Bài 2. Sự suy vong của chế độ phong kiến và sự hình thành chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu

học
Xem chi tiết
Trần Diệu Linh
18 tháng 10 2018 lúc 18:42

Nguyên nhân dẫn đến các cuộc phát kiến địa lí là:

- Do yêu cầu phát triển của sản xuất, các thương nhân châu Âu cần nhiều vàng bạc, nguyên liệu và thị trường mới.

- Họ muốn tìm những con đường biển để sang buôn bán với Ấn Độ và các nước phương Đông.


Bình luận (0)
đỗ lê nhật hà
18 tháng 10 2018 lúc 18:45

Nguyên nhân:

+ Từ giữa thế kỷ XV, các thương nhân châu Âu cần rất nhiều nhiều vàng bạc, nguyên liệu và thị trường mới để phục vụ cho nhu cầu sản xuất.

+ Vì vậy, họ lên đường bất chấp nguy hiểm với hi vọng tìm thấy những “mảnh đất có vàng”, đồng thời để tìm ra những con đường biển sang buôn bán với các nước phương Đông.

-> Những chuyến đi này đã phát kiến ra nhiều vùng đất mới.

Bình luận (0)
Mai Phuong
Xem chi tiết
Thời Sênh
8 tháng 10 2018 lúc 14:02
- Quý tộc, thương nhân trở nên giàu có nhờ việc cướp bóc của cải và tài nguyên từ các nước thuộc địa. - Họ mở rộng việc kinh doanh, lập công ty thương mại, đồn điền, bóc lột sức lao động của người làm thuê. Từ đó người làm thuê trở thành giai cấp vô sản. - Giai cấp vô sản được hình thành từ những người bị bóc lột, tước đoạt ruộng đất buộc phải làm trong các xí nghiệp và nhà máy của giai cấp tư sản. => Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được hình thành.
Bình luận (0)
Cookie ~ A.R.M.Y
Xem chi tiết
nguyễn thu thảo
22 tháng 9 2018 lúc 23:17

1.

- Do yêu cầu phát triển của sản xuất, các thương nhân châu Âu cần nhiều vàng bạc, nguyên liệu và thị trường mới.

- Họ muốn tìm những con đường biển để sang buôn bán với Ấn Độ và các nước phương Đông.

3.

Sau các cuộc phát kiến địa lí, các quý tộc và thương nhân châu Âu ra sức cướp bóc của cải, tài nguyên của các nước thuộc địa mang về châu Âu. Nhờ thế những người này đã giàu lên nhanh chóng.

Nhờ CÓ tiền Vốn và công nhân làm thuê, các nhà tư sản ra sức mở rộng kinh doanh, lập các xưởng sản xuất với quy mô lớn, các công ti thương mại và những đồn điền rộng lớn. Các chủ xưởng, chủ đồn điền và những thương nhân giàu có dần dần trở thành giai cấp tư sản. Họ dùng đủ mọi cách để bóc lột đến kiệt quệ sức lao động của những người làm thuê. Đông đảo những người làm thuê ưở thành giai cấp vô sản. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được hình thành.

Bình luận (5)
Thảo Phương
23 tháng 9 2018 lúc 9:31

5)

Sinh:khoảng 1451
Có thể ở Genova, Liguria
Mất:20 tháng 5 năm 1506 (khoảng 55 tuổi)
Valladolid, Castile
Quốc tịch:còn tranh cãi

là một nhà hàng hải người nước Cộng hòa Genova và một đô đốc của các vị Quân chủ Công giáo Tây Ban Nha, mà những chuyến vượt Đại Tây Dương của ông đã mở ra những cuộc thám hiểm Châu Mỹ cũng như quá trình thực dân hoá của Châu Âu. Ông thường được coi là một người dân Genova, nguồn gốc xuất thân là người Do Thái di cư như bao người khác ở thế kỷ 15 - 16.

Bình luận (0)
Tần Khả Nhi
Xem chi tiết
nguyễn thu thảo
13 tháng 9 2018 lúc 20:44

1.

- Giai cấp tư sản mới ra đời, có thế lực về kinh tế nhưng chưa có địa vị xã hội tương ứng.

- Những tiến bộ của khoa học, kĩ thuật giúp con người thoát khỏi tình trạng lạc hậu, nhận thức được bản chất của thế giới.

- Giáo lí Ki-tô mang nặng những quan điểm lỗi thời của xã hội phong kiến kìm hãm sự phát triển của giai cấp tư sản.

- Giai cấp tư sản một mặt muốn khôi phục lại văn hóa cổ đại Hi Lạp, Rô-ma, mặt khác cũng muốn góp phần xây dựng một nền văn hóa mới, đề cao giá trị con người, đòi quyền tự do cá nhân, coi trọng khoa học - kĩ thuật.

Bình luận (0)
nguyễn thu thảo
13 tháng 9 2018 lúc 20:45

2.

- Được khởi xướng ở Đức và nhanh chóng lan rộng sang Thụy Sĩ, Pháp, Anh,… và có tầm ảnh hưởng lớn trong nhân dân.

- Đạo Ki-tô bị phân hóa thành hai giáo phái: Tân giáo và Cựu giáo luôn luôn mâu thuẫn và xung đột nhau.

- Làm bùng lên một cuộc đấu tranh rộng lớn ở Đức (cuộc “chiến tranh nông dân Đức”) - cuộc đấu tranh vũ trang đầu tiên của nông dân dưới ngọn cờ của tư sản chống chế dộ phong kiến.

Bình luận (0)
hello hello
Xem chi tiết
Huệ Phạm
16 tháng 9 2018 lúc 12:30

-Giai cấp vô sản: Hình thành từ những người nông nô bị mất ruộng đất phải đi làm thuê cho giai cấp tư sản, bị bóc lột sức lao động

-Giai cấp tư sản: Gồm các chủ xưởng, chủ đồn điền và thương nhân giàu có. Giai cấp tư sản dùng đủ hình thức để bóc lột kiệt quệ giai cấp vô sản

Bình luận (0)
nguyễn thu thảo
13 tháng 9 2018 lúc 20:46

các t là gì bn Hằng

Bình luận (0)
Vy Yen
Xem chi tiết
chuongthanhpham
8 tháng 9 2018 lúc 11:47

Những cuộc phát kiến địa lý:

+ Cô-lôm-bô tìm ra Châu Mỹ nhưng Cô-lôm-bô nghĩ rằng mình đang ở Ấn Độ vào năm 1492

+ P. Ma-gien-lan lần đầu tiên đi vòng quanh thế giới suốt 3 năm( Năm 1519 và năm 1522) và khảng địnhTrái Đất hình cầu. Trong suốt thời gian đi, khi thức ăn, thức uống hết thì họ phải ăn giày, dép,.... Còn uống nước thì uống bằng nước tiểu. P. Ma-gien-lan chết khi đi được nữa vòng. Còn 18 thủy thủ còn lại sống sót qua về Tây Ban Nha

+.............

Bình luận (0)
Nguyễn Minh Ty
Xem chi tiết
Ngô Hoàng Anh
28 tháng 8 2018 lúc 19:22

Câu 1 :

- Do yêu cầu phát triển của sản xuất, các thương nhân châu Âu cần nhiều vàng bạc, nguyên liệu và thị trường mới.

- Họ muốn tìm những con đường biển để sang buôn bán với Ấn Độ và các nước phương Đông.

Câu 2 :

Crixtôphôrô Côlômbô (Christophoro Colombo) - nhà hàng hải Italia, phục vụ triều đình vua Tây Ban Nha, thực hiện chuyến thám hiểm đầu tiên qua Đại Tây Dương và tìm ra châu Mỹ.

Côlômbô xuất thân trong gia đình công nhân dệt ở Giênôva, một hải cảng sầm uất ở phía Bắc Italia. Ông thường có những suy nghĩ táo bạo và lãng mạn, luôn mơ ước vượt trùng dương tới miền đất xa lạ. Ông đã nhiều lần vượt biển theo các đoàn tàu buôn. Năm 1476, ông sang Bồ Đào Nha đề xuất dự án vượt đại dương theo hướng tây tới Nhật Bản và Trung Quốc, nhưng vua Bồ Đào Nha không chấp thuận. Ông bỏ sang Tây Ban Nha và được vua Tây Ban Nha Phecnanđô và nữ hoàng Ixabenla chấp nhận dự án và cấp kinh phí cho ông thực hiện cuộc thám hiểm.

Ngày 3-8-1492, Côlômbô được phong Đô đốc, cầm đầu một đoàn tàu gồm ba thuyền buồm và 60 thủy thủ rời cảng Palôxơ (Nam Tây Ban Nha) đi tìm đường sang ấn Độ theo hướng tây. Sau hai tháng rưỡi lênh đênh ngoài biển khơi Đại Tây Dương đầy gian khổ và lo âu, ngày 12-10-1492, đoàn tàu của Côlômbô đến được vùng quần đảo Bahama, rồi Cuba và Haiti. Côlômbô tưởng rằng mình đã đến Nhật Bản hoặc những hòn đảo ven bờ ấn Độ (cho nên ông gọi dân bản xứ là người ấn Độ - Indian). Nhưng gần nửa năm sục sạo ở các hòn đảo này, ông không tìm thấy hạt tiêu và hương liệu và những thứ hàng đắt giá ở châu Âu, mà chỉ thu hoạch được một ít vàng và đường. Tháng 3-1943, ông trở về Tây Ban Nha, được triều đình và nhân dân Tây Ban Nha đón tiếp trọng thể. Ông được vua Tây Ban Nha phong phó vương các thuộc địa ở Tần lục địa.

Từ 1493 - 1504, Côlômbô còn thực hiện ba chuyến thám hiểm nữa sang lục địa mới. Ông đã khám phá ra hầu hết các đảo trên quần đảo Ăngti và cả bờ biển Trung Mỹ. Nhưng số vàng bạc và của cải mà ông mang về cho vua Tây Ban Nha quá ít ỏi, vì thế ông không được nhà vua tín nhiệm nữa. Năm 1506, ông mất tại một thành phố nhỏ ở miền Bắc Tây Ban Nha trong sự nghèo khổ và lãng quên.

Bình luận (0)
Trịnh Ngọc Quỳnh Anh
28 tháng 8 2018 lúc 23:06

1. Nguyên nhân, vai trò nào dẫn đến các cuộc phát kiến Địa lí?

a, Nguyên nhân:

- Do nhu cầu nguyên liệu, vàng bạc, thị truờng tăng cao

- Do con đuờng giao lưu buôn bán Tây Á và Địa Trung Hải bị nguời Ả Rập chiếm đóng.

- Do khoa học kĩ thuật có nhiều tiến bộ.

b, Vai trò:

- Là cuộc cách mạng lớn về giao thông và tri thức

- Đem lại sự hiểu biết mới về Trái Đất, về những con đuờng, dân tộc mới. Tạo điều kiện giao lưu các nền văn hóa khác nhau.

2. Hãy nêu tiểu sử nhân vật C.Cô-lôm-bô

Cristoforo Colombo (tiếng Tây Ban Nha: Cristóbal Colón; khoảng 1451 – 20 tháng 5, 1506) là một nhà hàng hải người nước Cộng hòa Genova[1] và một đô đốc của các vị Quân chủ Công giáo Tây Ban Nha, mà những chuyến vượt Đại Tây Dương của ông đã mở ra những cuộc thám hiểm Châu Mỹ cũng như quá trình thực dân hoá của Châu Âu. Ông thường được coi là một người dân Genova, nguồn gốc xuất thân là người Do Thái di cư như bao người khác ở thế kỷ 15 - 16.

Lịch sử coi chuyến đi đầu tiên năm 1492 của ông có tầm quan trọng lớn, dù thực tế ông không đặt chân tới lục địa cho tới tận chuyến thám hiểm thứ ba năm 1498.[2] Tương tự, ông không phải là nhà thám hiểm đầu tiên của châu Âu tới châu Mỹ, bởi vì đã có những ghi chép về tiếp xúc xuyên Đại Tây Dương của châu Âu trước năm 1492. Có rất nhiều bằng chứng về việc người Na-uy thời trung cổ đã đặt chân đến và thiết lập nên các thuộc địa ở châu Mỹ.[3] Tuy nhiên, chuyến đi của Colombo diễn ra trong thời điểm chủ nghĩa đế quốc quốc gia và sự cạnh tranh kinh tế giữa các nước đang phát triển tìm cách kiếm của cải từ việc thành lập những con đường thương mại và thuộc địa đang nổi lên. Vì thế, giai đoạn trước năm 1492 được coi là giai đoạn Tiền Colombo, và thời gian diễn ra sự kiện này (Ngày Colombo) thường được kỷ niệm tại toàn thể châu Mỹ, Tây Ban Nha và Ý.

3. Những mâu thuẫn xuất hiện trong xã hội châu Âu.

Lịch sử châu Âu thời tiền sử bắt đầu với công cuộc định cư của người vượn đứng thẳng, giống Neanderthal, và loài người hiện đại. Vào thời kỳ cổ đại, nền văn minh Cổ Hy Lạp nở rộ ở châu Âu, mở đầu với hai nền văn minh Minos và Mycenae, và phát triển hoàng kim từ thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên, với chiến thắng của nhân dân Hy Lạp trước các cuộc xâm lược của Đế quốc Ba Tư, trong thời này thị quốc Athena giàu mạnh đã có nền dân chủ[1], cho đến khi một nước Hy hóa lân cận là Macedonia làm bá chủ Hy Lạp. Với vua Alexandros Đại Đế, người Macedonia đã mở mang nền văn minh Hy Lạp đến tận Á châu, mở ra thời kỳ Hy Lạp hóa.[2] Sau đó, vào năm 31 trước Công Nguyên, Hoàng đế Augustussau khi chiến thắng Vương triều Hy hóa của Ai Cập, đã lập nên Đế quốc La Mã.[3] với cương thổ rộng lớn trải dọc từ Thổ Nhĩ Kỳ tới Tây Ban Nha, từ Bắc Phi tới Scotland. Sự bành trướng của đế chế La Mã đặt nền tảng cho sự ra đời của hàng loạt đế chế mà chưa bao giờ được thấy trước đó ở châu Âu. Sau sự thoái trào của Đế quốc Tây La Mã vào năm 476, lịch sử châu Âu bước vào thời kỳ đen tối, đánh dấu bằng sự tàn tạ trong giáo dục, trong tổ chức xã hội và bởi những sự xâu xé của rất nhiều quân xâm lược man di, đặc biệt là người Viking, Avar, Magyar và người Ả Rập.

Châu Âu năm 814.

Giai đoạn Trung Cổ được đánh dấu bằng sự tái thiết xã hội có tổ chức, chủ yếu là theo chế độ phong kiến, và sự thống trị ở phương Bắc của Giáo hội Công giáo Rôma. Ở phía đông, Đế quốc Đông La Mã hưng thịnh, với các Hoàng đế tài ba như Heraclius, là một chiến tướng kiệt xuất đánh bại quân Ba Tư vào thập niên 620. Song, chính ngay từ thời điểm này người Ả Rập Hồi giáo càn quét châu Âu và không ít khi đánh thắng Heraclius, dù rằng người Đông La Mã vẫn mạnh lên dưới triều Hoàng đế Basil II, và trong trận Tours (732), Vương quốc Frank (người German) đã đánh tan tác quân Ả Rập.[4] Vào năm 800, sau khi đã bành trướng nước Frank cường thịnh, chinh phạt các tộc German khác, vua Karl Đại đế được Giáo hoàng Lêô IIIphong làm Hoàng đế Công giáo ở phương Tây đối trọng với Đông La Mã. Tuy Đế quốc tan rã sau khi Karl Đại Đế mất, Vương quốc Đông Frank - nước Đức - dưới các triều vua Heinrich der Finkler và Otto Đại đế đã lớn mạnh, đánh tan tành quân Magyar điều này dẫn đến việc Otto Đại Đế lên làm Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh.[5] Trước sức mạnh của đạo Hồi, các cuộc Thập tự chinh bùng nổ, và cuối cùng Đế quốc Ottoman của người Thổ Nhĩ Kỳ hưng thịnh lên và chinh phạt kinh thành Constantinopolis vào năm 1453, làm cho Đế quốc Đông La Mã diệt vong.[6] Trong khi đó, Anh Quốc kể từ đời vua Edward IIIđánh nhau với Pháp trong suốt cuộc Chiến tranh Trăm Năm tàn khốc.[7] Thời Trung Cổ được tiếp nối bởi công cuộc Phục hưng, một sự tái khám phá giá trị và tri thức cổ điển, với sự hồi sinh của hai nền văn hóa Hy Lạp cổ,[8] và làm bàn đạp cho phong trào Cải cách Kháng Cách, một phong trào tôn giáo và chính trị đã chứng kiến phần lớn Bắc Âu từ bỏ Giáo hội Công giáo Rôma đồng thời tái xác định văn hóa cũng như các khối liên minh ở khắp lục địa, trào lưu tôn giáo này mở đầu với nhà thần học Martin Luther người Đức khi ông lên án hệ thống Giáo hội Công giáo Rôma vào năm 1517. Ông kiên quyết bảo vệ luận điểm của mình,[9] Thời kỳ này cũng chính là nền tảng cho sự phát triển của bành trướng thuộc địa, củng cố sức mạnh ở các quốc gia thuộc Đại Tây Dương của Anh Quốc, Pháp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đồng thời mở rộng tầm ảnh hưởng của châu Âu tới châu Mỹ, châu Phi, Ấn Độ và phương Đông. Thời kỳ này là bước ngoặt cho cuộc cách mạng công nghiệp và một thời kỳ tri thức được gọi là trào lưu Khai sáng.

Nửa cuối thế kỷ 17 chứng kiến Vương quốc Pháp của vua Louis XIV vươn lên thành liệt cường quân sự hùng mạnh, với dã tâm xâm phãm các nước láng giềng, song ông ta bị vua William III nước Anh chặn đứng.[10] Song vào thế kỷ 18, ảnh hưởng của cả Anh Quốc và Pháp tại châu Âu suy sụp dần đi, và các Vương triều Đông Âu vươn lên thành các liệt cường.[11] Với vị Hoàng đế hùng mạnh Pyotr Đại Đế, Đế quốc Nga - nước rộng lớn nhất của Âu châu - đánh thắng Vương quốc Thụy Điển, và lên làm bá chủ của miền Bắc Âu. Bên cạnh đó, Vương quốc Phổ - một quốc gia bé nhỏ khi đó - cũng phát triển cường thịnh, với vị Quốc vương lỗi lạc Friedrich II Đại Đế, nhiều trận thắng của ông trước liên quân hùng hậu Áo - Nga - Pháp - Thụy Điển đã trở thành kinh điển, làm nước Phổ trở nên phi thường trong mắt người Âu.[12][13] Ngay từ thế kỷ 17, rất nhiều các quốc gia ở châu Âu thực hiện hàng loạt những cuộc cách mạng, trong đó nổi bật nhất là cách mạng Pháp, cuộc cách mạng mở đầu cho hàng loạt cuộc chinh phạt của Napoléon Bonaparte. Việc phá hủy các quốc gia đang tồn tại của Napoléon Bonaparte và sau đó tái tổ chức châu Âu với hội nghị Viên đã tiếp sức cho chủ nghĩa dân tộc đang phát triển, dẫn đến sự ra đời của đế quốc Áo-Hung sau đó, sự thống nhất của nước Đức, sự thống nhất của Ý và những căng thẳng tại vùng Balkan, cũng như những cải cách mạnh mẽ trong đế quốc Nga. Rồi Anh và Pháp, phần nào đó là Đế quốc Ottoman, những quốc gia được biết đến là cường quốc. Các căng thẳng không giải quyết được tại Balkan, và một hệ thống những khối đồng minh được gọi là Đồng minh ba nước (1882) và khối đồng minh ba nước chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, bản thân nó cũng mở đường cho cách mạng Nga và chỉ kết thúc với sự tham gia của Hoa Kỳ. Hiệp ước đình chiến đã để lại cho Đức gánh nặng bồi thường thiệt hại, gánh nặng này, kết hợp với Đại suy thoái (Great Depression), đã tạo điều kiện để đảng Phát xít của Adolf Hitler cầm quyền, mở đầu cho sự ra đời của Đệ tam Quốc xã cũng như sự xuất hiện của những đảng Phát Xít tại Tây Ban Nha (xem Nội chiến Tây Ban Nha) và Ý. Cuộc xâm chiếm Ba Lan, Bỉ và Pháp của Hitler là tín hiệu cho sự khởi đầu của Chiến tranh thế giới lần thứ hai.

Chiến thắng của Phe Đồng Minh tại châu Âu và sự đầu hàng của Nhật Bản đã chứng kiến việc quyền lực tại Trung Âu được chia sẻ giữa Liên bang Xô Viết, Anh Quốc, Hoa Kỳ và Pháp. Tuy nhiên, điều này nhanh chóng dẫn đến sự hình thành các khối Đông-Tây trong Chiến tranh Lạnh khi mà khối Warszawa do Liên Xô đứng đầu đối mặt với khối NATO do Mỹ cầm đầu và được ngăn cách qua cái gọi là Bức màn sắt, biểu tượng tiêu biểu là Bức tường Berlin. Tây Âu sau đó trải qua giai đoạn phát triển kinh tế ổn định và mạnh mẽ, thành lập ra Cộng đồng Kinh tế châu Âu và sau đó là Liên minh châu Âu. Trong khi đó, khối Warszawa tụt hậu, sau cùng dẫn đến cuộc cải tổ Nga, khối Warszawa tan vỡ và bức tường Berlin sụp đổ. Sau chiến tranh lạnh ở châu Âu thì sự kiện chính nổi lên là cuộc chiến sắc tộc tại Balkan, nổi bật tại Serbia, Bosnia và Kosovo, cùng với sự can thiệp của NATO sau đó. Từ sự kiện 11 tháng 9, chính sách đối ngoại của NATO bị gia tăng sự chi phối do phản ứng của nó với thế giới Hồi giáo, và nổi bật hơn cả là những quan điểm mâu thuận về cuộc chiến ở Iraq, trong khi đó thì liên minh châu Âu cũng kết nạp thêm phần lớn những thành viên của khối Warszawa cũ cũng như các quốc gia vùng Baltic.

Bình luận (0)
Thanh Tú Thanh Tuyền
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Thùy Trang
31 tháng 8 2018 lúc 20:59

-Sự biến đổi kinh tế :ra đời hình thức kinh doanh tư bản.

-Sự biến đổi về xã hội:hình thành giai cấp mới là giai cấp công nhân(vô sản) và giai cấp tư sản.

Bình luận (0)
Hà An An
Xem chi tiết
Thảo Phương
26 tháng 8 2018 lúc 21:31

Sau các cuộc phát kiến địa lí, các quý tộc và thương nhân châu Âu ra sức cướp bóc của cải, tài nguyên của các nước thuộc địa mang về châu Âu. Nhờ thế những người này đã giàu lên nhanh chóng.

Nhờ CÓ tiền Vốn và công nhân làm thuê, các nhà tư sản ra sức mở rộng kinh doanh, lập các xưởng sản xuất với quy mô lớn, các công ti thương mại và những đồn điền rộng lớn. Các chủ xưởng, chủ đồn điền và những thương nhân giàu có dần dần trở thành giai cấp tư sản. Họ dùng đủ mọi cách để bóc lột đến kiệt quệ sức lao động của những người làm thuê. Đông đảo những người làm thuê ưở thành giai cấp vô sản. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được hình thành.

Bình luận (0)
Nguyễn Phúc Bình
24 tháng 8 2019 lúc 17:46

Sau các cuộc phát kiến địa lí, các quý tộc và thương nhân châu Âu ra sức cướp bóc của cải, tài nguyên của các nước thuộc địa mang về châu Âu. Nhờ thế những người này đã giàu lên nhanh chóng.

Nhờ có tiền Vốn và công nhân làm thuê, các nhà tư sản ra sức mở rộng kinh doanh, lập các xưởng sản xuất với quy mô lớn, các công ti thương mại và những đồn điền rộng lớn. Các chủ xưởng, chủ đồn điền và những thương nhân giàu có dần dần trở thành giai cấp tư sản. Họ dùng đủ mọi cách để bóc lột đến kiệt quệ sức lao động của những người làm thuê. Đông đảo những người làm thuê ưở thành giai cấp vô sản. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được hình thành.

Chúc bạn học tốt !

Bình luận (0)