Lớp Sâu bọ - Bài 29. Đặc điểm chung và vai trò của ngành Chân khớp

Thanhtam Vo
Xem chi tiết
lê anh tuấn
7 tháng 12 2017 lúc 6:30

Kiến, loài côn trùng sống hầu như ở khắp mọi nơi trên trái đất, trừ vùng băng giá và đại dương. Chúng sống thành bầy đàn, phân chia nhiệm vụ rõ ràng, có tôn ti trật tự, biết bảo vệ lẫn nhau và cũng đi xâm lăng, cướp bóc, bắt nô lệ, chăn nuôi sâu bọ lấy “sữa”… Số lượng bầy kiến có thể từ vài chục cho đến hàng ngàn con… nhưng đứng đầu luôn là kiến chúa, còn lại hầu như là các nữ kiến thợ với những nhiệm vụ như tìm kiếm thực ăn, nuôi nấng kiến con và đánh nhau khi có chiến tranh. Có rất ít kiến đực và chúng chỉ xuất hiện trong một thời gian ngắn với phận sự duy nhất là giao phối với kiến chúa để duy trì nòi giống, sau đó chết đi. Như vậy, có thể nói tổ kiến toàn là các nữ kiến!

Có trên 10 ngàn loài kiến. Hầu hết chúng có màu đen, nâu hoặc màu đất. Một vài loài có màu vàng, xanh lục, xanh dương hay tím. Có loài to đến 2.5 cm nhưng cũng có loài nhỏ cỡ 0.1 cm. Thông thường, đa số các loài kiến đều thuộc loại nhỏ. Mặc dù nhỏ bé nhưng kiến có thể khiêng một vật nặng hơn nó gấp 10 lần, có loài khoẻ đến độ khiêng vật nặng gấp 50 lần so với trọng lượng của chính nó, giả sử con người cũng có khả năng như vậy thì với trọng lượng 60 kg, người ta có thể khiêng một vật nặng đến 3 tấn!

Kiến sống nhiều nhất ở các vùng nhiệt đới. Chúng đào đường hầm làm tổ dưới đất, đùn đất lên trên xây tổ, hay làm tổ ở những bọng và lá cây. Có loài vô gia cư như kiến lê dương nay đây mai đó. Kiến lê dương đi cả đàn như đoàn quân Mông Cổ thời Thành Cát Tư Hãn. Chúng tàn sát và ăn thịt những con côn trùng nào vô phúc gặp chúng trên đường. Có loài kiến chuyên xâm lược những tổ kiến khác, cướp đoạt trứng kiến để bắt làm nô lệ khi lớn lên. Có loài kiến chuyên đi thu hoạch hạt cây về cất trong tổ như nhà nông. Có loài chăn những con bọ để lấy dịch đường như nhà nông nuôi bò lấy sữa.

Theo các nhà khoa học thì kiến tiến hóa từ ong bắp cày cách đây khoảng 100 triệu năm bởi vì cấu tạo của chúng rất giống nhau. Ðiểm khác biệt ở chỗ kiến có một nốt tròn chuyển tiếp giữa ngực và bụng hay còn gọi là eo. Kiến chúa là loại to nhất, sau đó là kiến đực và nhỏ nhất là kiến thợ.

Cơ thể kiến có thể được chia làm 3 phần chính là đầu, ngực và bụng. Ðầu của kiến có 3 đặc điểm chính là hai cần ăng-ten, mắt và miệng. Hai cần ăng-ten này chính là nơi cảm nhận mùi, vị, nghe ngóng và nhận biết khi đụng chạm vật gì. Hai cần này chuyển động không ngừng để tiếp nhận các cảm giác đó. Kiến dùng hai cần ăng-ten để định hướng, ngửi mùi trong không khí, tìm thức ăn, và nhận biết đồng loại. Vài nhà khoa học tin rằng mỗi loài kiến đều có một mùi đặc trưng khiến chúng có thể nhận ra nhau một cách dễ dàng.

Kiến có hai mắt và mắt kiến thuộc về đa tròng, tức có nhiều trong mắt. Có loài mỗi mắt có khoảng 6 tròng nhưng cũng có loài mà mắt có hơn 1000 tròng. Thông thường mắt kiến chúa và kiến đực có nhiều tròng hơn kiến thợ. Kiến chỉ thấy một phần của vật thể trong mỗi tròng mắt này, tương tự như màn hình TV với cấu tạo điểm ảnh (pixel), sự tổng hợp các điểm ảnh tạo nên hình ảnh trên màn hình TV. Cũng nhờ vào con mắt tổng hợp này, kiến có thể thấy sự chuyển động của các vật thể một cách dễ dàng. Tuy vậy, kiến không thể nhìn xa được mà chỉ có thể nhìn rõ các vật tương đối gần. Một số loài kiến có đến 3 con mắt nhưng thuộc loại rất đơn giản vì chỉ có thể phân biệt được sáng hay tối. Một số loài kiến không có mắt.

Miệng của kiến có hai hàm, hàm ngoài và hàm trong. Hàm ngoài lớn hơn hàm trong, thay vì chuyển động lên xuống giống như người, hàm ngoài của kiến chuyển động theo chiều ngang. Hàm ngoài này dùng để tha thức ăn, trứng hoặc ấu trùng (larva) và để đánh nhau với kẻ thù. Rất nhiều loài kiến dùng đôi hàm ngoài này để xây tổ như đào đất và cắt gỗ. Cặp hàm trong nằm ngay sau cặp hàm ngoài được dùng để nhai và nghiền nát thức ăn. Thức ăn sau khi nghiền nát sẽ được lưỡi đưa vào một túi nhỏ ngay sau miệng. Túi nhỏ này cấu tạo bởi các cơ, chuyển động và bóp những thức ăn đã được nghiền nát để vắt chất dịch. Kiến tiêu thụ chất dịch bổ dưỡng này trong khi phần bã được thải ra ngoài. Thức ăn của kiến bao gồm nhiều loại từ côn trùng, hoa quả cho đến cây cỏ. Cặp hàm trong của kiến có những hàng lông rất nhỏ mà công dụng như chiếc lược dùng để lau chùi hai cần ăng-ten hoặc những cặp chân.

Loài kiến không có tai nhưng chúng nó có thể nghe được bằng cơ quan gọi là chordotonal. Cơ quan này có ở trên ngực, ăng-ten, chân và đầu của kiến. Chúng cảm nhận được tiếng động lan truyền trong đất, tuy nhiên chưa ai biết chúng có thể cảm nhận được tiếng động trong không khí hay không. Có một số loài kiến có thể tự mình gây ra tiếng động nhờ vào một cơ quan ở ngay dưới bụng. Cơ quan này chia làm hai phần, một phần có hình dáng như lưỡi cưa, phần kia cứng hơn và như điểm nhọn, tiếng động được tạo ra khi hai phần cạ vào nhau. Ðôi khi tiếng động được tạo ra lớn tới độ tai người có thể nghe được. Ngực là phần giữa của thân thể kiến bao gồm cả khúc nối và phần giao tiếp của bụng. Ngực nối với đầu qua cần cổ rất nhỏ.

Kiến có ba cặp chân. Mỗi chân được chia ra làm 9 khúc nối nhau bởi những khuỷu chân. Mỗi bàn chân của kiến đều có hai cái móc. Nhờ vào hai cái móc này mà kiến có thể bám, di chuyển trên cây và các bề mặt. Kiến cũng dùng các móc này để bới đất và đào các đường hầm dưới đất. Cặp chân trước cũng có cái lược giống như hàm trong dùng để lau chùi những cặp chân khác và đôi cần ăng-ten.

Trong loài kiến, kiến chúa và kiến đực có cặp cánh dùng khi giao phối. Những nữ kiến thợ không bao giờ mọc cánh.

Bụng của kiến được chia làm hai phần, eo và bầu. Eo, như đã nói ở trên, có hình dáng tròn nhỏ như viên bi, nối ngực và bầu. Một vài loài kiến có kim chích nọc độc ở ngay đít bụng. Có loài lại có tuyến nọc ở bụng và dùng nó để phun vào kẻ thù.

Giác quan chính của kiến là cần ăng-ten. Loài kiến có hai cần ăng-ten ở ngay phía trước đầu. Hai cần ăng-ten này là cơ quan khứu giác, thính giác và xúc giác. Người ta có thể dễ dàng nhận biết một con kiến khoẻ mạnh bằng cách nhìn vào cần ăng-ten chuyển động một cách không ngừng nghỉ. Nhờ vào hai cần ăng-ten này mà loài kiến có thể ngửi được mùi trong không khí, kiểm tra thức ăn, giao tiếp, xác định phương hướng, tìm kiếm thức ăn và nhận biết đồng loại. Một số các nhà khoa học cho rằng trong một tổ kiến, chúng tiết ra mùi đặc trưng để nhận biết lẫn nhau. Ngoài ra, kiến còn có cơ quan xúc giác ở miệng và vài nơi khác trên thân thể. Các cơ quan này là những sợi lông nhỏ và gai.

Cấu trúc xã hội
Hầu hết mọi xã hội loài kiến đều được chia ra làm ba thành phần. Ðó là kiến chúa, kiến thợ và kiến đực. Sau khi giao phối với một trong những chàng kiến đực, kiến chúa bắt đầu làm tổ và chỉ đẻ trứng trong suốt cuộc đời còn lại của mình. Kiến chúa không cai trị tổ kiến nhưng các kiến thợ luôn mang thức ăn lại nuôi như chúng nuôi lẫn nhau. Có tổ chỉ có một kiến chúa nhưng có tổ lại có nhiều kiến chúa cùng lúc. Ngoài nhiệm vụ chăm sóc và nuôi nấng kiến chúa, đàn kiến thợ còn có nhiệm vụ xây tổ, mở mang tổ rộng hơn, sửa chữa tổ khi bị hư hại, chăm sóc ấu trùng hay trứng kiến, tìm kiếm thức ăn và chiến đấu với kẻ thù. Một nữ kiến thợ có thể chỉ làm một công việc suốt đời, nhưng cũng có thể thay đổi từ việc này qua việc khác. Trong tổ kiến, lười nhất là những chàng kiến đực, chẳng làm việc gì khác ngoài nhiệm vụ giao phối với nàng kiến chúa và có cuộc đời ngắn ngủi nhất. Hình dáng kiến thợ to nhỏ khác nhau. Thường thì kiến lính to nhất, với đầu và hàm to nhất. Ở một số loài kiến, kiến lính chỉ có nhiệm vụ chiến đấu và bảo vệ. Nhưng ở một số loài kiến khác, kiến lính chẳng có nhiệm vụ gì đặc biệt cả.

Tổ kiến
Loài kiến thợ mộc (capenter ant) to lớn màu đen hay nâu thường làm tổ ở những cành cây, đôi khi chúng làm tổ ngay trên xà nhà. Loài kiến này không ăn gỗ như con mọt mà xén gỗ để làm tổ. Có nhiều loài làm tổ ở những thân cây mục hay dưới lớp vỏ cây, hoặc ở các phần rỗng của lá cây, đôi khi ở trong những gai cây. Một vài loài nhai nát lá cây hay thân cây để xây tổ.

Loài kiến đan tơ (weaver ant) cuộn, đan lá lại với nhau để làm tổ. Có những kiến thợ giữ cạnh lá lại với nhau, trong khi những kiến thợ khác tha ấu trùng nhả tơ để nối lá lại. Ấu trùng là giai đoạn tượng hình đầu tiên của kiến. Những ấu trùng này có khả năng nhả những sợi tơ trắng để giữ, nối lá lại với nhau thành tổ.

Tổ kiến có loại to, loại nhỏ. Có loại nhỏ chỉ bằng đầu ngón tay, chứa khoảng từ chục con tới 2, 3 trăm con kiến. Có loại xây tổ dưới đất rộng tới cả 12 thước như loài kiến ở vùng nhiệt đới chứa hàng chục triệu con kiến. Có loài kiến xây mười mấy cái tổ nối nhau bằng những đường hầm ở dưới đất như loài kiến vùng bắc Mỹ và ở Âu Châu và rộng như một sân chơi tennis. Có tổ cao tới cả thước chứa hàng triệu con. Hầu hết các tổ kiến được xây và chia ra làm nhiều phòng. Một phòng cho kiến chúa và trứng. Nhiều phòng dùng như phòng nuôi trẻ để chứa nhộng đang tăng trưởng. Rất nhiều phòng được dùng làm chỗ tụ họp cho kiến thợ và để nghỉ ngơi. Trong một số tổ, có những nhà kho để chứa đồ ăn và nuôi nấm. Tổ sẽ được nới rộng thêm khi số kiến ngày càng đông. Ở xứ lạnh vào mùa đông, kiến sống ở khúc sâu nhất của tổ dưới lòng đất và chui ra khỏi tổ khi mùa xuân đến.

Chu kỳ sống
Kiến chúa thường đẻ trứng nở ra kiến thợ, nhưng vào một thời kỳ nhất định trong năm thì đẻ trứng nở ra kiến đực và kiến chúa tơ. Vài tuần sau khi sinh, kiến đực và kiến chúa tơ sẽ bò ra khỏi tổ, bay lên không trung để giao phối. Trong cuộc giao phối, kiến đực lưu tinh trùng trong cơ thể kiến chúa. Kiến chúa có thể giao phối với một hay nhiều chàng kiến đực. Trong mùa giao phối này, số lượng tinh trùng trong bụng kiến chúa đủ dùng trong suốt cuộc đời sinh sản của nàng.

Sau khi giao phối, kiến chúa và kiến đực đáp xuống đất. Những chàng kiến đực bò quanh quẩn rồi chết. Còn kiến chúa cắn đứt đôi cánh và bò đi kiếm chỗ làm tổ. Có trường hợp kiến chúa bò về tổ cũ và được chấp nhận. Ðôi khi kiến chúa sống nhờ ở một tổ kiến khác loài, được chúng chăm sóc và nuôi nấng cho đến khi sinh sản. Nhưng thông thường thì kiến chúa tự xây tổ mới. Sau khi sửa soạn nơi xây tổ, kiến chúa bịt kín cửa ra vào và bắt đầu đẻ trứng. Trong suốt thời gian này, kiến chúa sống bằng cách ăn cặp cánh đã trở nên vô dụng. Ðôi khi kiến chúa đói quá ăn cả những trái trứng của mình. Kiến chúa có khả năng kiểm soát để tinh trùng thụ tinh cho trứng hay không. Trứng nào không được thụ tinh sẽ trở thành kiến đực, trứng nào được thụ tinh sẽ trở thành kiến thợ hoặc kiến chúa tơ.

Trứng kiến rất nhỏ, chỉ vài ngày sau nở thành ấu trùng. Ấu trùng màu trắng, nhìn giống như con giun. Hầu hết các loại ấu trùng không tự di chuyển được. Kiến chúa phải nuôi ấu trùng bằng nước dãi của mình và đôi khi bằng chính những trái trứng khác. Giai đoạn này mất khoảng vài tuần, sau đó ấu trùng trở thành nhộng. Một số loại ấu trùng tự nhả và bọc chúng trong một cái kén trắng bạc trước khi trở thành nhộng. Nhộng là loại kiến non mình trong suốt, không ăn và bất động, sau từ 2 tới 3 tuần thì trở thành kiến. Khởi đầu là bầy kiến thợ. Kiến thợ sau khi trưởng thành, rời tổ đi kiếm mồi mang về cho kiến chúa và đàn ấu trùng ăn, và bắt đầu phận sự chăm sóc trứng, ấu trùng và nhộng trong khi kiến chúa tiếp tục đẻ trứng. Kiến chúa đẻ hàng ngàn trứng trong suốt một đời mình mà đa số chúng đều nở ra kiến thợ.

Ðể sinh tồn và chống trả những loài ăn kiến như ếch, nhện, chim, bò sát… và cả những loài kiến thù địch khác, loài kiến tự vệ bằng cách chích, cắn hay phun a-xít formic hoặc những hóa chất khác. Khoảng nửa số loài kiến có ngòi chích, chẳng hạn như kiến lửa hay loài kiến to chích vào da. Ngòi chích này tiết ra nọc gây đau rát và khó chịu. Loài không có ngòi chích thì có thể phun độc từ đít bụng.

Kiến ở tổ này thường đánh nhau với tổ khác. Có loài đánh nhau rất văn nghệ như kiến mật, chúng chỉ dùng sức đẩy nhau, không gây thương tích. Bên nào thắng thì chiếm tổ bên kia. Nhưng cũng có loài đánh nhau đến chết, cắn chân, cắn tay, cắn ăng-ten, cắn eo cho đứt bụng… Thông thường chúng hay “phân thây” bằng cách nhiều con kiến cùng bọn, cắn giữ chân, bụng, ăng-ten của kiến địch và kéo căng ra, và những con kiến khác cùng bầy dùng hàm cắt con kiến này thành từng mảnh! Bên nào thắng sẽ chiếm trứng, ấu trùng và kiến con về làm thức ăn. Có loài kiến chỉ chuyên sống bằng nghề thảo khấu như vậy.

Thông tin
Kiến nói chuyện với nhau bằng nhiều cách. Có loài sống trên cây hay lá dùng bụng của mình đập lên vách tổ báo hiệu khi tìm được thức ăn hay kẻ thù xuất hiện. Rung động truyền qua vách tổ đến đàn kiến bên trong khiến chúng ùa ra để giúp khuân mồi hay chống đỡ kẻ thù. Có loài tạo ra tiếng động như đã nói ở trên.

Kiến cũng có thể thông tin với nhau bằng cách tiết ra hóa chất hoá gọi là pheromone. Chất này được chứa trong những hạch ở đầu, ngực hay bụng. Chúng có mùi hay vị đặc trưng rất nhạy cảm với loài kiến, mỗi loại hóa chất tiết ra đều mang một ý nghĩa riêng. Thí dụ, chất tiết ra ở bụng để đánh dấu đường đến chỗ có thức ăn. Nếu cảm thấy nguy hiểm thì loại pheromone khác có thể được tiết ra để báo động.

Có lẽ loài kiến nhận biết nhau bằng mùi. Khi hai con kiến gặp nhau, chúng dùng ăng-ten để giao tiếp. Nếu cùng tổ, chúng có thể chạm miệng và một con sẽ nhả ra một chút dịch đường cho con kia ăn.

Tuổi thọ
Tuổi thọ của kiến chúa lâu nhất, khoảng từ 10 tới 20 năm. Kiến thợ sống từ 1 đến 5 năm. Kiến đực chỉ sống được vài tuần tới vài tháng và chết sau khi giao phối.

Bình luận (0)
Hải Khổng
22 tháng 11 2021 lúc 15:48

Kiến, loài côn trùng sống hầu như ở khắp mọi nơi trên trái đất, trừ vùng băng giá và đại dương. Chúng sống thành bầy đàn, phân chia nhiệm vụ rõ ràng, có tôn ti trật tự, biết bảo vệ lẫn nhau và cũng đi xâm lăng, cướp bóc, bắt nô lệ, chăn nuôi sâu bọ lấy “sữa”… Số lượng bầy kiến có thể từ vài chục cho đến hàng ngàn con… nhưng đứng đầu luôn là kiến chúa, còn lại hầu như là các nữ kiến thợ với những nhiệm vụ như tìm kiếm thực ăn, nuôi nấng kiến con và đánh nhau khi có chiến tranh. Có rất ít kiến đực và chúng chỉ xuất hiện trong một thời gian ngắn với phận sự duy nhất là giao phối với kiến chúa để duy trì nòi giống, sau đó chết đi. Như vậy, có thể nói tổ kiến toàn là các nữ kiến!

Có trên 10 ngàn loài kiến. Hầu hết chúng có màu đen, nâu hoặc màu đất. Một vài loài có màu vàng, xanh lục, xanh dương hay tím. Có loài to đến 2.5 cm nhưng cũng có loài nhỏ cỡ 0.1 cm. Thông thường, đa số các loài kiến đều thuộc loại nhỏ. Mặc dù nhỏ bé nhưng kiến có thể khiêng một vật nặng hơn nó gấp 10 lần, có loài khoẻ đến độ khiêng vật nặng gấp 50 lần so với trọng lượng của chính nó, giả sử con người cũng có khả năng như vậy thì với trọng lượng 60 kg, người ta có thể khiêng một vật nặng đến 3 tấn!

Kiến sống nhiều nhất ở các vùng nhiệt đới. Chúng đào đường hầm làm tổ dưới đất, đùn đất lên trên xây tổ, hay làm tổ ở những bọng và lá cây. Có loài vô gia cư như kiến lê dương nay đây mai đó. Kiến lê dương đi cả đàn như đoàn quân Mông Cổ thời Thành Cát Tư Hãn. Chúng tàn sát và ăn thịt những con côn trùng nào vô phúc gặp chúng trên đường. Có loài kiến chuyên xâm lược những tổ kiến khác, cướp đoạt trứng kiến để bắt làm nô lệ khi lớn lên. Có loài kiến chuyên đi thu hoạch hạt cây về cất trong tổ như nhà nông. Có loài chăn những con bọ để lấy dịch đường như nhà nông nuôi bò lấy sữa.

Theo các nhà khoa học thì kiến tiến hóa từ ong bắp cày cách đây khoảng 100 triệu năm bởi vì cấu tạo của chúng rất giống nhau. Ðiểm khác biệt ở chỗ kiến có một nốt tròn chuyển tiếp giữa ngực và bụng hay còn gọi là eo. Kiến chúa là loại to nhất, sau đó là kiến đực và nhỏ nhất là kiến thợ.

Cơ thể kiến có thể được chia làm 3 phần chính là đầu, ngực và bụng. Ðầu của kiến có 3 đặc điểm chính là hai cần ăng-ten, mắt và miệng. Hai cần ăng-ten này chính là nơi cảm nhận mùi, vị, nghe ngóng và nhận biết khi đụng chạm vật gì. Hai cần này chuyển động không ngừng để tiếp nhận các cảm giác đó. Kiến dùng hai cần ăng-ten để định hướng, ngửi mùi trong không khí, tìm thức ăn, và nhận biết đồng loại. Vài nhà khoa học tin rằng mỗi loài kiến đều có một mùi đặc trưng khiến chúng có thể nhận ra nhau một cách dễ dàng.

Kiến có hai mắt và mắt kiến thuộc về đa tròng, tức có nhiều trong mắt. Có loài mỗi mắt có khoảng 6 tròng nhưng cũng có loài mà mắt có hơn 1000 tròng. Thông thường mắt kiến chúa và kiến đực có nhiều tròng hơn kiến thợ. Kiến chỉ thấy một phần của vật thể trong mỗi tròng mắt này, tương tự như màn hình TV với cấu tạo điểm ảnh (pixel), sự tổng hợp các điểm ảnh tạo nên hình ảnh trên màn hình TV. Cũng nhờ vào con mắt tổng hợp này, kiến có thể thấy sự chuyển động của các vật thể một cách dễ dàng. Tuy vậy, kiến không thể nhìn xa được mà chỉ có thể nhìn rõ các vật tương đối gần. Một số loài kiến có đến 3 con mắt nhưng thuộc loại rất đơn giản vì chỉ có thể phân biệt được sáng hay tối. Một số loài kiến không có mắt.

Miệng của kiến có hai hàm, hàm ngoài và hàm trong. Hàm ngoài lớn hơn hàm trong, thay vì chuyển động lên xuống giống như người, hàm ngoài của kiến chuyển động theo chiều ngang. Hàm ngoài này dùng để tha thức ăn, trứng hoặc ấu trùng (larva) và để đánh nhau với kẻ thù. Rất nhiều loài kiến dùng đôi hàm ngoài này để xây tổ như đào đất và cắt gỗ. Cặp hàm trong nằm ngay sau cặp hàm ngoài được dùng để nhai và nghiền nát thức ăn. Thức ăn sau khi nghiền nát sẽ được lưỡi đưa vào một túi nhỏ ngay sau miệng. Túi nhỏ này cấu tạo bởi các cơ, chuyển động và bóp những thức ăn đã được nghiền nát để vắt chất dịch. Kiến tiêu thụ chất dịch bổ dưỡng này trong khi phần bã được thải ra ngoài. Thức ăn của kiến bao gồm nhiều loại từ côn trùng, hoa quả cho đến cây cỏ. Cặp hàm trong của kiến có những hàng lông rất nhỏ mà công dụng như chiếc lược dùng để lau chùi hai cần ăng-ten hoặc những cặp chân.

Loài kiến không có tai nhưng chúng nó có thể nghe được bằng cơ quan gọi là chordotonal. Cơ quan này có ở trên ngực, ăng-ten, chân và đầu của kiến. Chúng cảm nhận được tiếng động lan truyền trong đất, tuy nhiên chưa ai biết chúng có thể cảm nhận được tiếng động trong không khí hay không. Có một số loài kiến có thể tự mình gây ra tiếng động nhờ vào một cơ quan ở ngay dưới bụng. Cơ quan này chia làm hai phần, một phần có hình dáng như lưỡi cưa, phần kia cứng hơn và như điểm nhọn, tiếng động được tạo ra khi hai phần cạ vào nhau. Ðôi khi tiếng động được tạo ra lớn tới độ tai người có thể nghe được. Ngực là phần giữa của thân thể kiến bao gồm cả khúc nối và phần giao tiếp của bụng. Ngực nối với đầu qua cần cổ rất nhỏ.

Kiến có ba cặp chân. Mỗi chân được chia ra làm 9 khúc nối nhau bởi những khuỷu chân. Mỗi bàn chân của kiến đều có hai cái móc. Nhờ vào hai cái móc này mà kiến có thể bám, di chuyển trên cây và các bề mặt. Kiến cũng dùng các móc này để bới đất và đào các đường hầm dưới đất. Cặp chân trước cũng có cái lược giống như hàm trong dùng để lau chùi những cặp chân khác và đôi cần ăng-ten.

Trong loài kiến, kiến chúa và kiến đực có cặp cánh dùng khi giao phối. Những nữ kiến thợ không bao giờ mọc cánh.

Bụng của kiến được chia làm hai phần, eo và bầu. Eo, như đã nói ở trên, có hình dáng tròn nhỏ như viên bi, nối ngực và bầu. Một vài loài kiến có kim chích nọc độc ở ngay đít bụng. Có loài lại có tuyến nọc ở bụng và dùng nó để phun vào kẻ thù.

Giác quan chính của kiến là cần ăng-ten. Loài kiến có hai cần ăng-ten ở ngay phía trước đầu. Hai cần ăng-ten này là cơ quan khứu giác, thính giác và xúc giác. Người ta có thể dễ dàng nhận biết một con kiến khoẻ mạnh bằng cách nhìn vào cần ăng-ten chuyển động một cách không ngừng nghỉ. Nhờ vào hai cần ăng-ten này mà loài kiến có thể ngửi được mùi trong không khí, kiểm tra thức ăn, giao tiếp, xác định phương hướng, tìm kiếm thức ăn và nhận biết đồng loại. Một số các nhà khoa học cho rằng trong một tổ kiến, chúng tiết ra mùi đặc trưng để nhận biết lẫn nhau. Ngoài ra, kiến còn có cơ quan xúc giác ở miệng và vài nơi khác trên thân thể. Các cơ quan này là những sợi lông nhỏ và gai.

Cấu trúc xã hội
Hầu hết mọi xã hội loài kiến đều được chia ra làm ba thành phần. Ðó là kiến chúa, kiến thợ và kiến đực. Sau khi giao phối với một trong những chàng kiến đực, kiến chúa bắt đầu làm tổ và chỉ đẻ trứng trong suốt cuộc đời còn lại của mình. Kiến chúa không cai trị tổ kiến nhưng các kiến thợ luôn mang thức ăn lại nuôi như chúng nuôi lẫn nhau. Có tổ chỉ có một kiến chúa nhưng có tổ lại có nhiều kiến chúa cùng lúc. Ngoài nhiệm vụ chăm sóc và nuôi nấng kiến chúa, đàn kiến thợ còn có nhiệm vụ xây tổ, mở mang tổ rộng hơn, sửa chữa tổ khi bị hư hại, chăm sóc ấu trùng hay trứng kiến, tìm kiếm thức ăn và chiến đấu với kẻ thù. Một nữ kiến thợ có thể chỉ làm một công việc suốt đời, nhưng cũng có thể thay đổi từ việc này qua việc khác. Trong tổ kiến, lười nhất là những chàng kiến đực, chẳng làm việc gì khác ngoài nhiệm vụ giao phối với nàng kiến chúa và có cuộc đời ngắn ngủi nhất. Hình dáng kiến thợ to nhỏ khác nhau. Thường thì kiến lính to nhất, với đầu và hàm to nhất. Ở một số loài kiến, kiến lính chỉ có nhiệm vụ chiến đấu và bảo vệ. Nhưng ở một số loài kiến khác, kiến lính chẳng có nhiệm vụ gì đặc biệt cả.

Tổ kiến
Loài kiến thợ mộc (capenter ant) to lớn màu đen hay nâu thường làm tổ ở những cành cây, đôi khi chúng làm tổ ngay trên xà nhà. Loài kiến này không ăn gỗ như con mọt mà xén gỗ để làm tổ. Có nhiều loài làm tổ ở những thân cây mục hay dưới lớp vỏ cây, hoặc ở các phần rỗng của lá cây, đôi khi ở trong những gai cây. Một vài loài nhai nát lá cây hay thân cây để xây tổ.

Loài kiến đan tơ (weaver ant) cuộn, đan lá lại với nhau để làm tổ. Có những kiến thợ giữ cạnh lá lại với nhau, trong khi những kiến thợ khác tha ấu trùng nhả tơ để nối lá lại. Ấu trùng là giai đoạn tượng hình đầu tiên của kiến. Những ấu trùng này có khả năng nhả những sợi tơ trắng để giữ, nối lá lại với nhau thành tổ.

Tổ kiến có loại to, loại nhỏ. Có loại nhỏ chỉ bằng đầu ngón tay, chứa khoảng từ chục con tới 2, 3 trăm con kiến. Có loại xây tổ dưới đất rộng tới cả 12 thước như loài kiến ở vùng nhiệt đới chứa hàng chục triệu con kiến. Có loài kiến xây mười mấy cái tổ nối nhau bằng những đường hầm ở dưới đất như loài kiến vùng bắc Mỹ và ở Âu Châu và rộng như một sân chơi tennis. Có tổ cao tới cả thước chứa hàng triệu con. Hầu hết các tổ kiến được xây và chia ra làm nhiều phòng. Một phòng cho kiến chúa và trứng. Nhiều phòng dùng như phòng nuôi trẻ để chứa nhộng đang tăng trưởng. Rất nhiều phòng được dùng làm chỗ tụ họp cho kiến thợ và để nghỉ ngơi. Trong một số tổ, có những nhà kho để chứa đồ ăn và nuôi nấm. Tổ sẽ được nới rộng thêm khi số kiến ngày càng đông. Ở xứ lạnh vào mùa đông, kiến sống ở khúc sâu nhất của tổ dưới lòng đất và chui ra khỏi tổ khi mùa xuân đến.

Chu kỳ sống
Kiến chúa thường đẻ trứng nở ra kiến thợ, nhưng vào một thời kỳ nhất định trong năm thì đẻ trứng nở ra kiến đực và kiến chúa tơ. Vài tuần sau khi sinh, kiến đực và kiến chúa tơ sẽ bò ra khỏi tổ, bay lên không trung để giao phối. Trong cuộc giao phối, kiến đực lưu tinh trùng trong cơ thể kiến chúa. Kiến chúa có thể giao phối với một hay nhiều chàng kiến đực. Trong mùa giao phối này, số lượng tinh trùng trong bụng kiến chúa đủ dùng trong suốt cuộc đời sinh sản của nàng.

Sau khi giao phối, kiến chúa và kiến đực đáp xuống đất. Những chàng kiến đực bò quanh quẩn rồi chết. Còn kiến chúa cắn đứt đôi cánh và bò đi kiếm chỗ làm tổ. Có trường hợp kiến chúa bò về tổ cũ và được chấp nhận. Ðôi khi kiến chúa sống nhờ ở một tổ kiến khác loài, được chúng chăm sóc và nuôi nấng cho đến khi sinh sản. Nhưng thông thường thì kiến chúa tự xây tổ mới. Sau khi sửa soạn nơi xây tổ, kiến chúa bịt kín cửa ra vào và bắt đầu đẻ trứng. Trong suốt thời gian này, kiến chúa sống bằng cách ăn cặp cánh đã trở nên vô dụng. Ðôi khi kiến chúa đói quá ăn cả những trái trứng của mình. Kiến chúa có khả năng kiểm soát để tinh trùng thụ tinh cho trứng hay không. Trứng nào không được thụ tinh sẽ trở thành kiến đực, trứng nào được thụ tinh sẽ trở thành kiến thợ hoặc kiến chúa tơ.

Trứng kiến rất nhỏ, chỉ vài ngày sau nở thành ấu trùng. Ấu trùng màu trắng, nhìn giống như con giun. Hầu hết các loại ấu trùng không tự di chuyển được. Kiến chúa phải nuôi ấu trùng bằng nước dãi của mình và đôi khi bằng chính những trái trứng khác. Giai đoạn này mất khoảng vài tuần, sau đó ấu trùng trở thành nhộng. Một số loại ấu trùng tự nhả và bọc chúng trong một cái kén trắng bạc trước khi trở thành nhộng. Nhộng là loại kiến non mình trong suốt, không ăn và bất động, sau từ 2 tới 3 tuần thì trở thành kiến. Khởi đầu là bầy kiến thợ. Kiến thợ sau khi trưởng thành, rời tổ đi kiếm mồi mang về cho kiến chúa và đàn ấu trùng ăn, và bắt đầu phận sự chăm sóc trứng, ấu trùng và nhộng trong khi kiến chúa tiếp tục đẻ trứng. Kiến chúa đẻ hàng ngàn trứng trong suốt một đời mình mà đa số chúng đều nở ra kiến thợ.

Ðể sinh tồn và chống trả những loài ăn kiến như ếch, nhện, chim, bò sát… và cả những loài kiến thù địch khác, loài kiến tự vệ bằng cách chích, cắn hay phun a-xít formic hoặc những hóa chất khác. Khoảng nửa số loài kiến có ngòi chích, chẳng hạn như kiến lửa hay loài kiến to chích vào da. Ngòi chích này tiết ra nọc gây đau rát và khó chịu. Loài không có ngòi chích thì có thể phun độc từ đít bụng.

Kiến ở tổ này thường đánh nhau với tổ khác. Có loài đánh nhau rất văn nghệ như kiến mật, chúng chỉ dùng sức đẩy nhau, không gây thương tích. Bên nào thắng thì chiếm tổ bên kia. Nhưng cũng có loài đánh nhau đến chết, cắn chân, cắn tay, cắn ăng-ten, cắn eo cho đứt bụng… Thông thường chúng hay “phân thây” bằng cách nhiều con kiến cùng bọn, cắn giữ chân, bụng, ăng-ten của kiến địch và kéo căng ra, và những con kiến khác cùng bầy dùng hàm cắt con kiến này thành từng mảnh! Bên nào thắng sẽ chiếm trứng, ấu trùng và kiến con về làm thức ăn. Có loài kiến chỉ chuyên sống bằng nghề thảo khấu như vậy.

Thông tin
Kiến nói chuyện với nhau bằng nhiều cách. Có loài sống trên cây hay lá dùng bụng của mình đập lên vách tổ báo hiệu khi tìm được thức ăn hay kẻ thù xuất hiện. Rung động truyền qua vách tổ đến đàn kiến bên trong khiến chúng ùa ra để giúp khuân mồi hay chống đỡ kẻ thù. Có loài tạo ra tiếng động như đã nói ở trên.

Kiến cũng có thể thông tin với nhau bằng cách tiết ra hóa chất hoá gọi là pheromone. Chất này được chứa trong những hạch ở đầu, ngực hay bụng. Chúng có mùi hay vị đặc trưng rất nhạy cảm với loài kiến, mỗi loại hóa chất tiết ra đều mang một ý nghĩa riêng. Thí dụ, chất tiết ra ở bụng để đánh dấu đường đến chỗ có thức ăn. Nếu cảm thấy nguy hiểm thì loại pheromone khác có thể được tiết ra để báo động.

Có lẽ loài kiến nhận biết nhau bằng mùi. Khi hai con kiến gặp nhau, chúng dùng ăng-ten để giao tiếp. Nếu cùng tổ, chúng có thể chạm miệng và một con sẽ nhả ra một chút dịch đường cho con kia ăn.

Tuổi thọ
Tuổi thọ của kiến chúa lâu nhất, khoảng từ 10 tới 20 năm. Kiến thợ sống từ 1 đến 5 năm. Kiến đực chỉ sống được vài tuần tới vài tháng và chết sau khi giao phối.

Bình luận (0)
Trần Nguyễn Hoài Thư
Xem chi tiết
HOÀNG THẾ TÀI
22 tháng 11 2018 lúc 19:42

- ong,kiến : sống thành tập đoàn có tổ chức chặt chẽ như "một xã hội"

mối hại gỗ

Thực vật sống: nhiều loại mối lấy thức ăn từ cây sống, đặc biệt là vào màu khô hạn, cây sống còn cung cấp nước cho chúng, nhất là các cây còn non như bạch đàn, chè sắn, mía và các cây trồng khác.

Thực vật khô: Ruột của loài mối nhà tiêu hoá được chất xơ nên ngoài gỗ, tre nứa tất cả các sản phẩm được chế biến từ thật vật như giấy, vải … đều bị chúng phá hoại. Trên đường đến nguồn thức ăn, mối có thể đục qua nhiều loại vật liệu khác như xốp cách âm, cao su, đồng thời mang theo đất và độ ẩm làm nhiều thiết bị máy móc bị hư hỏng theo.Các loại mối khác nhau thường ăn chất xơ của gỗ trở trạng thái khác nhau.

chuồn chồn : ăn các loại muỗi , kiến ,bướm,ruồi=>tốt cho người

ve sầu: ve sầu lớn có thể gây hại tới các cây non bằng cách cách hút nhựa cây và đẻ trứng trên đó, nhưng với các cây cổ thụ thì ve sầu sẽ không thể gây tổn hại gì lớn.

bọ ngựa : thường ăn ruồi, muỗi,ong , bọ cánh cứng...,thậm chí chúng còn ăn thịt lẫn nhau

mik làm được thế thôi

Bình luận (4)
Nguyễn Trần Khánh Linh
Xem chi tiết
Hoàng Thúy An
18 tháng 12 2017 lúc 20:13
Châu chấu hô hấp nhờ hệ thống ống khí, bắt đầu từ lỗ thở, sau đó phân nhánh nhiều lần đến tế bào Tôm sông thì lại hô hấp bằng mang.
Bình luận (0)
FC37 ĐẬP TAN SÀN NHẢY
18 tháng 12 2017 lúc 20:22

- Châu chấu hô hấp nhờ hệ thống ống khí, bắt đầu từ lỗ thở, sau đó phân nhánh nhiều lần thành các nhánh nhỏ và các đầu nhánh nhỏ kết thúc đến các tế bào, khác hẳn với tôm sông, thuộc lớp Giáp xác (chúng hô hấp bằng mang).

Bình luận (0)
Phạm Giang
18 tháng 12 2018 lúc 21:53

Châu chấu hô hấp bằng ống khí, còn tôm sông hô hấp bằng mang

Bình luận (0)
Hồ Thị Ngọc Hạnh
Xem chi tiết
Hồ Thị Ngọc Hạnh
18 tháng 12 2017 lúc 19:24

Lớp Sâu bọ - Bài 29. Đặc điểm chung và vai trò của ngành Chân khớp

Bình luận (0)
Hồ Thị Ngọc Hạnh
Xem chi tiết
Công chúa ánh dương
18 tháng 12 2017 lúc 18:59

Trả lời hộ mình vở bài tập Sinh học 7, mình sẽ theo dõi tài khoản của bạn:

Bảng 2: Đa dạng về tập tính của nghành Chân khớp

 

 

STTCác tập tính chínhTôm Tôm ở nhờ NhệnVe sầu KiếnOng mật
1Tự vệ, tấn công     
2Dự trữ thức ăn      
3Dệt lưới bẫy mồi      
4Cộng sinh để tồn tại    

 

 
5Sống thành xã hội     

 

6Chăn nuôi động vật khác    

 

 
7Đực, cái nhận biết nhau bằng tín hiệu      
8Chăm sóc thế hệ sau      
Bình luận (1)
Hoàng Jessica
18 tháng 12 2017 lúc 19:02

Bảng 2: Đa dạng về tập tính của nghành Chân khớp

STT Các tập tính chính Tôm Tôm ở nhờ Nhện Ve sầu Kiến Ong mật
1 Tự vệ, tấn công \(\sqrt{ }\) \(\sqrt{ }\) \(\sqrt{ }\) \(\sqrt{ }\) \(\sqrt{ }\)
2 Dự trữ thức ăn \(\sqrt{ }\) \(\sqrt{ }\) \(\sqrt{ }\)
3 Dệt lưới bẫy mồi \(\sqrt{ }\)
4 Cộng sinh để tồn tại \(\sqrt{ }\) \(\sqrt{ }\)
5 Sống thành xã hội \(\sqrt{ }\) \(\sqrt{ }\)
6 Chăn nuôi động vật khác \(\sqrt{ }\)
7 Đực, cái nhận biết nhau bằng tín hiệu \(\sqrt{ }\)
8 Chăm sóc thế hệ sau \(\sqrt{ }\) \(\sqrt{ }\) \(\sqrt{ }\)
Bình luận (1)
fghfghf
18 tháng 12 2017 lúc 19:04

Kết quả hình ảnh cho Bảng 2: Đa dạng về tập tính của ngành Chân khớp

Bình luận (1)
Đẹp Trai Không Bao Giờ S...
Xem chi tiết
Hoàng Quỳnh Phương
15 tháng 12 2017 lúc 20:06

Tập tính của lớp sâu bọ :

- Tự vệ, tấn công

- Dự trữ thức ăn

- Dệt lưới bẫy mồi

- Cộng sinh để tồn tại

- Sống thành xã hội

- Chăn nuôi động vật khác

- Đực, cái nhận biết nhau bằng tín hiệu

- Chăm sóc thế hệ sau

Bình luận (0)
Trần Thư
Xem chi tiết
Bùi Ngọc Anh
15 tháng 12 2017 lúc 11:55

Nhiều loài côn trùng có các cơ quan cảm giác rất tinh tế. Trong một số trường hợp, các giác quan của chúng nhạy cảm hơn con người rất nhiều. Ví dụ, ong có thể nhìn được trong phổ bức xạ cực tím để tìm kiếm nơi hút mật là những bông hoa có bức xạ này để "dẫn đường" cho ong. Bướm đực có cái "mũi chuyên hóa" là đôi ăng ten (ở bướm ngày ăng ten có chóp tròn ở đầu mút và ở ngài (bướm đêm) lại có dạng lông vũ hoặc không có đầu mút tròn) có thể ngửi thấy pheromon của bướm cái từ khoảng cách vài km.
Các côn trùng có tập tính xã hội như kiến hay ong, chúng sống cùng nhau trong một tập đoàn lớn và được tổ chức rất tốt. Các cá thể trong tập đoàn tương đối giống nhau về bộ gen (do trinh sản) nên người ta có thể coi cả tập đoàn như một "siêu cơ thể". Đứng đầu một thị tộc côn trùng như vậy là con chúa-con cái duy nhất có khả năng sinh sản, và chỉ đảm nhiệm chức vụ này trong bầy và là mẹ của mọi con côn trùng khác trong thị tộc, bao gồm những con thợ là những con cái không có khả năng sinh sản, thực hiện mọi nhiệm vụ của tổ, từ kiếm thức ăn, vệ sinh tổ và vệ sinh con chúa, chăm sóc ấu trùng... Con chúa điều khiển lũ con của mình bằng pheromon, và cứ vào mỗi mùa sinh sản mới, chúng lại cho ra đời một lứa con chúa là hậu duệ của mình, khi trưởng thành những con này sẽ bay đi để tạo nên một thị tộc riêng, những đàn kiến cánh bay vào nhà bạn chính là hình ảnh minh họa rõ nét của chúng. Còn những con thợ thì được sinh ra hằng ngày với tốc độ chóng mặt. Còn những con đực chỉ đóng vai trò sinh sản.
Một tập tính quan trọng của côn trùng là một vài loài và ở một số giai đoạn biến thái chúng có thời kỳ ngủ đông (hibernate) và thời kỳ đình dục (diapause).

Bình luận (0)
Trần Thị Quỳnh Thư
Xem chi tiết
Bùi Ngọc Anh
15 tháng 12 2017 lúc 11:55

Nhiều loài côn trùng có các cơ quan cảm giác rất tinh tế. Trong một số trường hợp, các giác quan của chúng nhạy cảm hơn con người rất nhiều. Ví dụ, ong có thể nhìn được trong phổ bức xạ cực tím để tìm kiếm nơi hút mật là những bông hoa có bức xạ này để "dẫn đường" cho ong. Bướm đực có cái "mũi chuyên hóa" là đôi ăng ten (ở bướm ngày ăng ten có chóp tròn ở đầu mút và ở ngài (bướm đêm) lại có dạng lông vũ hoặc không có đầu mút tròn) có thể ngửi thấy pheromon của bướm cái từ khoảng cách vài km.
Các côn trùng có tập tính xã hội như kiến hay ong, chúng sống cùng nhau trong một tập đoàn lớn và được tổ chức rất tốt. Các cá thể trong tập đoàn tương đối giống nhau về bộ gen (do trinh sản) nên người ta có thể coi cả tập đoàn như một "siêu cơ thể". Đứng đầu một thị tộc côn trùng như vậy là con chúa-con cái duy nhất có khả năng sinh sản, và chỉ đảm nhiệm chức vụ này trong bầy và là mẹ của mọi con côn trùng khác trong thị tộc, bao gồm những con thợ là những con cái không có khả năng sinh sản, thực hiện mọi nhiệm vụ của tổ, từ kiếm thức ăn, vệ sinh tổ và vệ sinh con chúa, chăm sóc ấu trùng... Con chúa điều khiển lũ con của mình bằng pheromon, và cứ vào mỗi mùa sinh sản mới, chúng lại cho ra đời một lứa con chúa là hậu duệ của mình, khi trưởng thành những con này sẽ bay đi để tạo nên một thị tộc riêng, những đàn kiến cánh bay vào nhà bạn chính là hình ảnh minh họa rõ nét của chúng. Còn những con thợ thì được sinh ra hằng ngày với tốc độ chóng mặt. Còn những con đực chỉ đóng vai trò sinh sản.
Một tập tính quan trọng của côn trùng là một vài loài và ở một số giai đoạn biến thái chúng có thời kỳ ngủ đông (hibernate) và thời kỳ đình dục (diapause).

Bình luận (0)
Quỳnh Thư
Xem chi tiết
Bùi Ngọc Anh
15 tháng 12 2017 lúc 11:55

Nhiều loài côn trùng có các cơ quan cảm giác rất tinh tế. Trong một số trường hợp, các giác quan của chúng nhạy cảm hơn con người rất nhiều. Ví dụ, ong có thể nhìn được trong phổ bức xạ cực tím để tìm kiếm nơi hút mật là những bông hoa có bức xạ này để "dẫn đường" cho ong. Bướm đực có cái "mũi chuyên hóa" là đôi ăng ten (ở bướm ngày ăng ten có chóp tròn ở đầu mút và ở ngài (bướm đêm) lại có dạng lông vũ hoặc không có đầu mút tròn) có thể ngửi thấy pheromon của bướm cái từ khoảng cách vài km.
Các côn trùng có tập tính xã hội như kiến hay ong, chúng sống cùng nhau trong một tập đoàn lớn và được tổ chức rất tốt. Các cá thể trong tập đoàn tương đối giống nhau về bộ gen (do trinh sản) nên người ta có thể coi cả tập đoàn như một "siêu cơ thể". Đứng đầu một thị tộc côn trùng như vậy là con chúa-con cái duy nhất có khả năng sinh sản, và chỉ đảm nhiệm chức vụ này trong bầy và là mẹ của mọi con côn trùng khác trong thị tộc, bao gồm những con thợ là những con cái không có khả năng sinh sản, thực hiện mọi nhiệm vụ của tổ, từ kiếm thức ăn, vệ sinh tổ và vệ sinh con chúa, chăm sóc ấu trùng... Con chúa điều khiển lũ con của mình bằng pheromon, và cứ vào mỗi mùa sinh sản mới, chúng lại cho ra đời một lứa con chúa là hậu duệ của mình, khi trưởng thành những con này sẽ bay đi để tạo nên một thị tộc riêng, những đàn kiến cánh bay vào nhà bạn chính là hình ảnh minh họa rõ nét của chúng. Còn những con thợ thì được sinh ra hằng ngày với tốc độ chóng mặt. Còn những con đực chỉ đóng vai trò sinh sản.
Một tập tính quan trọng của côn trùng là một vài loài và ở một số giai đoạn biến thái chúng có thời kỳ ngủ đông (hibernate) và thời kỳ đình dục (diapause).

Bình luận (0)
Yuri Sama
Xem chi tiết
︎ ︎︎ ︎=︎︎ ︎︎ ︎
14 tháng 12 2017 lúc 12:49

Cào cào, châu chấu ăn lúa.

Sâu bướm ăn lá cây.

Ve sầu hút nhựa cây (con trưởng thành ) và ăn rễ cây (con dưới đất).

.............................

Bình luận (1)
Hải Đăng
14 tháng 12 2017 lúc 14:41

- Làm hại cây trồng và sản xuất nông nghiệp ( châu chấu.....)

- Hại đồ gỗ, tàu thuyền ( mọt....)

- Là vật chủ trung gian truyền bệnh ( muỗi....)

Bình luận (1)