Tham Khảo :
Theo Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định:
“Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng”.
“Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức”. “Hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo và quản lý tổ chức của tôn giáo”.
Còn khái niệm về Mê tín, dị đoan thì phụ thuộc vào cách nhìn nhận của từng người, từng tôn giáo khác nhau. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu về vấn đề này cho rằng mê tín dị đoan là tin vào những điều mơ hồ, không thấy, không hiểu, tin một cách mù quáng, mê muội, không phù hợp với lẽ tự nhiên làm hại đến đời sống vật chất và tinh thần, thậm chí dẫn đến hậu quả xấu cho cá nhân, gia đình cộng đồng.
I. Sự giống, khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng
1. Sự giống nhau
Một là, những người có tôn giáo (Phật giáo, Công giáo, Tin lành,…) và có sinh hoạt tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Mẫu,…) đều tin vào những điều mà tôn giáo đó và các loại hình tín ngưỡng đó truyền dạy, mặc dù họ không nhìn thấy, không được nghe bằng chính giọng nói của các đấng linh thiêng đó.
Hai là, giữa tôn giáo và tín ngưỡng đều hướng con người đến tính thiện; có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa con người với nhau, giữa cá nhân với xã hội, với cộng đồng, giải quyết tốt các mối quan hệ trong gia đình trên cơ sở giáo lý tôn giáo và noi theo tấm gương sáng của những đấng, bậc được tôn thờ trong các tôn giáo, các loại hình tín ngưỡng đó.
2. Sự khác nhau
Một là, nếu tôn giáo phải có đủ 4 yếu tố cấu thành, đó là: giáo chủ, giáo lý, giáo luật và tín đồ, thì các loại hình tín ngưỡng dân gian không có 4 yếu tố đó. Trong đó: Giáo chủ là người sáng lập ra tôn giáo đó như: Thích ca Mâu ni sáng lập ra đạo Phật, đức chúa Giê su sáng lập ra đạo Công giáo, nhà tiên tri Muhammad sáng lập ra đạo Hồi… Giáo lý là những lời dạy của đức Giáo chủ đối với tín đồ. Giáo luật là những điều luật do Giáo hội soạn thảo và ban hành để duy trì nếp sống đạo trong tôn giáo đó; tín đồ là những người tự nguyện theo tôn giáo đó.
Hai là, nếu đối với tín đồ tôn giáo, một người, trong một thời điểm cụ thể, chỉ có thể có một tôn giáo còn đối với tín ngưỡng thì một người có thể đồng thời sinh hoạt ở nhiều tín ngưỡng khác nhau. Chẳng hạn, một người vừa có tín ngưỡng thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ nhưng ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng họ còn ra đình, đền, miếu để lễ thần, lễ thánh, lễ mẫu, hay ra chùa lễ Phật…
Ba là, nếu các tôn giáo đều có hệ thống kinh điển đầy đủ và rất đồ sộ như: những bộ Kinh, Luật, Luận của Phật giáo; hay là bộ “Kinh thánh” và “Giáo luật” của đạo Công giáo, là bộ kinh “Qur’an” của Hồi giáo… thì các cuốn “Gia phả” của các dòng họ và những bài hát chầu văn, những bài văn tế, bài cúng trong hoạt động tín ngưỡng không phải là kinh điển.
Bốn là, nếu các tôn giáo đều có các giáo sĩ hành đạo chuyên nghiệp, theo nghề suốt đời như: các tăng sĩ của Phật giáo, các Linh mục của đạo Công giáo, các Mục Sư của đạo Tin lành… đều là những người làm việc chuyên nghiệp và hành đạo suốt đời (có thể có một vài ngoại lệ, nhưng số này chiếm tỷ lệ rất ít), thì trong các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian không có ai làm việc này một cách chuyên nghiệp, chỉ khi nào có những hoạt động tín ngưỡng thì những ông Đám của làng mới ra làm việc (ai có khả năng, điều kiện, uy tín thì được làng mời), sau đó lại trở về nhà làm những công việc khác, và như vậy không phải là người làm việc thờ Thánh chuyên nghiệp.
II. Sự giống, khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan
1. Sự giống nhau
Một là, giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan đều tin vào những điều mà mắt không trông rõ, tai mình không nghe thấy đối với đấng thiêng liêng mà mình thờ cúng.
Hai là, những tín điều của tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với cộng đồng, điều chỉnh hành vi ứng xử trong gia đình trên cơ sở những tín điều mà người ta tin theo của những đấng bậc và những đối tượng tôn thờ trong các loại hình tín ngưỡng và trong mê tín dị đoan.
2. Sự khác nhau
Một là, về mục đích: nếu sinh hoạt tín ngưỡng có mục đích là thể hiện nhu cầu của đời sống tinh thần, đời sống tâm linh thì người hoạt động mê tín dị đoan lấy mục đích kiếm tiền, trục lợi là chính; người hoạt động trong lĩnh vực mê tín dị đoan chỉ làm việc với khách hàng khi có tiền.
Hai là, nếu trong lĩnh vực sinh hoạt tín ngưỡng không có ai làm việc chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, thì những người hoạt động mê tín dị đoan hầu hết là hoạt động bán chuyên nghiệp hoặc chuyên nghiệp. Nhiều người sống và gây dựng cơ nghiệp bằng nghề này.
Ba là, nếu sinh hoạt tín ngưỡng có cơ sở thờ tự riêng (đình, đền, miếu, từ đường,…) thì những người hoạt động mê tín dị đoan thường phải lợi dụng một không gian nào đó của những cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian để hành nghề hoặc hành nghề tại tư gia.
Bốn là, nếu những người có sinh hoạt tín ngưỡng thường sinh hoạt định kỳ tại cơ sở thờ tự (ngày mùng Một, ngày Rằm Âm lịch hàng tháng ra đình, đền làm lễ…; hàng năm đến ngày giỗ bố mẹ ông bà, phải làm giỗ,…) thì những người hoạt động mê tín dị đoan hoạt động không định kỳ, vì người đi xem bói chỉ gặp thầy bói khi trong nhà có việc bất thường xảy ra (mất của, ốm đau, tai nạn…).
Năm là, nếu sinh hoạt tín ngưỡng được pháp luật bảo vệ, được xã hội thừa nhận thì hoạt động mê tín dị đoan bị xã hội lên án, không đồng tình, thậm chí là những hoạt động vi phạm pháp luật.
Tham khảo
1. Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu các khái niệm về tín ngưỡng, tôn giáo, mê tín dị đoan.
Theo Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định:
“Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng”. “Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thờ cúng tổ tiên, các biểu tượng linh thiêng; tưởng niệm và tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng; các lễ nghi dân gian tiêu biểu cho những giá trị lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội”.
“Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức”. “Hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo và quản lý tổ chức của tôn giáo”.
Còn khái niệm về Mê tín, dị đoan thì phụ thuộc vào cách nhìn nhận của từng người, từng tôn giáo khác nhau. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu về vấn đề này cho rằng mê tín dị đoan là tin vào những điều mơ hồ, không thấy, không hiểu, tin một cách mù quáng, mê muội, không phù hợp với lẽ tự nhiên làm hại đến đời sống vật chất và tinh thần, thậm chí dẫn đến hậu quả xấu cho cá nhân, gia đình cộng đồng.
2. Sự giống, khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng
2.1. Sự giống nhau
Một là, những người có tôn giáo (Phật giáo, Công giáo, Tin lành,…) và có sinh hoạt tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Mẫu,…) đều tin vào những điều mà tôn giáo đó và các loại hình tín ngưỡng đó truyền dạy, mặc dù họ không nhìn thấy, không được nghe bằng chính giọng nói của các đấng linh thiêng đó.
Hai là, giữa tôn giáo và tín ngưỡng đều hướng con người đến tính thiện; có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa con người với nhau, giữa cá nhân với xã hội, với cộng đồng, giải quyết tốt các mối quan hệ trong gia đình trên cơ sở giáo lý tôn giáo và noi theo tấm gương sáng của những đấng, bậc được tôn thờ trong các tôn giáo, các loại hình tín ngưỡng đó.
2.2. Sự khác nhau
Một là, nếu tôn giáo phải có đủ 4 yếu tố cấu thành, đó là: giáo chủ, giáo lý, giáo luật và tín đồ, thì các loại hình tín ngưỡng dân gian không có 4 yếu tố đó. Trong đó: Giáo chủ là người sáng lập ra tôn giáo đó như: Thích ca Mâu ni sáng lập ra đạo Phật, đức chúa Giê su sáng lập ra đạo Công giáo, nhà tiên tri Muhammad sáng lập ra đạo Hồi… Giáo lý là những lời dạy của đức Giáo chủ đối với tín đồ. Giáo luật là những điều luật do Giáo hội soạn thảo và ban hành để duy trì nếp sống đạo trong tôn giáo đó; tín đồ là những người tự nguyện theo tôn giáo đó.
Hai là, nếu đối với tín đồ tôn giáo, một người, trong một thời điểm cụ thể, chỉ có thể có một tôn giáo còn đối với tín ngưỡng thì một người có thể đồng thời sinh hoạt ở nhiều tín ngưỡng khác nhau. Chẳng hạn, một người vừa có tín ngưỡng thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ nhưng ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng họ còn ra đình, đền, miếu để lễ thần, lễ thánh, lễ mẫu, hay ra chùa lễ Phật…
Ba là, nếu các tôn giáo đều có hệ thống kinh điển đầy đủ và rất đồ sộ như: những bộ Kinh, Luật, Luận của Phật giáo; hay là bộ “Kinh thánh” và “Giáo luật” của đạo Công giáo, là bộ kinh “Qur’an” của Hồi giáo… thì các cuốn “Gia phả” của các dòng họ và những bài hát chầu văn, những bài văn tế, bài cúng trong hoạt động tín ngưỡng không phải là kinh điển.
Bốn là, nếu các tôn giáo đều có các giáo sĩ hành đạo chuyên nghiệp, theo nghề suốt đời như: các tăng sĩ của Phật giáo, các Linh mục của đạo Công giáo, các Mục Sư của đạo Tin lành… đều là những người làm việc chuyên nghiệp và hành đạo suốt đời (có thể có một vài ngoại lệ, nhưng số này chiếm tỷ lệ rất ít), thì trong các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian không có ai làm việc này một cách chuyên nghiệp, chỉ khi nào có những hoạt động tín ngưỡng thì những ông Đám của làng mới ra làm việc (ai có khả năng, điều kiện, uy tín thì được làng mời), sau đó lại trở về nhà làm những công việc khác, và như vậy không phải là người làm việc thờ Thánh chuyên nghiệp.
3. Sự giống, khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan
3.1. Sự giống nhau
Một là, giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan đều tin vào những điều mà mắt không trông rõ, tai mình không nghe thấy đối với đấng thiêng liêng mà mình thờ cúng.
Hai là, những tín điều của tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với cộng đồng, điều chỉnh hành vi ứng xử trong gia đình trên cơ sở những tín điều mà người ta tin theo của những đấng bậc và những đối tượng tôn thờ trong các loại hình tín ngưỡng và trong mê tín dị đoan.
3.2. Sự khác nhau
Một là, về mục đích: nếu sinh hoạt tín ngưỡng có mục đích là thể hiện nhu cầu của đời sống tinh thần, đời sống tâm linh thì người hoạt động mê tín dị đoan lấy mục đích kiếm tiền, trục lợi là chính; người hoạt động trong lĩnh vực mê tín dị đoan chỉ làm việc với khách hàng khi có tiền.
Hai là, nếu trong lĩnh vực sinh hoạt tín ngưỡng không có ai làm việc chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, thì những người hoạt động mê tín dị đoan hầu hết là hoạt động bán chuyên nghiệp hoặc chuyên nghiệp. Nhiều người sống và gây dựng cơ nghiệp bằng nghề này.
Ba là, nếu sinh hoạt tín ngưỡng có cơ sở thờ tự riêng (đình, đền, miếu, từ đường,…) thì những người hoạt động mê tín dị đoan thường phải lợi dụng một không gian nào đó của những cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian để hành nghề hoặc hành nghề tại tư gia.
Bốn là, nếu những người có sinh hoạt tín ngưỡng thường sinh hoạt định kỳ tại cơ sở thờ tự (ngày mùng Một, ngày Rằm Âm lịch hàng tháng ra đình, đền làm lễ…; hàng năm đến ngày giỗ bố mẹ ông bà, phải làm giỗ,…) thì những người hoạt động mê tín dị đoan hoạt động không định kỳ, vì người đi xem bói chỉ gặp thầy bói khi trong nhà có việc bất thường xảy ra (mất của, ốm đau, tai nạn…).
Năm là, nếu sinh hoạt tín ngưỡng được pháp luật bảo vệ, được xã hội thừa nhận thì hoạt động mê tín dị đoan bị xã hội lên án, không đồng tình, thậm chí là những hoạt động vi phạm pháp luật.
4. Mối quan hệ giữa tôn giáo, tín ngưỡng và mê tín dị đoan.
Như trên đã trình bày, giữa tôn giáo và tín ngưỡng; giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan có một số điểm khác biệt nhưng cũng có một số điểm tương đồng, có những mối quan hệ nhất định.
Một trong các yếu tố để phục vụ việc truyền đạo là các nhà truyền giáo của các tôn giáo phải dựa vào tín ngưỡng bản địa để tuyên truyền và thể hiện đức tin tôn giáo của mình. Về phía cộng đồng có đời sống tín ngưỡng cũng học hỏi được một số điểm phù hợp của một số tôn giáo về nghi thức hành lễ, về phẩm phục, về cách bài trí nơi thờ tự.…
Đối với hoạt động mê tín dị đoan, do không có cơ sở thờ tự chính thức, những người hành nghề thường mượn cơ sở thờ tự của tôn giáo (chủ yếu là của Phật giáo) và cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian để hành nghề. Cũng do hành nghề tại các cơ sở thờ tự tôn giáo và tín ngưỡng dân gian mà trong một mức độ nào đó “độ tin cậy” của họ đối với khách hàng có thể được nâng cao, họ sẽ dễ dàng tiếp cận được với số đông khách hàng, và như vậy, nguồn lợi mà họ thu được sẽ nhiều hơn.
Tóm lại, tôn giáo, tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan có những điểm giống và khác nhau nhưng chúng có mối quan hệ qua lại với nhau. Mối quan hệ này được tạo ra bởi những người trực tiếp hoạt động trên những lĩnh vực đó. Phân biệt được sự giống nhau, khác nhau và mối quan hệ giữa chúng để có cách ứng xử cho phù hợp là điều vô cùng cần thiết, cụ thể: Trong công tác công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, việc phân biệt biệt rõ giữa tín ngưỡng, tôn giáo và mê tín dị đoan sẽ góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý; từ đó đưa ra được những chính sách phù hợp phát huy mặt tích cực và khắc phục mặt tiêu cực của của tôn giáo, tín ngưỡng. Đối với quần chúng nhân dân nói chung: biết trân trọng, bảo vệ, phát huy những giá trị thiêng liêng, bản chất tốt đẹp, nhân văn của tôn giáo và tín ngưỡng dân gian; nhận diện rõ các hoạt động mê tín dị đoan; nâng cao tinh thần cảnh giác, không tin, không nghe theo lời bói toán vô căn cứ; kịp thời phát hiện, đấu tranh, xử lý, bài trừ mê tín, dị đoan và những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến mọi mặt đời sống xã hội, xây dựng đời sống tâm linh lành mạnh, thuần túy./.
Tham khảo:
Theo Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định:
“Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng”.
“Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức”. “Hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo và quản lý tổ chức của tôn giáo”.
Còn khái niệm về Mê tín, dị đoan thì phụ thuộc vào cách nhìn nhận của từng người, từng tôn giáo khác nhau. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu về vấn đề này cho rằng mê tín dị đoan là tin vào những điều mơ hồ, không thấy, không hiểu, tin một cách mù quáng, mê muội, không phù hợp với lẽ tự nhiên làm hại đến đời sống vật chất và tinh thần, thậm chí dẫn đến hậu quả xấu cho cá nhân, gia đình cộng đồng.
I. Sự giống, khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng
1. Sự giống nhau
Một là, những người có tôn giáo (Phật giáo, Công giáo, Tin lành,…) và có sinh hoạt tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Mẫu,…) đều tin vào những điều mà tôn giáo đó và các loại hình tín ngưỡng đó truyền dạy, mặc dù họ không nhìn thấy, không được nghe bằng chính giọng nói của các đấng linh thiêng đó.
Hai là, giữa tôn giáo và tín ngưỡng đều hướng con người đến tính thiện; có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa con người với nhau, giữa cá nhân với xã hội, với cộng đồng, giải quyết tốt các mối quan hệ trong gia đình trên cơ sở giáo lý tôn giáo và noi theo tấm gương sáng của những đấng, bậc được tôn thờ trong các tôn giáo, các loại hình tín ngưỡng đó.
2. Sự khác nhau
Một là, nếu tôn giáo phải có đủ 4 yếu tố cấu thành, đó là: giáo chủ, giáo lý, giáo luật và tín đồ, thì các loại hình tín ngưỡng dân gian không có 4 yếu tố đó. Trong đó: Giáo chủ là người sáng lập ra tôn giáo đó như: Thích ca Mâu ni sáng lập ra đạo Phật, đức chúa Giê su sáng lập ra đạo Công giáo, nhà tiên tri Muhammad sáng lập ra đạo Hồi… Giáo lý là những lời dạy của đức Giáo chủ đối với tín đồ. Giáo luật là những điều luật do Giáo hội soạn thảo và ban hành để duy trì nếp sống đạo trong tôn giáo đó; tín đồ là những người tự nguyện theo tôn giáo đó.
Hai là, nếu đối với tín đồ tôn giáo, một người, trong một thời điểm cụ thể, chỉ có thể có một tôn giáo còn đối với tín ngưỡng thì một người có thể đồng thời sinh hoạt ở nhiều tín ngưỡng khác nhau. Chẳng hạn, một người vừa có tín ngưỡng thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ nhưng ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng họ còn ra đình, đền, miếu để lễ thần, lễ thánh, lễ mẫu, hay ra chùa lễ Phật…
Ba là, nếu các tôn giáo đều có hệ thống kinh điển đầy đủ và rất đồ sộ như: những bộ Kinh, Luật, Luận của Phật giáo; hay là bộ “Kinh thánh” và “Giáo luật” của đạo Công giáo, là bộ kinh “Qur’an” của Hồi giáo… thì các cuốn “Gia phả” của các dòng họ và những bài hát chầu văn, những bài văn tế, bài cúng trong hoạt động tín ngưỡng không phải là kinh điển.
Bốn là, nếu các tôn giáo đều có các giáo sĩ hành đạo chuyên nghiệp, theo nghề suốt đời như: các tăng sĩ của Phật giáo, các Linh mục của đạo Công giáo, các Mục Sư của đạo Tin lành… đều là những người làm việc chuyên nghiệp và hành đạo suốt đời (có thể có một vài ngoại lệ, nhưng số này chiếm tỷ lệ rất ít), thì trong các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian không có ai làm việc này một cách chuyên nghiệp, chỉ khi nào có những hoạt động tín ngưỡng thì những ông Đám của làng mới ra làm việc (ai có khả năng, điều kiện, uy tín thì được làng mời), sau đó lại trở về nhà làm những công việc khác, và như vậy không phải là người làm việc thờ Thánh chuyên nghiệp.
II. Sự giống, khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan
1. Sự giống nhau
Một là, giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan đều tin vào những điều mà mắt không trông rõ, tai mình không nghe thấy đối với đấng thiêng liêng mà mình thờ cúng.
Hai là, những tín điều của tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với cộng đồng, điều chỉnh hành vi ứng xử trong gia đình trên cơ sở những tín điều mà người ta tin theo của những đấng bậc và những đối tượng tôn thờ trong các loại hình tín ngưỡng và trong mê tín dị đoan.
2. Sự khác nhau
Một là, về mục đích: nếu sinh hoạt tín ngưỡng có mục đích là thể hiện nhu cầu của đời sống tinh thần, đời sống tâm linh thì người hoạt động mê tín dị đoan lấy mục đích kiếm tiền, trục lợi là chính; người hoạt động trong lĩnh vực mê tín dị đoan chỉ làm việc với khách hàng khi có tiền.
Hai là, nếu trong lĩnh vực sinh hoạt tín ngưỡng không có ai làm việc chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, thì những người hoạt động mê tín dị đoan hầu hết là hoạt động bán chuyên nghiệp hoặc chuyên nghiệp. Nhiều người sống và gây dựng cơ nghiệp bằng nghề này.
Ba là, nếu sinh hoạt tín ngưỡng có cơ sở thờ tự riêng (đình, đền, miếu, từ đường,…) thì những người hoạt động mê tín dị đoan thường phải lợi dụng một không gian nào đó của những cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian để hành nghề hoặc hành nghề tại tư gia.
Bốn là, nếu những người có sinh hoạt tín ngưỡng thường sinh hoạt định kỳ tại cơ sở thờ tự (ngày mùng Một, ngày Rằm Âm lịch hàng tháng ra đình, đền làm lễ…; hàng năm đến ngày giỗ bố mẹ ông bà, phải làm giỗ,…) thì những người hoạt động mê tín dị đoan hoạt động không định kỳ, vì người đi xem bói chỉ gặp thầy bói khi trong nhà có việc bất thường xảy ra (mất của, ốm đau, tai nạn…).
Năm là, nếu sinh hoạt tín ngưỡng được pháp luật bảo vệ, được xã hội thừa nhận thì hoạt động mê tín dị đoan bị xã hội lên án, không đồng tình, thậm chí là những hoạt động vi phạm pháp luật.
1. Tín Ngưỡng: Khái Niệm: Tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin, thực hành liên quan đến các thế lực siêu nhiên hoặc các thực thể thần linh mà một cá nhân hoặc nhóm người theo đuổi. Nó thường không yêu cầu tổ chức hoặc cấu trúc nghiêm ngặt như tôn giáo, mà thường mang tính cá nhân hoặc cộng đồng. Ví Dụ: Tín ngưỡng dân gian như thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các vị thần địa phương, hoặc tin vào các yếu tố tâm linh như sự bảo vệ của các linh hồn tổ tiên. 2. Tôn Giáo: Khái Niệm: Tôn giáo là hệ thống niềm tin và thực hành liên quan đến một hoặc nhiều thần linh, thường đi kèm với các giáo lý, nghi lễ, tổ chức, và cộng đồng tín đồ. Tôn giáo có cấu trúc rõ ràng, với các quy định, nghi lễ và các quan điểm về thế giới và con người. Ví Dụ: Các tôn giáo lớn như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo. 3. Mê Tín Dị Đoan: Khái Niệm: Mê tín dị đoan là những niềm tin và hành vi dựa trên các yếu tố siêu nhiên không có cơ sở khoa học hoặc lý thuyết vững chắc, thường dẫn đến hành động theo các tín điều không có căn cứ thực tiễn. Những niềm tin này thường được xem là sai lầm hoặc không hợp lý từ góc độ khoa học. Ví Dụ: Tin rằng nếu bạn đi qua một cây cầu vào ngày thứ ba thì sẽ gặp xui xẻo, hoặc tin vào sự ảnh hưởng của việc gặp phải gà đen. So Sánh: Cấu Trúc và Tổ Chức: Tín Ngưỡng: Có thể không có cấu trúc tổ chức rõ ràng, thường mang tính cá nhân hoặc cộng đồng. Tôn Giáo: Thường có cấu trúc tổ chức rõ ràng, các giáo lý và nghi lễ được định hình cụ thể. Mê Tín Dị Đoan: Không có cấu trúc tổ chức; thường là những niềm tin đơn lẻ hoặc hành vi không có cơ sở lý thuyết. Căn Cứ và Chấp Nhận: Tín Ngưỡng: Thường dựa trên truyền thống và niềm tin cá nhân hoặc cộng đồng. Tôn Giáo: Dựa trên các giáo lý, kinh điển, và truyền thống đã được hệ thống hóa. Mê Tín Dị Đoan: Thường dựa trên niềm tin cá nhân không có cơ sở khoa học hoặc logic. Tính Chất: Tín Ngưỡng: Có thể mang tính cá nhân hoặc tập thể, không nhất thiết phải tuân theo một hệ thống nghi lễ cụ thể. Tôn Giáo: Thường có hệ thống nghi lễ, giáo lý, và thường yêu cầu tuân theo các quy tắc cụ thể. Mê Tín Dị Đoan: Thường không có cơ sở lý thuyết rõ ràng và có thể dẫn đến các hành vi hoặc quan điểm thiếu cơ sở thực tiễn. Hy vọng điều này giúp bạn hiểu rõ hơn về sự khác biệt giữa các khái niệm này