BÀI TẬP 1:
THẮC MẮC KIẾN THỨC LỊCH SỬ
Hiền tài là nguyên khí của quốc gia là đoạn trích từ Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba do Thân Nhân Trung soạn năm 1484 đời Hồng Đức (ghi tên 33 vị đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, năm 1442). Tại sao lại có chuyện mãi đến năm 1484, tức 42 năm sau khoa thi mới có bia đá?
Điều gì thôi thúc Hoàng Đức Lương vượt khó khăn để biên soạn tuyển tập thơ này? Anh (chị) có cảm nghĩ gì vế công việc sưu tầm, biên soạn thơ văn của ông?
Thắng là một sinh viên gan dạ. Trong kí túc xá, dù mọi người có ngủ hết, một mình anh có xem truyện ma hay phim ma giữa đêm khuya thì cũng không sợ.
Một hôm anh nghe nói ở Củ Chi có một nhà sách. Trong đó có một quyển sách ma quái mà ai cũng không dám đọc. Tính tò mò nổi lên, Thắng tót lên chiếc SH và lên đường ra Củ Chi.
Theo lời chỉ dẫn, cuối cùng anh cũng đến nơi, đó là một nhà sách cũ kĩ. Thắng tiến vào trong, chủ cửa tiệm là một ông lão khoảng 80 tuổi, râu tóc bạc phơ, quần áo xộc xệch trông rất tội nghiệp.
Thấy vậy Thắng liền hỏi:
-Ông ơi, cháu nghe nói ở đây có quyển sách ma quái phải không ông? Nếu có thì ông cho cháu thuê nhé?
Ông lão đáp:
- Có đấy, nó nằm ở kệ số 6, hàng thứ 6 và là quyển thứ 6 từ phải sang trái, nhưng quyển này hiếm lắm ông không cho thuê đâu, chỉ bán thôi.
Thắng tiếp lời:
- Thế ông bán bao nhiêu?
Ông lão trả lời:
- Tính rẻ cháu 25 triệu thôi.
Thắng hoảng hốt:
- Sao đắt thế ông?
Ông lão:
- Sách quý mà cháu, nó có từ thời ông cố nội của ông đấy!
Thắng nghĩ:
-Chết rồi , vội quá có đem theo xu nào đâu, mà đã đến đây rồi chả lẽ về tay không?
Cậu liền vội nói:
-Hay là cháu cầm cho ông con SH này nhé! Cháu mới mua lại tháng trước giá 30 triệu.
Ông lão:
-Ờ, vậy cũng được nhưng cháu phải nhớ rằng mỗi ngày chỉ được đọc một trang thôi nhé và đừng bao giờ đọc trang cuối, sẽ chết ngay đó
Thắng nghĩ:
-Tôi mà không chết thì tới phá quán ông nhé ông già”. Và vội vã đón xe về nhà ngay trong ngày.
Tối hôm ấy, chỉ trong vòng nửa tiếng Thắng đã đọc xong quyển sách ma quái ấy. Nhưng khi đọc đến trang cuối cùng thì bất ngờ Thắng rú lên một tiếng rồi lăn ra chết.
Khi cảnh sát đến điều tra khám xác, thì bất ngờ một làn gió thổi qua lật từng trang sách, đến trang cuối cùng thì hỡi ơi: Tái bản lần thứ 69, nhà Xuất bản Kim Đồng, giá bìa: 2.500đ
Phân tích đoạn trích sau để thấy được tính cách nhân vật, hiện thực cuộc sống qua ngòi bút kể chuyện của nhà văn Nguyễn Dữ.
Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực. Trong làng trước có một ngôi đền linh ứng lắm. Cuối đời nhà Hồ, quân Ngô sang lấn cướp, vùng ấy thành một nơi chiến trường. Bộ tướng của Mộc Thạnh có viên Bách hộ họ Thôi, tử trận ở gần đền, từ đấy làm yêu làm quái trong dân gian. Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội sạch sẽ, khấn trời, rồi châm lửa đốt đền. Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, lo sợ thay cho Tử Văn, nhưng chàng vẫn vung tay không cần gì cả.
Đốt đền xong, chàng về nhà, thấy trong mình khó chịu, đầu lảo đảo và bụng run run, rồi nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét. Trong khi sốt, chàng thấy một người khôi ngô, cao lớn, đầu đội mũ trụ đi đến, nói năng và quần áo rất giống người phương Bắc, tự xưng là cư sĩ, đến đòi làm trả lại ngôi đền như cũ và nói:
- Nhà ngươi đã theo nghiệp nho, đọc sách vở của thánh hiền, há không biết cái đức của quỷ thần sao, cớ gì lại dám khinh nhờn, huỷ tượng, đốt đền, khiến cho hương lửa không có chỗ tựa nương, oai linh không có nơi hiển hiện, vậy bảo làm sao bây giờ? Biết điều thì dựng trả ngôi đền như cũ. Nếu không thì, vô cớ huỷ đền Lư Sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ.
Tử Văn mặc kệ, vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên. Người kia tức giận nói:
- Phong đô không xa xôi gì, ta tuy hèn, há lại không đem nổi nhà ngươi đến đấy. Không nghe lời ta thì rồi sẽ biết. Nói rồi phất áo đi. Chiều tối, lại có một ông già, áo vải mũ đen, phong độ nhàn nhã, thủng thỉnh đi vào đến trước thềm, vái chào mà rằng:
- Tôi là Thổ công ở đây, nghe thấy việc làm rất thú của nhà thầy, vậy xin đến để tỏ lời mừng. Tử Văn kinh ngạc nói:
- Thế người đội mũ trụ đến đây ban nãy, chẳng phải là Thổ công đấy ư? Sao mà nhiều thần quá vậy?
Ông già nói:
- Ô, đấy là viên tướng bại trận của Bắc triều, cái hồn bơ vơ ở Nam quốc, tranh chiếm miếu đền của tôi, giả mạo họ tên của tôi, quen dùng chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược, Thượng đế bị nó bưng bít, hạ dân bị nó quấy rầy, phàm những việc hưng yêu tác quái đều tự nó cả, chứ có phải tôi đâu. Xin kể đầu đuôi để nhà thầy nghe: “Tôi làm chức Ngự sử đại phu từ đời vua Lý Nam Đế, vì chết về việc cần vương mà được phong ở đây, giúp dân độ vật đã hơn một nghìn năm nay, khi nào lại làm việc gieo tai rắc vạ để kiếm miếng ăn như tên giặc gian xảo kia đã làm. Gần đây vì tôi thiếu sự đề phòng, bị nó đánh đuổi, nên phải đến nương tựa ở đền Tản Viên đã vài năm nay.”
Tử Văn nói:
- Việc xảy ra đến như thế, sao ngài không kiện ở Diêm vương và tâu lên Thượng đế, lại đi khinh bỏ chức vị, làm một người áo vải nhà quê
Ông già chau mặt nói:
- Rễ ác mọc lan, khó lòng lay động. Tôi đã định thưa kiện, nhưng mà có nhiều nỗi ngăn trở: Những đền miếu gần quanh, vì tham của đút, đều bênh vực cho nó cả. Tôi chỉ giữ được một chút lòng thành, nhưng không làm thế nào để thông đạt được lên, cho nên đành tạm ẩn nhẫn mà ngồi xó một nơi.
Tử Văn nói:
- Hắn có thực là tay hung hãn, có thể gieo vạ cho tôi không?
- Hắn quyết chống chọi với nhà thầy, hiện đã kiện thầy ở Minh ty. Tôi nhân lúc hắn đi vắng, lén đến đây báo cho nhà thầy biết để mà liệu kế, khỏi phải chết một cách oan uổng.
Ông già lại dặn Tử Văn:
- Hễ ở Minh ty có tra hỏi, thầy cứ khai ra những lời nói của tôi. Nếu hắn chối, thầy kêu xin tư giấy đến đền Tản Viên, tôi sẽ khai rõ thì nó phải đớ miệng. Nếu không như thế thì tôi đến vùi lấp trọn đời mà thầy cũng khó lòng thoát nạn
(Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên - Nguyễn Dữ - Sách Ngữ văn 10 tập 2-NXB GDVN 2010)
Câu 1: Đáp án nào không nằm trong các thời kì phát triển của văn học viết Việt Nam?
A. Từ trước thế kỉ X.
B. Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX.
C. Từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945.
D. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX.
Câu 2: Dựa vào lĩnh vực và mục đích giao tiếp, người ta phân biệt thành mấy loại văn bản?
A. 5 loại
B. 6 loại
C. 7 loại
D. 8 loại
Câu 3: “Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy” thuộc thể loại nào?
A. Sử thi
B. Truyện cổ tích
C. Thần thoại
D. Truyền thuyết
Câu 4: “Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy” thể hiện ý nghĩa về:
A. Tình cảm cha con
B. Tình nghĩa vợ chồng
C. Bài học giữ nước
D. Bài học dựng nước
Câu 5: Nhân vật chính trong tác phẩm văn học là:
A. Nhân vật xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm.
B. Nhân vật mà nhà văn yêu mến.
C. Nhân vật giữ vị trí trung tâm trong việc thể hiện chủ đề và tư tưởng của tác phẩm.
D. Nhân vật có uy tín, vị trí và ảnh hưởng đến tất cả các nhân vật khác trong câu chuyện.
Câu 6: Ý nào sau đây không đúng khi nói về văn học viết của nước ta?
A. Là sáng tác của trí thức, được ghi lại bằng chữ viết, mang đậm dấu ấn sáng tạo của cá nhân.
B. Có tính tập thể và được lưu truyền với các sinh hoạt trong đời sống cộng đồng.
C. Hệ thống chữ viết phong phú, gồm cả chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ.
D. Thể loại đa dạng như truyện kí, tiểu thuyết chương hồi, tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, kịch nói, kịch thơ…
Câu 7: Đăm Săn chiến đấu với Mtao -Mxây vì:
A. Không muốn mất vợ.
B. Muốn trả thù.
C. Muốn giữ hạnh phúc gia đình.
D. Vì danh dự, hạnh phúc và sự thịnh vượng cho cộng đồng.
Câu 8: Nhân vật Đăm Săn được miêu tả chủ yếu bằng thủ pháp nghệ thuật nào?
A. So sánh, phóng đại.
B. So sánh, nhân hoá.
C. Ẩn dụ, so sánh.
D. Ẩn dụ, phóng đại.
Câu 9: Điền vào chố trống: “Văn học Việt Nam có một…….”.
A. Sức sống dẻo dai, mãnh liệt.
B. Sức sống mạnh mẽ, bền bỉ.
C. Sức sống dẻo dai, bền bỉ.
D. Sức sống dai dẳng, bền bỉ.
Câu 10: Đáp án nào không có yếu tố kì ảo trong truyện Tấm Cám?
A. Chim vàng Anh
B. Cây Cau
C. Khung cửi
D. Quả thị
Câu 11: Sử thi Ô-đi-xê là tác phẩm nổi tiếng của nước nào?
A. Hy Lạp.
B. Ấn Độ.
C. Ai Cập.
D. Italia.
Câu 12: Đáp án nào đúng với ý nghĩa nội dung đoạn trích U-lit-xơ trở về?
A. Khắc họa vẻ đẹp tâm hồn của Pê-nê-lốp.
B. Kể về cuộc hành trình của Uy-lit-xơ.
C. Khắc họa vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ của Uy-lit-xơ và Pê-nê-lốp.
D. Khắc họa tài trí thông minh của Uy-lít -xơ.
Câu 13: Truyện Tấm Cám thuộc loại cổ tích gì?
A. Truyện cổ tích về các loài vật
B. Truyện cổ tích sinh hoạt
C. Truyện cổ tích Việt Nam.
D. Truyện cổ tích thần kì
Câu 14: Tiếng khóc của Tấm ở phần đầu truyện nói lên điều gì về ý thức phản kháng của nhân vật?
A. Yếu ớt, kém cỏi.
B. Yếu đuối, thụ động.
C. Âm thầm, bền bỉ.
D. Mạnh mẽ, quyết liệt
Câu 15: Qua những lần hóa thân của Tấm, nhân dân muốn nói điều gì?
A. Tấm là người lương thiện và được thần giúp đỡ nên không thể chết.
B. Tấm không thể rời xa nhà vua nên đã hiển linh để báo cho nhà vua biết sự có mặt của mình.
C. Cái thiện luôn tìm mọi cách để chiến đấu và diệt trừ cái ác.
D. Sự tích cực và chủ động của Tấm trong cuộc đấu tranh giành và giữ hạnh phúc của mình.
Câu 16: Đáp án nào nêu đúng khái niệm “Tự sự”?
A. Là kể chuyện- phương thức dùng ngôn ngữ kể chuyện trình bày một chuỗi sự việc, từ sự việc này tới sự việc kia, cuối cùng dẫn tới một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa.
B. Là loại văn nhằm giúp người đọc, người nghe hình dung những đặc điểm, tính chất nổi bật của sự vật, sự việc, con người, phong cảnh,…làm cho những cái đó như hiện lên trước mắt người đọc, người nghe.
Câu 17: Sự việc tiêu biểu là:
A. Cái xảy ra được nhận thức có ranh giới rõ ràng, phân biệt với những cái xảy ra khác.
B. Sự việc được diễn tả bằng lời nói, cử chỉ, hành động của nhân vật trong quan hệ với nhân vật khác.
C. Sự việc quan trọng góp phần hình thành cốt truyện. Mỗi sự việc có thể có nhiều chi tiết.
Câu 18: Hình ảnh “ngọc trai – giếng nước”; trong “Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy” có ý nghĩa gì ?
A. Ngợi ca tình yêu chung thủy, son sắt của Mị Châu và Trọng Thủy.
B. Ngợi ca sự hi sinh cao cả vì tình yêu.
C. Minh oan cho tấm lòng trong sáng của Mị Châu, hóa giải tội lỗi cho Trọng Thủy.
Câu 19: Một trong những sai lầm của An Dương Vương dẫn đến việc mất nước là?
A. Thương con
B. Chủ quan
C. Thiếu binh lính
D. Dùng sai người
Câu 20: Hãy sắp xếp các sự kiện dưới đây theo trình tự thời gian:
1. Triệu Đà tấn công, An Dương Vương bỏ chạy, chém chết Mị Châu rồi theo rùa vàng xuống biển.
2. An Dương Vương xây thành Cổ Loa, cứ đắp đến đâu lại lở đến đấy.
3. Rùa vàng xuất hiện giúp vua xây thành, chế tạo nỏ thần.
4. An Dương Vương nhận lời cầu hòa của Triệu Đà, cho Trọng Thủy lấy Mị Châu.
A. (2-3-4-1)
B. (2-4-1-3)
C. (2-3-1-4)
D. (2-1-4-3
Cuộc đời gió bụi hơn 10 năm trời của Nguyễn Du bắt đầu từ năm nào?
A. 1781
B. 1783
C. 1785
D. 1789
Trích diễm thi tập là tuyển tập tác phẩm văn chương thuộc thể loại nào?
A. Thơ
B. Truyện thơ
C. Phú
D. Văn trữ tình
Trong quyển sách NGƯỜI DÁM CHO ĐI, tác giả có viết "“Giá trị thực của bạn được quyết định bởi những giá trị mà bạn cho đi chứ không phải giá trị mà bạn nhận được”.
Hãy chia sẻ suy nghĩ và trải nghiệm của em về nội dung câu nói trên.