núi Hương Tích vào thấu tới Hòa Bình, thì cũng có thể hình dung được cái thế hiểm trở của miền tây tỉnh Hà Tây cũ, trong đó có Mỹ Đức tức là huyện Mỹ Lương xưa...
Rừng già bóng cả, đèo núi quanh co gấp khúc, dân cư thưa thớt... đó chính là những cơ sở thuận lợi cho việc tụ nghĩa, khởi binh. Trong những ngày cuối năm 1854, chính từ một cánh rừng vùng này, cánh rừng mà dân địa phương quen gọi là rừng Ngang, những người nông dân nghèo khổ biết căm hờn và dám đấu tranh đã tập hợp lại. Chu thần Cao Bá Quát làm lễ tế cờ rồi xuất phát đi đánh các nơi. Ngày ấy, dưới những tán lá thâm u bỗng thấy dựng lên bao cờ xi, nổi bật lên là lá cờ đại bằng vóc vàng thêu hai dòng chữ lớn:
Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu Thuấn
Mục Dã, Minh Điều hữu Võ Thang
Nghĩa là: Ở Bình Dương, Bồ Bản (hai kinh đô của đời Đường Ngu) không có những vua hiền như Nghiêu Thuấn thì ở Mục Dã, Minh Điều (hai nơi tụ nghĩa) phải có những người như ông Võ, ông Thang (hai người đã nổi lên diệt vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thượng).
Đó là hai câu thơ của Cao Bá Quát nhưng cũng chính là khẩu hiệu hành động của nghĩa quân. Những người nông dân làm cuộc khởi nghĩa này không chỉ đòi hỏi miếng cơm manh áo cho cá nhân mà chính là muốn thanh toán vật chướng ngại của lịch sử, tức là muốn lật đổ cả cái triều đình Kiệt, Trụ và thay thế nó bằng những nhân vật tài đức, hiền năng.
Chính ở Rừng Ngang, Mỹ Lương này, dưới lá cờ nghĩa nọ, Cáo Bá Quát đã đọc một bài hịch vạch tội vua quan nhà Nguyễn và kêu gọi mọi người đứng lên chiến đấu. Sinh trưởng ở xứ Bắc nhưng thực ra chỉ tới xứ Đoài, Chu Thần mới tìm ra cách giải quyết triệt để mối mâu thuẫn bấy lâu dày vò tâm hồn mình.