phân tích đoạn thơ sau :
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một bếp lửa chứa niềm tin dai dẳng
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nòi xôi gạo mới sẻ chung vui
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa.
Tham khảo:
Bằng Việt là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Một trong những tác phẩm nổi bật của ông là “Bếp lửa”. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà cũng như tình bà cháu. Đồng thời tác giả còn thể hiện lòng kính, yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà hay cũng chính là đối với quê hương, gia đình, đất nước. Đến với ba khổ thơ cuối, nhà thơ đã nói lên những suy ngẫm chiêm nghiệm về cuộc đời của bà cũng như hình tượng bếp lửa và nỗi nhớ khắc khoải, khôn nguôi về người bà của người cháu xa quê.
Bếp lửa được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành Luật ở nước ngoài. Bài thơ được đưa vào tập “Hương cây - Bếp lửa” (1968). Đây là tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.
Hình ảnh bếp lửa luôn gắn bó với những kỉ niệm được sống bên bà:
“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Hình ảnh bếp lửa được kết tinh trong “ngọn lửa”, đó là ngọn lửa của tình yêu thương mà bà dành cho cháu. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ “một ngọn lửa” kết hợp với các hình ảnh “lòng bà luôn ủ sẵn”, “ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng” để nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp bà dành cho cháu. Bà chính là người thắp lửa, giữ lửa và truyền lửa đến cháu - thế hệ trẻ tương lai.
Cuộc đời bà cũng giống như biết bao người phụ nữ Việt Nam, phải chịu nhiều vất vả - “lận đận nắng mưa”. Suốt cả một đời bà tần tảo làm lụng lo cho con cho cháu:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!”
Bằng Việt một lần nữa lại vận dụng triệt để biện pháp tu từ điệp ngữ “nhóm” cùng với các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cao. Bà đã nhóm một “bếp lửa ấp iu nồng đượm” chứa đựng tình cảm ấm áp của bà. Bà còn nhóm cả “niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi” - đó là bài học về lòng yêu thương, đồng cảm mà bà đã dạy cho cháu. Không chỉ vậy, bà còn nhóm “nồi xôi gạo mới sẻ chia chung vui” - bà muốn dạy cháu biết sẻ chia. Cuối cùng, bà đã nhóm dậy “những tâm tình tuổi nhỏ” có nghĩa là góp phần bồi đắp tâm hồn cháu. Từ hình ảnh bếp lửa được bà nhen nhóm mà dạy cho cháu biết bao bài học ý nghĩa trong cuộc sống. Câu thơ cuối vang lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa”. Đó giống như một tiếng reo vui, người cháu như phát hiện ra điều kỳ diệu giữa cuộc sống đời thường. Đến bây giờ, khi nhớ về bà, cháu đã thấm nhuần được tình yêu thương và đức hi sinh của bà.
Để rồi đến khi trưởng thành, người cháu đã bộc lộ những nỗi niềm suy tư:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?”
Cho dù khi lớn lên, người cháu có được đi đến nhiều nơi, chứng kiến hình ảnh “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà” với niềm vui, say mê về cuộc sống hiện đại. Nhưng vẫn không quên đi những kỉ niệm khó khăn bên người bà với “bếp lửa” chứa chan tình cảm vô bờ của bà. Kết thúc bài thơ là câu hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” bộc lộ một niềm tin dai dẳng, nỗi nhớ luôn thường trực trong lòng người cháu. Cũng là lời nhắc nhở bản thân phải ghi nhớ về những năm tháng được sống bên bà.
Như vậy, ba khổ thơ cuối của bài “Bếp lửa” chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc. Tình cảm gia đình là cơ sở để cho nền tảng của tình yêu quê hương, đất nước.