Cậu lên trên mạng mk cho link
lên mạng mà chép
Bố cục:
- Phần 1 (từ đầu đến "tức lắm"): giới thiệu về một anh đang muốn khoe áo mới.
- Phần 2 (còn lại): hai người thích khoe của gặp nhau.
Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 (trang 127 sgk ngữ văn 6 tập 1)
- Tính khoe của là phô trương cho người ta thấy mình giàu có, nhiều tiền của, mình hơn người.
- Anh đi tìm lợn khoe của trong tình huống đang chuẩn bị cưới mà con lợn làm cỗ bị sổng mất, anh ta khoe ngay cả khi đang vội
- Đáng lí anh ta nên tả đặc điểm, chủng loại để người được hỏi biết trả lời thì anh ta lại hỏi “lợn cưới”- đưa ra thông tin thừa, không cần thiết.
Câu 2 (trang 127 sgk ngữ văn 6 tập 1)
Anh có áo mới thích khoe của tới mức lố bịch:
- Mặc áo mới đứng hóng ở cửa đợi người đi qua để khoe
- Khi thấy có anh chàng tìm lợn, thấy anh kia không hỏi tới cái áo thì liền giơ vạt áo ra khoe, nhấn mạnh “Từ lúc tôi mặc cái áo mới này”.
- Anh ta ranh mãnh khi bỏ chữ “cưới” trong “lợn cưới” mà anh chàng tìm lợn khoe khoang.
- Yếu tố thừa trong câu “từ lúc tôi mặc cái áo mới này” vừa thừa lại không rõ ràng.
Câu 3 (trang 127 sgk ngữ văn 6 tập 1)
Các yếu tố gây cười:
- Hai anh chàng có tính khoe của gặp nhau
- Cái áo, con lợn những của cải chẳng to tát gì cố khoe cho kì được.
- Một anh thì đứng kiên trì quyết khoe cho kì được, một anh đang chạy tất tưởi, lo lắng cũng không quên khoe
- Cả hai anh chàng đều cố tình khoe cho kì được, họ trở nên lố bịch trong lời nói
Câu 4 (trang 127 sgk ngữ văn 6 tập 1)
- Truyện Lợn cưới, áo mới phê phán tính khoe của, khoe khoang của con người.
- Sự khoe khoang quá đà khiến nhân vật trở thành những kẻ lố bịch, kì quặc trong đời sống.
Tóm tắt:
Hai anh chàng hay khoe của gặp nhau. Một anh đang vội tìm con lợn bị sổng nhưng vẫn kịp khoe “lợn cưới” (lợn để làm cỗ cưới), còn anh kia thì bình tĩnh khoe luôn chiếc áo mới mặc từ sáng.
Đọc hiểu văn bản
Câu 1 (trang 127 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):
- Tính khoe của là thói thích tỏ ra, phô trương cho người ta thấy là mình giàu có, mình hơn người ta.
- Anh đi tìm lợn khoe khi “tất tưởi chạy đến”, rất vội vàng tìm lợn bị mất.
- Lẽ ra nên hỏi về đặc điểm của con lợn vừa bị sổng mất. Ấy mà anh ta lại hỏi “lợn cưới” không hề thích hợp và là thông tin thừa với người được hỏi.
Câu 2 (trang 127 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):
- Anh có áo mới thích khoe của đến mức lố bịch, đứng ở cửa cả buổi chỉ đợi người ta khen, khi người ta hỏi về con lợn lại giơ vạt áo ra khoe.
- Điệu bộ của anh ta chỉ nhấn mạnh cái áo mới không hề phù hợp để trả lời.
- Câu trả lời của anh ta thừa yếu tố về cái áo, chỉ cần nói “không thấy” là đủ.
Câu 3 (trang 127 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):
Yếu tố gây cười: Tính khoe khoang của hai anh chàng đến mức lố bịch, mà những thứ để khoe cũng chẳng quá to tát đến mức đem khoe như thế. Một bên thì đứng đợi cả buổi chỉ để khoe, bên kia dù có tất tưởi vẫn không quên khoe. Lời nói của hai anh đề thừa thông tin không cần thiết.
Câu 4 (trang 127 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):
Ý nghĩa truyện: Chế giễu, phê phán những người hay khoe của, một tính xấu phổ biến trong xã hội.
Câu 1: Em hiểu thế nào về tính khoe của? Anh đi tìm lợn khoe của trong tình huống như thế nào? Lẽ ra, anh phải hỏi ra sao? Từ cưới (lợn cưới) có phải là từ thích hợp để chỉ con lợn bị sổng và là thông tin cần thiết cho người được hỏi không?
- Tính khoe của là thói thích tỏ ra, trưng ra cho người ta biết là mình giàu.
- Anh đi tìm lợn khoe của trong lúc nhà có việc lớn: làm đám cưới, lợn để làm cỗ lại bị sổng mất. Anh khoe của ngay cả trong lúc bận rộn nhất.
- Lẽ ra, anh chỉ cần hỏi “Bác có thấy con lợn của tôi chạy qua đây không?”
- Từ cưới không phải là từ thích hợp để nói về con lượn bị sổng chuồng và không phải là thông tin cần thiết.7
Câu 2: Anh có áo mới thích khoe của đến mức nào? Điệu bộ của anh ta khi trả lời có phù hợp không? Hãy phân tích yếu tố thừa trong câu trả lời của anh ta.
- Anh có áo mới thích khoe của đến mức “đứng hóng ở cửa, có ai đi qua người ta khen”. Anh chàng rất nôn nóng muốn được khoe áo mới. Anh ta đứng từ sáng đến chiều chả thấy ai hỏi nên anh ta tức lắm.
Điệu bộ của anh ta khi trả lời không phù hợp bởi vì người ta đang hỏi về con lợn, hướng con lợn chạy thì anh lại khoe áo “giơ ngay vạt áo ra”.
- Trong câu trả lời, lẽ ra anh chỉ cần nói: “Tôi không thấy con lợn nào chạy qua đây cả” thì anh lại nói “Từ lúc tôi mặc cái áo mới này, tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả!”. Dùng điệu bộ “giơ vạt áo” ra chưa đủ, anh còn dùng cả ngôn ngữ để khoe. Đấy chính là yếu tố thừa trong câu trả lời
Câu 3: Đọc truyện “Lợn cưới, áo mới” vì sao em lại cười?
- Hai nhân vật trong truyện đều là những người thích khoe của mà khoe một cách lố bịch.
- Tạo ra được một cuộc ganh đua khoe của: một anh khoe cái áo mới mà đứng đợi từ sáng cuối cùng lại bị anh có lợn khoe trước. Nhưng anh áo mới cũng không chịu thua, phải khoe ngay trong khi anh kia đang tìm lợn.
Câu 4: Ý nghĩa của truyện “Lợn cưới, áo mới”:
Ý nghĩa mua vui: Truyện tạo ra tiếng cười vui vẻ, giúp người dân lao động thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng, mệt mỏi.
- Ý nghĩa phê phán: Truyện châm biếm, phê phán nhẹ nhàng thói khoe của, một thói xấu thường gặp và đáng cười trong xã hội
Chúc bạn học tốt
Soạn bài: Lợn cưới, áo mới
(Truyện cười)
Tóm tắt:
Hai anh chàng hay khoe của gặp nhau. Một anh đang vội tìm con lợn bị sổng nhưng vẫn kịp khoe “lợn cưới” (lợn để làm cỗ cưới), còn anh kia thì bình tĩnh khoe luôn chiếc áo mới mặc từ sáng.
Đọc hiểu văn bản
Câu 1 (trang 127 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):
- Tính khoe của là thói thích tỏ ra, phô trương cho người ta thấy là mình giàu có, mình hơn người ta.
- Anh đi tìm lợn khoe khi “tất tưởi chạy đến”, rất vội vàng tìm lợn bị mất.
- Lẽ ra nên hỏi về đặc điểm của con lợn vừa bị sổng mất. Ấy mà anh ta lại hỏi “lợn cưới” không hề thích hợp và là thông tin thừa với người được hỏi.
Câu 2 (trang 127 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):
- Anh có áo mới thích khoe của đến mức lố bịch, đứng ở cửa cả buổi chỉ đợi người ta khen, khi người ta hỏi về con lợn lại giơ vạt áo ra khoe.
- Điệu bộ của anh ta chỉ nhấn mạnh cái áo mới không hề phù hợp để trả lời.
- Câu trả lời của anh ta thừa yếu tố về cái áo, chỉ cần nói “không thấy” là đủ.
Câu 3 (trang 127 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):
Yếu tố gây cười: Tính khoe khoang của hai anh chàng đến mức lố bịch, mà những thứ để khoe cũng chẳng quá to tát đến mức đem khoe như thế. Một bên thì đứng đợi cả buổi chỉ để khoe, bên kia dù có tất tưởi vẫn không quên khoe. Lời nói của hai anh đề thừa thông tin không cần thiết.
Tính khoe của là thói thích tỏ ra, phô trương cho người ta thấy là mình giàu có, mình hơn người ta.
- Anh đi tìm lợn khoe khi “tất tưởi chạy đến”, rất vội vàng tìm lợn bị mất.
- Lẽ ra nên hỏi về đặc điểm của con lợn vừa bị sổng mất. Ấy mà anh ta lại hỏi “lợn cưới” không hề thích hợp và là thông tin thừa với người được hỏi.
Câu 2 (trang 127 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):
- Anh có áo mới thích khoe của đến mức lố bịch, đứng ở cửa cả buổi chỉ đợi người ta khen, khi người ta hỏi về con lợn lại giơ vạt áo ra khoe.
- Điệu bộ của anh ta chỉ nhấn mạnh cái áo mới không hề phù hợp để trả lời.
- Câu trả lời của anh ta thừa yếu tố về cái áo, chỉ cần nói “không thấy” là đủ.
Câu 3 (trang 127 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):
Yếu tố gây cười: Tính khoe khoang của hai anh chàng đến mức lố bịch, mà những thứ để khoe cũng chẳng quá to tát đến mức đem khoe như thế. Một bên thì đứng đợi cả buổi chỉ để khoe, bên kia dù có tất tưởi vẫn không quên khoe. Lời nói của hai anh đề thừa thông tin không cần thiết.
Câu 4 (trang 127 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):
Ý nghĩa truyện: Chế giễu, phê phán những người hay khoe của, một tính xấu phổ biến trong xã hội.