Văn mẫu lớp 8

Hỏi đáp

Đề bài : Hãy phân tích bài thơ "Nam quốc sơn hà" để cho thấy đó là bài ca yêu nước hùng tráng chống xâm lăng, mang ý nghĩa lịch sử như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của nước ta ? Đề bài : Trong "Chiếu dời đô", Lý Công Uẩn có viết : " Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này (Đại La) là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời". Hãy bình luận ? Đề bài : Em hãy phân tích và nói lên cảm nghĩ của mình khi đọc " Thiên đô chiếu" của Lý Công Uẩn ? Đề bài : Phân tích nhân vật chị Dậu qua tác phẩm "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố Đề bài : Phân tích nhân vật chị Dậu trong cảnh " Tức nước vỡ bờ" Đề bài : Tóm tắt tác phẩm "Tắt đèn" - Ngô Tất Tố Đề bài : Phân tích chương " Trong lòng mẹ" để cho thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng. Đề bài : Tóm tắt tác phẩm " Những ngày thơ ấu" của Nguyên Hồng Đề bài : Cảm nhận của em về bé Hồng qua chương "Trong lòng mẹ" - "Những ngày thơ ấu" của Nguyên Hồng Đề bài : Phân tích đoạn trích “Trong lòng mẹ” của Nguyên Hồng. Đề bài : Truyện "Tôi đi học" của Thanh Tịnh là những trang văn xuôi đầy chất thơ. Nêu cảm nhận của em về chất thơ ấy ? Đề bài : Phân tích tâm trạng của nhân vật "tôi" trong buổi tựu trường qua truyện ngắn "Tôi đi học" của nhà văn Thanh Tịnh Đề bài : Kể về kỉ niệm ngày đầu tiên đi học. Đề bài : Phát biểu cảm nghĩ của em về những kỉ niệm sâu sắc buổi tựu trường đầu tiên của nhân vật Đề bài : Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam Đề bài : Thuyết minh về chiếc bút bi Đề bài : Thuyết minh về cây lúa nước. Đề bài : Thuyết minh về con trâu Đề bài :Thuyết minh về bánh chưng ngày Tết Đề bài : Thuyết minh về trò chơi dân gian Đề bài : Thuyết minh về một loài hoa Đề bài : Phân tích bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương Đề bài : Phân tích bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh Đề bài : Giới thiệu về phở hà nội Đề bài : Cảm nhận về bài thơ "Rằm tháng Giêng" - Hồ Chí Minh Đề bài : Cảm nghĩ về tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn Đề bài : Cảm nhận của em sau khi đọc truyện "Cô bé bán diêm" - An-déc-xen Đề bài : Cảm nhận về tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” của O. Hen-ry Đề bài : Cảm nhận về bài thơ Đề bài : Phân tích bài thơ Đề bài : Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân Đề bài : Kể về giấc mơ gặp lại người thân đã xa cách lâu ngày.
CHUỐI là nhất
Xem chi tiết
Linh Phương
21 tháng 10 2016 lúc 20:58

Ý nghĩa đúng đắn và tích cực của quan niệm này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc phân phối trong xã hội ta ngày nay: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng. Tất cả những người trong độ tuổi lao động phải làm việc. Mỗi người cống hiến cho gia đình, xã hội theo năng lực của mình. Nguyên tắc phân phối công bằng sẽ thúc đẩy nền kinh tế không ngừng phát triển, đem đến cho xã hội những thành quả tốt đẹp. Sự công bằng và hợp lí sẽ trả lại giá trị cao quý đích thực cho người lao động, phá vỡ cơ sở của mọi biểu hiện tiêu cực như lười biếng, ỷ lại, tham nhũng…

 Trong tình hình đất nước ta đang trên đà đổi mới, ý nghĩa câu tục ngữ trên đây càng được khẳng định là đúng đắn và khoa học. Chúng ta tin tưởng rằng, với sự đóng góp tích cực của mỗi cá nhân vào sự nghiệp dựng xây đất nước, bảo vệ nguyên tắc công bằng xã hội, chẳng bao lâu nữa, đất nước ta sẽ thực sự giàu mạnh, đủ sức sánh vai với các cường quốc trên thế giới, như ước nguyện tha thiết của Bác Hồ kính yêu.Chúc bạn học tốt!
Thảo Phương
21 tháng 10 2016 lúc 21:05
 

Câu tục ngữ trên đây vừa là quan niệm đúng đắn của nhân dân ta về cống hiến và hưởng thụ vừa là lời cảnh cáo phê phán những kẻ bóc lột, ăn bám. Qua câu tục ngữ, người xưa còn khẳng định lao động là tiêu chuẩn, là thước đo phẩm giá con người. Kẻ nào không yêu lao động, vô trách nhiệm với bản thân, với cuộc đời thì không xứng đáng làm người.

Ý nghĩa đúng đắn và tích cực của quan niệm này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc phân phối trong xã hội ta ngày nay: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng. Tất cả những người trong độ tuổi lao động phải làm việc. Mỗi người cống hiến cho gia đình, xã hội theo năng lực của mình. Nguyên tắc phân phối công bằng sẽ thúc đẩy nền kinh tế không ngừng phát triển, đem đến cho xã hội những thành quả tốt đẹp. Sự công bằng và hợp lí sẽ trả lại giá trị cao quý đích thực cho người lao động, phá vỡ cơ sở của mọi biểu hiện tiêu cực như lười biếng, ỷ lại, tham nhũng…

 Trong tình hình đất nước ta đang trên đà đổi mới, ý nghĩa câu tục ngữ trên đây càng được khẳng định là đúng đắn và khoa học. Chúng ta tin tưởng rằng, với sự đóng góp tích cực của mỗi cá nhân vào sự nghiệp dựng xây đất nước, bảo vệ nguyên tắc công bằng xã hội, chẳng bao lâu nữa, đất nước ta sẽ thực sự giàu mạnh, đủ sức sánh vai với các cường quốc trên thế giới, như ước nguyện tha thiết của Bác Hồ kính yêu.
Lê Công Chức
Xem chi tiết
Linh Phương
8 tháng 12 2016 lúc 13:52

Hình ảnh Giôn-xi đang nhìn ra cửa sổ nhìn chiếc lá được cụ Bơ Men vẽ Cụ sống cùng Xiu và Giôn-xi trong một căn hộ thuê ở gần công viên Oa- sinh- tơn. Bốn chục năm nay cụ mơ ước vẽ một kiệt tác nhưng chưa thực hiện được, cụ thường ngồi làm mẫu vẽ cho các họa sĩ khác để kiếm tiền. Cuộc sống tuy nghèo nhưng cụ luôn giữ phẩm chất trong sạch, hoàn cảnh không thể làm cụ yếu mềm tinh thần. Chả thế mà cụ “ hay chế nhạo cay độc sự mềm yếu của bất kì ai”. Cụ Bơ-men luôn sống giàu tình thương, quan tâm tới mọi người. Cụ muốn những người xung quanh mình phải mạnh mẽ và cứng rắn. Chúng ta cảm động khi biết cụ tự coi mình có nhiệm vụ bảo vệ Xiu và Giôn-xi ở phòng vẽ tầng trên. Mùa đông năm ấy, Giôn-xi bị bệnh sưng phổi, cô tuyệt vọng, đếm từng chiếc lá còn lại trên cây thường xuân bám vào bức tường gạch đối diện cửa sổ, chờ khi nào chiếc lá cuối cùng rụng thì cô cũng lìa đời. Biết được ý nghĩ kì quặc ấy , mắt cụ Bơ- men đỏ ngầu , “ nước mắt chảy ròng ròng”. Đó là những giọt nước mắt xót xa, đầy thương cảm. Cụ “hét lên”, “quát to” rồi sau đó là lời dịu dàng, xót xa: “Chà tội nghiệp cô bé Giôn-xi”. Thật cảm động khi nghe những lời mà cụ nói với Xiu khi theo cô lên phòng vẽ mà Giôn- xi đang nằm: “ Trời đây không phải là chỗ cho một con người tốt như cô Giôn- xi nằm. Một ngày kia, tôi sẽ vẽ một tác phâm kiẹt xuất và tất cả chúng ta sẽ đi khỏi nơi này.” Vẫn là ước mơ đó nhưng nó đã gắn liền với lòng yêu thương sâu sắc. Cụ muốn sáng tạo để đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mọi người. Cụ Bơ-men con người có đức hi sinh cao cả. Nhà văn đã tập trung miêu tả khoảnh khắc căng thẳng của cụ và Xiu: “ Họ sợ sệt ngó ra ngoài cử sổ, nhìn cây thường xuân. Rồi họ nhìn nhau một lát, chẳng nói năng gì.” Dường như trong phút giây im lặng ấy, họ đã đoán được điều gì sẽ xảy đến. Là một nhân vật chính nhưng cụ chỉ xuất hiện ở phần đầu và giữa truyện, những hành đông tiếp theo của cụ chỉ được hiện lên qua lời kể của Xiu. Sau khi ngôi làm mẫu cho Xiu vẽ, hình ảnh cụ Bơ-men bỗng biến mất. Người đọc dần lãng quên sự hiện diện của cụ mà thay vào đó chú ý tới diễn biến căng thẳng xoay quanh Xiu, Giôn- xi và chiếc lá cuối cùng. Không ai đoán biết được cụ đã làm gì trong khoảng thời gian ấy . Phải đến cuối truyện, Giôn-xi và người đọc mới hiểu rõ hành động cao cả của cụ. Chắc chắn khi đứng dưới mưa tuyết để vẽ chiếc lá lên bờ tường gạch, con người già nua ấy giá buốt lắm, hơn ai hết cụ biết rõ tính mạng mình đang gặp nguy hiểm. Nhưng lòng thương yêu Giôn-xi, ý muốn dùng cây bút và bảng màu để đem lại niềm tin, nghị lực sống cho cô dã giúp cụ vươt lên tất cả. Chiếc lá mà cụ vẽ sống động và rất thật: “ở gần cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng với rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa”, khiến cho hai cô họa sĩ của chúng ta cũng không hề nghi nghờ. Và chiếc lá ấy đã gieo vào lòng cô gái trẻ tội nghiệp hơi ấm của niềm tin, nghị lưc, kéo cô từ vực thẳm của bệnh tật vươn lên sống tiếp. Có thể nói chiếc lá là cả tấm lòng của cụ Bơ-men, là minh chứng cho sư hi sinh đến quên mình để đem lại sự sống cho người khác. Cụ đã làm được một điều mà bốn mươi năm qua hằng ao ước: vẽ một kiệt tác. Và có lẽ khi một con người nằm xuống cũng là lúc một tâm hồn dược đánh thức, sẽ tiếp tục cống hiến cho đời những sáng tác nghệ thuật. Câu chuyện kết thúc bằng lời kể của Xiu về cái đêm mà cụ Bơ-men vẽ chiếc lá mà không để cho Giôn- xi có phản ứng gì thêm n hư để lại dư âm trong lòng người đọc. Nhà văn O Hen-ri đã rất khéo léo khi xây dựng nghệ thuật đảo ngược tình huống hai lần. Lần đảo ngược thứ nhất, Giôn-xi như đang tiến dần đến cái chết bỗng khỏe lại, yêu đời và chiến thắng bệnh tật. Lần đảo ngược thứ hai liền tiếp sau đó, cụ Bơ-men từ môt người khỏe mạnh đến cuối truyện mắc bệnh và qua đời. Một con người đi từ sự sống đến cái chết, một con người người từ cái chết tìm lại sự sống. Tất cả đã được nhà văn kể lại thật tự nhiên và cảm động. Truyện ngắn làm cho chúng ta không khỏi rung cảm trước tình yêu thương cao cả giữa những người nghèo khổ. Câu chuyện còn giàu tính nhân văn , ẩn chứa bức thông điệp trong cuộc sống: dù gặp phải hoàn cảnh khó khăn nhất cũng đừng bao giờ bi quan, tuyệt vọng, hãy mạnh mẽ tin tưởng vào ngày mai tươi sáng, ta sẽ vượt qua tất cả.

Trịnh Thị Như Quỳnh
22 tháng 10 2016 lúc 9:57

bn hỏi đề hay hỏi những bài văn????

Linh Phương
23 tháng 10 2016 lúc 11:05

Bài gì bạn????????

Đồng Thanh Tuấn
Xem chi tiết
Linh Phương
22 tháng 10 2016 lúc 21:21

Bác Bơ-men cầm chắc trong tay chiếc bút. Bác đưa bút rất thành thạo và điêu luyện. Kinh nghiệm bao năm trong nghề thể hiện trong từng nét vẽ. Không lâu sau, bác đã “sửa lại” được chiếc lá của Xiu. Chiếc lá thường xuân cuối cùng đó nằm im trên tường. Nó có màu xanh, hơi úa vàng. Màu sắc và đường nét trông rất thật, khó có thể nhận ra là nó đã được vẽ lên. Bác Bơ-men đã dùng hết kinh nghiệm, tình thương yêu để vẽ lên chiếc lá đó. Chỉ sửa lại thôi nên không mất nhiều thời gian lắm, nhất là dưới bàn tay của bác Bơ-men. Hai người xong việc cũng là lúc những hạt mưa bắt đầu rơi lộp bộp vào mái tôn căn gác xếp của hai cô gái. Trời rét buốt, tưởng chừng như ở ngoài một lát nữa thôi là hai người có thể chết cóng. Sáng hôm sau, Giôn-xi nhờ Xiu kéo rèm lên. — Thật kì diệu! — Giôn-xi sửng sốt và kêu lên. Sau một đêm mưa gió khủng khiếp, thật không ngờ vẫn còn một chiếc lá bé nhỏ vẫn kiên cường bám chặt lấy cành. Nhìn chiếc lá, Giôn-xi bắt đầu yêu đời trở lại, lấy lại niềm tin và mơ ước, đến cuối mùa đông đó, cô đã khỏe trở lại. Xiu và bác Bơ-men đều rất vui. Vào một ngày đầu xuân, khi cái rét cắt :la cắt thịt đã qua đi, từng tia nắng ấm áp chiếu vào căn gác xếp nhỏ — nơi ba người họa sĩ đang ngồi ăn mừng. Trên bàn ăn toàn những món đơn giản, nhưng vậy đã là quá dủ và thịnh soạn so với mọi ngày rồi. Thưởng thức món thịt, Giôn-xi đưa mắt nhìn ra cửa sổ. Ba người đang nói chuyện vui vẻ, bỗng nhiên Giôn-xi giật mình: — ơ cái lá! Nó vẫn như vậy từ ngày em nhìn thấy, trong khi bao chồi non đã ra mà nó vẫn ờ đó, không hề lay động khi gió thổi! Thật kì lạ! Xiu và bác Bơ-men đưa mắt nhìn nhau. Sau một phút tần ngần, Giôn-xi như đã hiểu ra mọi chuyện. Một giọt nước mắt khẽ lăn trên má, rồi cô nức nở, cò như đang vỡ òa trong hạnh phúc. Cô ôm chầm lấy Xiu và bác Bơ-men: — Ôi, là hai người vê đó ư? Cháu thật không biết nói gì! Cháu yêu hai người nhiều lắm! Cảm ơn bác!... Cảm ơn chị Xiu! Hai người mang lại sự sống cho cháu... Từng tia nắng khẽ chiếu qua cửa sổ. Không gian căn gác xép yên lặng và ấm áp. Mùa xuân mới đã đến, năm mới đã về, hứa hẹn mang đến thử thách mới, niềm vui mới mà cả ba người họa sĩ sẽ sát cánh bên nhau để vượt qua...
Bạn tham khảo nha!

Hemy Pham
Xem chi tiết
Nhók Bướq Bỉnh
27 tháng 10 2016 lúc 20:51

Tôi là con trai lão Hạc. Sau tám năm ròng đi đồn điền cao su, nay tôi mới có dịp trở về quê hương, thăm người cha già kính yêu và thăm cậu Vàng yêu quý.

Cũng giống như bao người xa quê khác, tôi vô cùng hồi hộp, háo hức và xúc động khi được trở về quê nhà, gặp lại người cha đáng kính sau bao năm xa cách.

Ngần ấy năm trời, tôi không viết thư cho cha nên không biết cuộc sống của cha đã ra sao rồi và trong túi của tôi đã dành dụm được chút tiền gọi là để biếu cha và để về quê cưới vợ. Cảnh vật quê hương vẫn thân thuộc như ngày nào. Trong tâm trí tôi vẫn nhớ như in từng đường thôn ngõ xóm, từng dòng sông, ngọn đồi nhưng dường như cảnh vật dần dần tiều tụy, xơ xác hơn so với ngày tôi bỏ làng ra đi. Bỗng nhiên, một cảm giác lạnh lẽo bao trùm khắp không gian khi tôi đặt chân đến mảnh vườn của cha. Cây cỏ thì khô héo, cây cối xung quanh tiêu điều, trơ trụi như rất lâu rồi chưa có người đặt chân đến chăm sóc. Ngôi nhà bằng rơm của cha tôi thì siêu vẹo, tưởng chừng như sắp đổ. Tôi vội vàng ngó vào trong nhà nhưng chẳng thấy cha tôi đâu. Tôi gọi lớn: “Cha ơi, cha ơi con đã về rồi đây cha ơi, cha ơi!...” nhưng mãi không có một tiếng trả lời. Tôi bỗng đâm ra lo sợ. Bất chợt, có một người hàng xóm đi qua, đã nhận ra tôi là con trai lão Hạc liền nói: “ơ, cháu đã về rồi à, nhưng bây giờ về thì đã quá muộn rồi, cha cháu đã mất cách đây năm năm trước và mảnh vườn cũng đã bán cho ông giáo rồi, cháu thử sang hỏi ông giáo mà xem”. Tôi sững sờ không tin vào tai mình, quên cả cảm ơn bác hàng xóm rồi chạy một mạch tới nhà ông giáo

. Vừa đến nơi, ông giáo đã nhận ra tôi ngay, ông “à”, lên một tiếng rồi mời tôi vào nhà. Ngay lập tức tôi vào thẳng vấn đề chính:

— Ông giáo ơi, ông giáo cho cháu biết chuyện gì đã xảy ra với cha cháu, à và còn về mảnh vườn nữa, chuyện cha cháu bán mảnh vườn cho ông giáo là như thế nào vậy?

— Cậu cứ từ từ đã, chuyện còn dài lắm, trước tiên tôi dẫn cậu đến mộ của cha cậu trước đã. Ông giáo từ từ đáp lại. Đến mộ của cha, ông giáo và tôi thắp vài nén hương khấn cha tôi và ông giáo nghẹn ngào nói:

— Lão Hạc ơi, cuối cùng con trai lão cũng đã trở về rồi đây, đã đến lúc tôi thực hiện lời hứa là trao trả mảnh vườn mà lão đã hi sinh cuộc đời để giữ lại cho con. Bây giờ thì lão có thể yên nghỉ dưới suối vàng rồi chứ?

Nghe đến đây, chưa rõ chuyện gì xảy ra nhưng tôi vô cùng xót xa, ân hận nói:

— Cha ơi, con quả là đứa con bất hiếu phải không cha, trong lúc cha cần có một bờ vai để nương tựa nhất thì con lại không có ở bên. Con chỉ mải mê lo kiếm tiền để hai cha con có thể sông một cuộc sống đầy đủ hơn sau này, con thật có lỗi quá - Tôi tự dằn vặt bản thân mình.

Tôi vừa dứt lời thì ông giáo vỗ vai an ủi tôi rồi cả hai cùng trở về nhà ông giáo để nói chuyện tiếp. Ông giáo rót nước mời tôi uống rồi từ từ kể lại toàn bộ câu chuyện cho tôi nghe. Từ lúc mùa màng đói kém, cha tôi day dứt về chuyện bán cậu Vàng đến lúc ân hận, xót xa đã nỡ lừa một con chó. Cha tôi đã phải tự giải thoát cuộc đời bằng cách ăn bả chó xin được của Binh Tư để không tiêu vào số tiền dành dụm cho tôi và giữ lại mảnh vườn cho tôi. Cha tôi đã nhờ ông giáo viết văn tự bán vườn để nhằm giữ nguyên mảnh vườn khi tôi trở về.

Nghe xong câu chuyện mà ông giáo kể, tôi không thể nào kiềm chê được nỗi xúc động, hai dòng nước mắt cứ thế chảy ra. Tôi ân hận lắm, xót xa lắm, chỉ vì tôi mà cha đã nhịn đói, chỉ vì tôi mà cha đã phải tự tìm đến cái chết thảm khốc để giải thoát bản thân. Đầu óc tôi choáng váng, tôi cảm thấy mình thật đáng chết, mình là người con bất hiếu, việc gì mà cha phải hi sinh cuộc đời cho một người con như tôi chứ. Trong lòng tôi tràn đầy cảm giác tội lỗi, ân hận. Tôi thương cha vô cùng. Thực ra ngày ấy phần vì nông nổi sau khi người yêu đi lấy chồng do tôi nghèo khó không có đủ tiền cưới vợ, phần vì thấy cha đã già mà phải làm việc vất vả tôi mới bỏ làng ra đi để kiếm chút ít tiền vừa để có chút vốn liếng lập nghiệp về sau, vừa để cho cha an hưởng lúc về già, ai ngờ sự việc lại xảy ra như thế này. Tôi chỉ nghĩ vùng đất ấy là một vùng đất đầy hứa hẹn, có thể kiếm được nhiều tiền để sau này về biếu cha rồi lập nghiệp và cưới vợ. Ông giáo liền đưa cho tôi xem văn tự mảnh vườn và nói: “Giờ đây, văn tự này chẳng còn ý nghĩa gì nữa” rồi ông giáo liền xé nó đi và đưa trả lại tôi cả mấy chục đồng bạc mà cha tôi nhờ ông giáo cất giữ. Trước khi ra về, tôi có đưa cho ông giáo mấy đồng bạc nhưng ông giáo nhất quyết không nhận, ông bảo không có lí do gì để nhận số tiền ấy cả.

Tôi ra về, trong lòng thầm nghĩ sẽ trân trọng mảnh vườn cha tôi để lại suốt đời, tôi sẽ không bao giờ bán đi một tấc đất nào vì nó là mồ hôi, công sức và cả cuộc sống của cha để lại cho tôi. Tôi sẽ lập nghiệp ở chính nơi đây, sẽ cưới vợ, sẽ làm lụng chăm chỉ và sẽ luôn tiếp tục hướng về tương lai tốt đẹp để cha có thể mỉm cười dưới suối vàng. “Cha ơi, cha hãy luôn theo dõi con, phù hộ cho con, cha nhé!”.
 

TRINH MINH ANH
21 tháng 10 2017 lúc 8:27

Vì không có tiền để cưới người con gái mình yêu nên tôi - phẫn chí bỏ làng ra đi, vào tận Nam Kì làm phu ở đồn điền cao su đất đỏ. Biển biệt suốt mấy năm trời, tích cóp được ít tiền, nay tôi mới trở về quê.

Về tới đầu làng, tôi thấy cảnh xóm làng tuy vẫn còn xơ xác, tiêu điều vì trận đói khủng khiếp vừa qua nhưng khí thế cách mạng của bà con nông dân thì sội nổi lắm. Tiếng trống, tiếng mõ vang rền. Các kho thóc của phát xít Nhật bị phá tung, cán bộ Việt Minh chia thóc cho dân chúng. Từng đoàn, trai tráng kéo nhau đi rầm rập trên con đê chạy dọc bờ sông, miệng hô to những khẩu hiệu đả đảo Pháp, Nhật, ủng hộ chính quyền cách mạng. Dẫn đầu đoàn người là lá cờ đỏ sao vàng phấp phới.

Quả là một cảnh tượng tôi chưa từng được chứng kiến trong đời. Tim tôi đập rộn lên khi đặt chân về đến rặng tre đầu ngõ. Khu vườn quen thuộc đây rồi! Ba gian nhà tranh cũ kĩ, xiêu vẹo, im lìm đứng giữa vườn cây xơ xác. Lối vào nhà và miếng sân đất um tùm cỏ dại.

Tôi cất tiếng gọi cha, không một lời đáp lại. Nhấc chiếc cửa liếp ra, tôi ngó vào trong: mạng nhện chăng đầy; nắng chiếu qua lỗ thủng trên mái rạ, in trên mặt đất gồ ghề những vệt sáng không đều. Không khí lạnh lẽo và mùi ẩm mốc xông lên khiến anh bất chợt rùng mình. Tôi sang nhà ông giáo để hỏi thăm về người cha già yếu của mình.

Ông giáo Tri, người hàng xóm thân cận pha nước mời tôi uống rồi khuyên tôi hãy bình tĩnh nghe ông kể về những ngày cuối đời của người cha tội nghiệp:

-Từ hôm anh đi, ông cụ buồn lắm! Sớm tối chỉ cỏ con chó Vàng quanh quẩn bên ông cụ mà thôi. Cả tổng đói, cả làng đói. ông cụ đứt bữa thường xuyên, Thôi thì kiếm được cái gì ăn cái nấy cho qua ngày. Thỉnh thoảng sang bên tôi chơi, ông cụ cứ tự trách mình vì nghèo mà không cưới được vợ cho con, để con phải lưu lạc tha phương kiếm sống. Một buổi chiều, ông cụ nhờ tôi trông coi hộ mảnh vườn ba sào để sau này anh về thì có sẵn đất đấy mà làm ăn. Ông cụ còn gửi tôi giữ giùm ba mươi đồng bạc dành dụm từ việc bán hoa lợi thu được từ mảnh vườn suốt mấy năm qua vả tiền bán con chó Vàng. Khốn khổ! Nhắc đến chuyện phải buộc lòng bán nó vì không nuôi nổi nữa, ông cụ cứ khóc vì ân hận là đã lừa nó. Ông cụ bảo thà chết chứ không bán mảnh vườn của mẹ anh để lại cho anh.

Tôi có ngờ đâu ông cụ lại chọn cái chết, ông cụ xỉn Binh Tư ít bả chó. Lúc thấy ồn ào, tôi chạy vội sang thì ông cụ đang quằn quại. Chẳng thể làm thế nào cứu được nữa! Số tiền ông cụ gửi, tôi chỉ một ít lo ma chay, chôn cất ông cụ; số còn lại, tôi vẫn giữ đây chờ anh về. Lát nữa, tôi sẽ dẫn anh ra thăm mộ ông cụ. Ôi Chao! Trên đời này, thật hiếm có người cha nào thương con như thế!

Tôi ngồi lặng đi, hai hàng nước mắt lăn dài trên má. Ông giáo lấy văn tự nhà đất cùng túi tiền cất ở trên bàn thờ xuống, đưa cho anh. Tôi run run đưa tay ra đón lấy rổi nghẹn ngào thốt lên hai tiếng: “Cha ơi!”.

Thắp mấy nén nhang cắm lên nấm mộ chưa xanh cỏ, tôi thổn thức tâm sự với người cha mà tôi hằng yêu quý và thương nhớ: “Cha ơi! Con là đứa con bất hiếu, không đỡ đần được gì cho cha lúc tuổi già sức yếu! Con mong cha tha thứ cho con! Con lầm tưởng là bỏ làng ra đi thì sẽ dễ dàng kiếm được tiền, nhưng ở đâu dân mình cũng cơ cực, cha ạ! Trong những ngày làm phu cạo mủ cao su ở đồn điển của lũ chủ Tây ở đất Đổng Nai, con đã được cán bộ cách mạng giác ngộ, chỉ cho con đường đúng nên theo, về làng lần này, con những mong được gặp lại cha, để cha mừng cho con đã trưởng thành. Nào ngờ buổi chia tay cũng là vĩnh biệt!”.

Tôi chỉ ở nhà được mấy hôm. Tôi dọn dẹp nhà cửa, vườn tược gọn gàng rồi nhờ ông giáo tiếp tục trông nom. Trước lúc ra đi, tôi chào và cảm ơn khắp lượt bà con hàng xóm đã giúp đỡ cha tôi lúc tôi vắng nhà. Ông giáo tiễn tôi ra tới dầu làng, vắt chiếc tay nải đựng quần áo lên vai, tôi rảo bước về phía nhà ga. Mặt trời đã lên cao, tiếng còi tàu giục giã ngân dài trong gió.

" Cha...."

Bạn tham khảo ^0^

Long Thiên Minh Nguyệt
28 tháng 10 2018 lúc 10:01
Jh` Đæeb týh Ờ xñd JhỬ` fîej ĞẠh Blîej. DẸ týh dảt sỗd, abỈ ae fẠh ab`ale týh tb!h tb"h t#lej d$eb %&'e eb( dî dẸ Đ) a* tb+t f&ej !-a ej f+d dỗht/! Đ&>a. 0b?ej týh a1 tb= s*ej 39` %îl eb`!, ejî: 2!` ejî: f`: f+t Ử` #`l Ử`ab8l. B;h Đñ, týh tb7d :6! d-t ej&'h ale j8h a4ej fîej. 5b&ej #;h ebî 6e ả:tb8ab e<ej 2!8, ebî týh fẠh ejbNl, 34 añ 8e %&'e 8e a@` Đh aOej Abýej Đ" thMea&ỗh xhe. Cýh 3Ie fej ab! Đ9ej,#;h ale j8h ebî ả: Đh a&ỗh ale ýej Hbñ fK. Cýhsheb HbGe abK, #` sỜ AK jhả: Đh Hb! Đ;e ĐhMe a`l s!. 5jî: týh Đh, ab` týh !;e f+e,jh' ĐF: abỈ ae d-t dæeb ab` aý 2!`eb d-t dæeb eh xñ %&'e a4ej fîd 7! Ạe%ỗh ale abñ %îej týh h=! ab`. 5b&ej ae h=t fîd s`l ĐF:, jhả: AK #;h, dæeb tbæ Đ)a7d thMe a"` ej&'h t`. 0bỈ ae h=t tb7d eñh f6e #IejE L0b` h, ale :6! ab` f+d,b): a* Đ>h ale. ^;h d-t ejî: Ah` ale sP fẠh t#Ờ %M 6e ab`_. Cýh #` 3h, ( fẠh HbK`s`! ebỬej !;e Đ`!, a4ej a9a %î HbhMe d!-eQ/: fî s`! dả: e]d t#'h x` a8ab, týh fẠh Đ<t abFe t#Ờ %M d$eb Đảt 2!6 b&ej. 5jî: týh Đh, fîej ĞẠh Blîej abỈ fH xH %îh aba ejýh ebî #8ab e8t, Đe s, %îbýd e`: t#Ờ %M, a$eb t&>ej ả: %Ge Abýej añ jæ tb`: ĐSh dî 3&'ej eb& aîej t;h tîebe. C#6e Đ&'ej fîej, %îh Đ1` t#Y ale ej ej8a. 5b&ej ĐhM! 2!`e t#Zej ebảt t#lejtbFd tFd týh jh' ĐF: fî abẠ: eb`eb %M HbK` ejýh ebî tbFe tb&ej, eh ej&'h ab`jhî e!` Đ`ej bIej Đ6d ejñej t#ýej, dlej ab' ej&'h ale Đ) HbGe abK &ỗa Đh %æĐ`! !;e, a9a ebZa. C&Ờej abRej eb& sP Đ&>a ýd t#7d, ej+d ebæe fẠh a8h bæeb$eb d8! d" d=e tb&ej %Ge f!ýe Ab+a jbh Đ/d sF! t#lej thd , eb&ejD-tAbýej AbK aý 2!Ạeb, b+t bh! `l t#4d f6e ejýh ebî f8 ab/t t#-h. Xbýej d-t ñejej&'h, aF: #`! t#lej %&'e x x8a, a( dZa t4d !d. D$eb Đảt 3&ỗh abFe týh AbýAb*a, #Ạe e1t Đh %æ Đñh Ab8t, e+ej eñej. Cýh tbl8ej ejẠa ebh6e, fả: b=t s1a a* j+ejjZh tb/t tl, b`h th=ejE L0b` h[_. Ğ8H fẠh týh %Ge fî Abýej jh`e tWeb f<ej %î K bhVd.D-t fîe jhñ ebẸ tbl$ej 2!` Abh=e s*ej f&ej týh ỗe fẠeb. DỜ tl`ej a8eb a@` ebîCýh sỬej s', f<ej Đ1ej Abýej eñh e6e f'hE t#&ỗa d+t týh fî îe tb' ab`, %ỗh tảd $ebaO Đ) * %îej Đh %î e8t da. L0b` ĐF! #;h, ab` hT U`l ab` Abýej Đ>h ale %M dî Đ)#` Đh %/:T 0le Đ) b1` %ỗh ab` fî sP t#Ờ %M Abh Ah=d Đ&>a 3]d Ạa dî, ab` hT_.Cýh Ab!\! ja, bîej e&ỗa d+t Đ) a* Aæd ene fẠh, eb&ej eñ %Ge f<ej fP t!ýe #` Đ=eeb` d+t, ab`e b` x!*ej aId, x!*ej aS. Cýh a* j+ej j&>ej ej&ỗa f6e ebæeAb!ýe d<t ab` f7e eỬ`. Xb!ýe d<t ả: dỗh bhMe b/! fîd s`l, %/: dî jh' ĐF: fẠh Hb$h Đ' ĐGe ej+d ebæe eñ 2!` a8h $eb * %îej, ab1 Abýej Đ&>a ảH ýd 3! 3îej %îtb+d tbh=t. ảt ab>t, d-t îe t`: ảd 8H eîl Đả: Đ<t f6e %`h, týh ejl$eb d<t #`, %Ge ejo Đñ fî bæeb ñej ab`T...î ýej jh8l, ej&'h bîej xñd t*t ej x&` e`: a"` jh`Đæeb ab?ej týh. mej ebẸ ebîej 3æ! týh f6e Đ&` týh s`ej ebîĞ<t a*a e&ỗa abN x!*ej îe, ýej jh8l +t Đ7! AVEcieb Đh fF! tb=, b=t bẠe #;h dî ab&` %M, ýej a ebỗ `eb f+d. &'ej eb&abhM! eîl xlej %ha, ýej a aOej s`ej ebî týh abh, b=t ab!:e eî: Đ=e ab!:eAh`, #;h fẠh Đ=e `eb, bl<a Đ=e abl abñ %îej `eb d!` abl a. mej a 2! eñ f+d,jZh eñ fî La/! Qîej_, ab]d sña ab! Đ8l eb& d-t Đ1` ale bh=d blh eh a7! t9.Ğ?ej fî añ eñ, a aOej Đo aý 2!Ạeb be fî tb!h tb"h d-t dæeb t#lej eh xñ %&'e.Q/: dî s`! t#/e *d, bæeb eb&, Đ?ej e]d Đñ, ab` `eb Hb$h 8e ale abñ Đh, %æ eîlfî tb!*a tb`ej, #;h jhñ )l Hb8 sẠab bl` dî!, #;h tbæ jhî :=! Abýej añ s1a dî fîdtb!6 fîd d&ỗethMe b=t ebke, jẠl tbæ a1 ejî: d-t Đñh And0bhM! býd 8e abñ,ab` `eb s`ej ej`: ebî týh, 8l ej`:E L0/! Qîej Đh Đ'h #;h, ýej jh8l Ạ[_. mej aa* fîd #` %Y %!h, eb&ej dî a&'h a1 eb& d=! ae Đýh d+t tbæ 7ej /ej e&ỗa. Cýhebæe dî tb&ej f+d, 8h ejẠh f+d, týh abỈ d!*e ýd t#7d fả: a dî Abña tbgl. ^;hej&'h ab` `eb Đ-t ebh6e al #?d fẠh, ebỬej %=t eb]e xý %îl eb`!, nH abl e&ỗa d+tab$: #`. 0b` `eb Abña b! b!, t#8ab dæeb Iej eî: t!Sh Đ7! #;h dî %Ge Đh fR` d-tale abñ. Cýh `e "h. !$ tb/t, týh tbả: ýej a :6! tb&ej `eb 2!8[ mej a jhỬ aleQîej aOej fî %æ ejbW Đ=e ejî: dS tbt abñ a&ỗh %> abl `eb, 8e eñ Đh aOej fî 3îeb3d thMd abl `eb d`h s`! dî ]e Ờ. Jh8 eb& ab` `eb j+ej j&>ej Đ&>a tỗh býd e`:tbæmej jh8l ejRej eñh, ebảH ejd t#î, tbỜ 3îh. ej týh ab>t Đ`! ebñh. mh, ab`,xñt tb&ej fîd s`l, ale ej&'h tb/t *d :=!, jhî e!`, eb&ej %Ge jhỬ t#Ze s9 ab`eab1` :6! tb&ej týh %î Hbd a8ab t#lej sẠab. Cýh a1 #Ie %/t tFd tFd t#K, jh8 eb&dæeb %M sỗd be tbæ ab` ae %!h %7: tỗh býd e`: AbýejTcU`! Đả:, ab` `eb ae eb' týh b`h %haE d-t fî eb' %h=t %]e t9 eb&>ej ` sîl%&'e fẠh abl týh, `l jh' `eb %M tbæ ab!:Ve fẠh abl, b`h fî j@h týh ` d&h Đ;ej Ạa, Hbej Abh eb+d d+t tbæ jZh fî a"` ýej a añ tK ab?t, ae `l ebh6! Đîeb eb' bîejxñd a$. Cýh ejbg xlej dî /t a&'h, eb&ej ab` `eb %Ge Ah6e 2!:=t eb' e6e Đîebab!, #;h týh ejbW fẠhE tb= tbæ tR e`:, ýej a eb<t ebẠeb Đ;ej eîl Đ&` abl týh a$ tbæfả: jæ dî !*ej, dî ]eT...Qî tR býd Đñ t#Ờ Đh, ýej a ab= tẠl Đ&>a dñe jæ, ]e dñeĐả:. Cýh tb&ej f+d, tbỈeb tbl$ej ej7d jh?H a, eb&ej ýej a j7e eb& b8ab 3abtR ab*h tảt a$ ebỬej jæ týh Đ&` eb& d!*e x` týh...D-t býd, týh Hbîe eîe %ha ả: %ỗh heb C&, b+e W! dýhE ab` `eb %R` xhe d-t Kt $ abñ, ĐV añ ale abñ eîl 2!` %&'etbæ abl xh, t#?ej tbæ !*ej #&>!. Cýh t#* d+t ejẠa ebh6e, týh Abýej the[ D-t aleej&'h Đ8ej AKeb eb& %/:T D-t ej&'h Đ) Abña %æ t#ñt fR` d-t ale abñ, d-t ej&'hĐ) ebe thMe ĐV fẠh fîd d` %æ Abýej d!*e fh6e f: tỗh bîej xñd,%/: dî fẠh jhỜ a8h t# tbảt Đ1a, f&! d`eb tb= &T Ğ?ej fî a!-a Đ'h 2!$ tb/t ejî: d-t tb6d Đ8ej !;eej añ th=ej eb*e eb8l 6e %&'e, týh x;ej x-a f`l %îl, tbæ t#'h h[ 0b``eb %/t %) t#6e jh&'ej, Đ7! tña #O #&>h, 2!7e 8l x-a xab, d+t flej sej sZa. meja t#! abnl, s4h Zt dnH, ab*a ab*a fẠh  jh/t dẠeb e$: f6e d-t a8h, b`h ej&'h Đîeýej f9a f&oej Hb$h ej;h ĐN f6e. Q/t %) b`h jh' s`!, ab` `eb dỗh ab=t. 08h ab=t tb/t3Ử 3-h. 0b` `eb Đ) ab=t Đh, añ fP %æ d!*e tẠ t-h %ỗh ale Qîej, eb&ej añ fP Đ?ejbe fî %æ d!*e jhỬ abl `eb d$eb %&'e t#Ze %Ẹe, jhỬ abl `eb d-t eh ĐV sheb eb`hf/H ejbhH, abl `eb fîd a"` a&ỗh s`! eî:. ?a Đñ, týh abỈ ae h=t tb7d b1` #IejEýej a b): :6e fej dî eb+d d+t, ĐRej fl tl`e jæ eỬ`, týh sP a* jhỬ jæe Đ>h ejî:`eb t#Ờ %M. 0$ fîej Abýej `h h=t tẠh s`l ýej a ab=t, t#R týh %î heb C&;ej ej9a týh a1 eb&  `h ĐN ẸH, xn e8t a$ tFd a`e. Cýh ` Abña. Jh' ĐF:t#Ờ %M, týh Đ) añ 3]d aba Ạa eb& Đ) b1` Abh aảt &ỗa #` Đh, eb&ej ae %!h s&ỗejĐ&>a ĐF!, ae bẠeb Hb?a eîl ĐF! Abh a8h 8! %/t %ý jh8 ebảt t#6e Đ'h eî: aOej Đ)aảt &ỗa #` Đh, fej %Ge ! !ảt ebỬej s!: t&, Đ`! !;e %î d`ej e<ej ejbW` tæeb %ỗhd-t ale abñ Đ) t#ñt fR` H. Cýh :6! ab` 2!8, d-t ale ej&'h Đ) bh sheb tảt a$ %æ týh,d-t ale ej&'h tb/t añ fej ebFe b/!, Hbd a8ab a`l ĐẸH. mej jh8l % %`h `e "h,#;h eñhE L0e F: jh', týh t#`l fẠh d$eb %&'e fẠh abl `eb. ĞF: fî a8h %&'e dî ýeja tbFe sheb #` `eb Đ) a* ĐV fẠh abl `eb t#Ze %Ẹe a tbî ab=t Đh ab1 Abýej ab! 8eĐh d-t sîl_. Cýh eb/e fẠh ` sîl %&'e, tb7d eñh %ỗh ab` #IejE L0b` b): :6e fejdî eb+d d+t. 0le Đ) %M #;h ĐF:, ale Đ) eb/e fẠh d$eb %&'e eî:. 0le sP jhỬ jæeeñ tb/t ae tb/e, eb& ab` e]d eîl Đ) 2!$e `l fl tl`e, Abñ ebZa_
Ngọc Anh Vũ Thị
Xem chi tiết
nguyen minh ngoc
11 tháng 7 2017 lúc 8:08

Đôn Ki-hô-tê yêu chuộng đạo đức và chính nghĩa. Đôn Ki-hô-tê mơ ước cho mọi người có thể sống một cuộc đời thực thà hơn, công bằng hơn, sung sướng hơn. Tin tưởng vào chính nghĩa và chân lí, Đôn Ki-hô-tê luôn luôn sẵn sàng tranh đấu mong cho chính nghĩa và chân lí được thắng lợi. Trong cuộc tranh đấu, Đôn Ki-hô-tê không hề bao giờ rụt rè, lưỡng lự. Trái hẳn thế, tinh thần của nhà kị sĩ là tinh thần không biết sợ, không biết nản”
Những điều tốt đẹp của nhân vật khi xông lên đánh nhau với cối xay gió- những gã khổng lồ và sau cú ngã như trời giáng thể hiện ở chỗ:
- Kiên quyết tiêu diệt cái ác, cái xấu “ quét sạch cái giống xấu xa này khỏi mặt đất”.
- Dũng cảm, chủ động tấn công địch, không sợ chênh lệch lực lượng.
- Quyết chiến thắng kẻ thù cho dù chúng dùng pháp thuật xấu xa.
- Không hề kêu ca, theo gương các hiệp sĩ giang hồ, dù có bị thương
Như vậy, rõ ràng Đôn Ki-hô-tê là người có lí tưởng tốt đẹp, là người dám chiến đấu hi sinh để phụng sự lí tưởng, là người muốn những điều tốt đẹp cho mọi người.
Nhưng Đôn Ki-hô-tê lại là người sách vở và không thực tế, một người mà đầu óc mù quáng và buồn cười. Điều đó thể hiện ở việc khăng khăng coi những cối xay gió là những gã khổng lồ độc ác, xông lên đánh nhau với chúng đến nỗi giáo gãy tan tành, bản thân ngất đi, con ngựa cũng bị toạc nửa lưng. Rồi cái gì cũng theo sách vở : cầu mong tình nương giúp đỡ khi giao chiến, không dám kêu đau. cho phép Xan chô Pan xa kêu la thoải mái vì sách kiếm hiệp không cấm. Và thức cả đêm để nghĩ tới tình nương, nhịn ăn sáng vì nghĩ đến người yêu cũng đủ no.
Chúng ta ca ngợi, khâm phục tinh thần sống có lí tưởng, dũng cảm chiến đấu cho công bằng, hạnh phúc của thế giới này của nhân vật, nhưng cũng phê phán sự gàn dở, mù quáng theo sách vở và cố chấp của chàng.

Nhân vật Xan chô Pan xa là một nhân vật phụ. luôn luôn thực tế và thực dụng. Anh ta không sống theo sách vở, thích được lợi, thích ăn ngon và ngủ kĩ, thích cuộc sống nhàn hạ. Khác biệt lớn nhất là anh ta không theo đuổi một lí tưởng, hành động thực tế, tránh xa những gì nguy hiểm. Có thể nói gọn lại Xan chô Pan xa là người giản dị trong tư tưởng, giản dị trong tình cảm. Điều đó vừa tương phản, lại vừa bổ sung làm nổi bật tính cách của Đôn Ki-hô-tê.
Nêu phải so sánh hai nhân vật thì cần nhấn mạnh đến việc theo đuổi lí tưởng tốt đẹp, dũng cảm chiến đấu, xông vào nơi nguy hiểm là nét khác biệt và nổi trội ở Đôn Ki-hô-tê.

Đôn Ki-hô-tê
- Theo đuổi lí tưởng cao đẹp
- Dũng cảm, lao thẳng vào hiểm nguy
- Xa rời thực tế
- Hành động mù quáng, điên rồ
- Làm theo sách vở kiếm hiệp

Xan chô Pan xa
- Thực dụng
- Tránh xa những nguy hiểm
- Luôn luôn thực tế
- Hành động tỉnh táo, khôn ngoan

- Làm theo sở thích tự nhiên

Nguyen Quynh Anh
Xem chi tiết
Đặng Khánh Ngọc
24 tháng 10 2016 lúc 21:14

baif nè mk đc 9

 

*** Lynk My ***
Xem chi tiết
Lưu Hạ Vy
26 tháng 10 2016 lúc 12:52

Nam Cao là một nhà văn lớn của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là người nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông vẫn cảm nhận được những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn của họ trước bờ vực của cái đói, cái nghèo. Truyện ngắn “Lão Hạc” của nhà văn là một tác phẩm như thế. Nhân vật chính của tác phẩm - nhân vật lão Hạc - dù có một hoàn cảnh bất hạnh, đau đớn nhưng lão vẫn giữ được tình yêu thương đối với những người thân yêu và đặc biệt là một lòng tự trọng cao cả. Qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện tư tưởng nhân đạo tiến bộ và sâu sắc.

Lão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái nghèo, cái đói của cuộc sống cơ cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão còn có những hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh. Vợ lão chết sớm. Con trai lão phẫn chí vì nghèo không lấy được người mình yêu nên bỏ đi đồn điền cao su. Lão chỉ có con Vàng là kỷ vật của con để làm bạn. Vậy là cùng một lúc lão phải đối mặt với bao đau khổ: cái đói, sự cô đơn và tuổi già với ôm đau, bệnh tật. Rồi cuộc đời cực khổ, dồn lão đến mức hết đường sinh sống. Lão phải dứt ruột bán đi ***** Vàng mà lão yêu thương nhất. Lão bán ***** trong niềm khổ đau tột cùng: “Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít”, “lão hu hu khóc”,...

Ban đầu là “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”, “khoai cũng hết, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc”. Rồi đến mức chẳng còn gì để ăn, để sống. Rồi điều gì đến sẽ phải đến. Không còn đường sinh sống, lão Hạc chỉ còn đường chết. Và đó là một cái chết thật đau đớn, thật tủi nhục: chết “nhờ” ăn bả chó tự tử...! Cái chết của
lão dữ dội vô cùng: lão sùi bọt mép, lão co giật phải hai người đàn ông lực lưỡng đè lên... Cái chết ấy khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của ***** Vàng để rồi rùng mình nhận ra rằng cái chết của lão đâu khác gì cái chết của một con chó.

 

Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão không vì vậy mà tha hóa về nhân phẩm. Binh Tư đã tưởng lão xin bả chó để ăn trộm. Ông giáo cũng nghi ngờ lão. Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người nông dân và cả sự tự trọng cao đẹp của mình.

Lão yêu thương con rất mực. Văn học Việt Nam đã có những “Cha con nghĩa nặng” của Hồ Biểu Chánh, “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng,... ngợi ca tình phụ tử. Và trong đó cũng cần nhắc đến “Lão Hạc” của Nam Cao. Vì thương con, lão chấp nhận đối mặt với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão dồn cả yêu thương vào ***** Vàng. Đừng nghĩ đơn giản rằng lão cưng chiều “cậu” Vàng vì đó là ***** khôn, chó đẹp. Điều quan trọng nhất khiến lão yêu quý con Vàng đến mức chia với nó từng cái ăn, cho nó ăn vào bát như người, rồi đến lúc nó chết lão quằn quại, đau đớn,... là bởi ***** là kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại. Nhìn con chó, lão tưởng như được thấy con mình.

Không chỉ vậy, lão thương con đến độ chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ không chịu bán đi mảnh vườn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không có đất sinh sống làm ăn. Vậy là lão đã nhận lấy cái chết rồi nhờ ông giáo giữ đất cho con. Chao ôi! Tình yêu thương con của lão thật cảm động biết mấy!

Yêu thương những người thân yêu ruột thịt, lão Hạc còn là một người sống đầy tự trọng trước cuộc đời nhiều cám dỗ và tội lỗi. Vào hoàn cảnh như lão, người ta đã có thể ăn trộm, ăn cắp hay thậm chí ăn bám vào người khác (như Binh Tư chẳng hạn, hay người đàn bà trong “Một bữa no” của Nam Caor..) nhưng lão Hạc thì không. Với sự giúp đỡ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó chỉ là củ khoai, củ sắn) lão “từ chối gần như hách dịch" khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng. Binh Tư ngỡ rằng lão xin bả để ăn trộm chó “lão cũng ra phết đấy chứ chẳng vừa đâu”. Đến lượt ông giáo cũng nghi ngờ: “"con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Nhưng cuối cùng tất cả đều ngỡ ngàng, sửng sốt trước cái chết đột ngột của lão. Hay còn cách khác: lão có thể bán quách mảnh vườn di. Nhưng lão lại nghĩ rằng đó là mảnh vườn của con lão. Và lão đã thà chết chứ không ăn của con!

Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người - kể cả với ***** Vàng tội nghiệp. Nhưng còn một chi tiết khác cũng cảm động vô cùng. Lão đã tính toán để ngay cả khi chết đi rồi cũng không làm phiền đến mọi người: lão đã gửi ông giáo mấy chục đồng bạc, định khi mình nằm xuống thì nhờ ông giáo lo liệu ma chay khỏi làm phiền hàng xóm! Hỡi ôi lão Hạc!

Xây dựng nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật khắc họa nhân vật tài tình. Điều đó được thể hiện trong đoạn văn miêu tả bộ dạng, cử chỉ của lão Hạc khi kể cho ông giáo chuyện lừa bán cậu Vàng, trong đoạn miêu tả sự vật vã đau đớn dữ dội của lão Hạc trước lúc chết. Ngôn ngữ nhà văn sử dụng trong tác phẩm sinh động, ấn tượng, giàu tính tạo hình và hết sức gợi cảm.

Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn đã thể hiện tinh thần nhân đạo tiến bộ sâu sắc.

Nam Cao đã đồng cảm đến tận cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Việt Nam trong nạn đói 1945. Thời cuộc đã dồn họ đến đường cùng và lối thoát nhanh chóng nhất là cái chết nghiệt ngã.

Nhưng trên hết, nhà văn đã biết nâng niu trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cao khiết của người nông dân ngay cả khi họ bước vào đường cùng. Không chỉ giàu tình yêu thương, người nông dân còn sống đầy tự trọng. Trong cái đói, tự trọng là thứ gì đó xa xỉ vô cùng. Vì miếng ăn, người ta có thể tàn nhẫn, dã man, thậm chí mất hết nhân tính. Nhưng đáng trọng thay lão Hạc, lão không chỉ giữ được tình thương tươi mát mà còn giữ được lòng tự trọng vàng đá của mình.

Và chính nhờ vẻ đẹp tươi sáng ấy của lão Hạc mà Nam Cao đã chiệm nghiệm: “Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn”. Chưa đáng buồn bởi còn có những con người cao quý như Lão Hạc. Viết câu văn ấy, nhà văn đã bày tỏ thái độ tin tưởng đối phẩm cách tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Điều ấy đáng quý vô cùng bởi trước Cách mạng, người nông dân bị coi rẻ như cỏ rác, thậm chí có nhà văn còn nhận định người nông dân “như những con lợn không tư tưởng”. Và bởi thế, tư tưởng của Nam Cao đáng ca ngợi biết bao!

Nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một nhân vật có nhiều đặc điểm đáng quý, đáng trân trọng. Từ lão Hạc, người nông dân Việt Nam có quyền tự hào về tâm hồn và phẩm cách của mình. Dựng lên nhân vật này, nhà văn Nam cao đã khẳng định một quan điểm giàu tính nhân đạo sâu sắc.

Chúc bn hok tốt !!!!!!

Thảo Phương
26 tháng 10 2016 lúc 17:05

Viết về đề tài nông dân trước cách mạng, "'Lão Hạc” là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của nhà văn Nam Cao. Một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông nghèo khổ. Nhân vật lão Hạc đã để lại trong lòng ta bao ám ảnh khi nghĩ về số phận con người, số phận người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ.

1.Lão Hạc, một con người nghèo khổ, bất hạnh. Ba sào vườn, một túp lều, một ***** vàng... đó là tài sản, vốn liếng của lão. Vợ chết đã lâu, cảnh gà trống nuôi con, lão lần hồi làm thuê kiếm sống. Đứa con trai độc nhất không có trăm bạc để cưới vợ, cảm thấy “nhục lắm” đã “phẫn chí“ đi phu đồn điền cao su Nam Kỳ, biền biệt năm, sáu năm chưa về. Tuổi già, sống cô quạnh, nỗi bất hạnh ngày thêm chồng chất. Lão Hạc chỉ còn biết làm bạn với ***** vàng. Lão bị ốm một trận kéo dài 2 tháng 18 ngày. Không một người thân bên cạnh đỡ đần, săn sóc cho một bát cháo, một chén thuốc! Tinh cảnh ấy thật đáng thương! Tiếp theo một trận bão to, cây trái hoa màu trong vườn bị phá sạch sành sanh. Làng mất nghề sợi. Đàn bà con gái trong làng đi làm thuê rất nhiều, giành hết mọi việc. Sau trận ốm, lão Hạc yếu hẳn đi, chẳng ai thuê lão đi làm nữa. Thất nghiệp! Giá gạo mỗi ngày một cao. Lão và cậu Vàng, mỗi ngày ăn hết ba hào gạo mà vẫn “đói deo đói dắt”. Bao nhiêu tiền bán hoa lợi trong vườn dành dụm được bấy lâu nay, lão đã chi tiêu gần hết trong trận ốm!

‘'Nhưng đời người ta không chỉ khổ một lần (...). Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu?”. Nhân vật ông giáo đã nghĩ như thế khi nghe lão Hạc nói về ý định phải bán con chó. Cậu Vàng “ăn khỏe”, mỗi ngày cậu ấy ăn “bỏ rẻ cũng mất hào rưỡi, hai hào”. Lão Hạc rất yêu cậu Vàng, nhưng "lấy tiền đâu mà nuôi được?" Lão Hạc phải bán cậu Vàng cho thằng Xiên, thằng Mục... Bán cậu Vàng xong, lão Hạc bị đẩy sâu xuống đáy vực bi thảm. Lão cảm thấy mình là một kẻ ‘tệ lắm”, đã già mà còn “đánh lừa một con chó". Đói khổ, túng bấn, cô đơn... ngày một thêm nặng nề... lão Hạc chỉ ăn khoai, ăn củ chuối, ăn sung luộc, ăn rau má, thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai bữa ốc. Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo một cách “gần như là hách dịch”. Lão xa ông giáo dần, chỗ dựa tinh thần của lão bấy lâu nay. Lão Hạc đã ăn bả chó để tự tử. Lão chết đau đớn thê thảm: đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc, tru tréo, bọt mép sùi ra... vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết! Cái chết thật là dữ dội!

 

Số phận một con người, một kiếp người như lão Hạc thật đáng thương. Với chủ nghĩa nhân đạo thống thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương xót đối với những con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết thê thám. Chí Phèo tự sát bằng mũi dao, Lang Rận thắt cổ chết... Và lão Hạc đã quyên sinh bằng cái bả chó! Lão Hạc đã từng hỏi ông giáo: ‘‘... nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?". Câu hỏi ấy đã thể hiện nỗi đau khố tột cùng của một kiếp người.

2.Lão Hạc, một con người chất phác, hiền lành, nhân hậu. Lão rất yêu con. Biết con buồn vì không có tiền đé cưới vợ ‘lão thương con lắm...”. Lão đau đớn khi con sắp đi làm phu đồn điền cao su. Lão chỉ biết khóc: 'Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta dã chụp rồi (...). Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi ?”. “Cao su đi dễ khó về' (Ca dao). Con trai lão Hạc đã đi “bằn bặt" năm, sáu năm chưa về. Hoa lợi trong vườn, bán được bao nhiêu lão dành dụm cho con, hi vọng khi con trở về “có chút vốn mà làm ăn”. Lão tự bảo: “Mảnh vườn là của con ta... Của mẹ nó tậu thì nó hưởng...". Đói khổ quá, nhưng lão Hạc đã giữ trọn vẹn ba sào vườn cho con. Lão đã tìm đến cái chết, ‘thà chết chứ không chịu bán đi một sào". Tất cả vì con, một sự hi sinh thầm lặng cực kì to lớn!

Lòng nhân hậu của lão Hạc được thể hiện sâu sắc đối với ***** vàng, mà người con trai để lại. Lão quý nó, đặt tên nó là “cận Vàng”. Cho nó ăn cơm trong bát sứ như nhà giàu. Bắt rận hoặc đem nó ra cầu ao tắm. Lão ăn gì cũng chia cho cậu Vàng cùng ăn. Lão ngồi uống rượu, cậu Vàng ngồi dưới chân, lão nhắm một miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ. Lão tâm sự với cậu Vàng như tâm sự với một người thân yêu ruột rà: “Cậu Vàng của ỏng ngoan lắm! Ông không cho giết... Ông để cậu Vàng ông nuôi...". Có thể nói, cậu Vàng được lão Hạc chăm sóc, nuôi nấng như con, như cháu; nó là nguồn vui, chỗ dựa tinh thần, nơi san sẻ tình thương, giúp lão Hạc vợi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn, cay đắng. Cậu Vàng là một phần cuộc đời lão Hạc. Nó đã tỏa sáng tâm hồn và làm ánh lên bản tính tốt đẹp của ông lão nông đau khổ, bất hạnh này. Vì thế, sau khi bán cậu Vàng đi, từ túng quẫn, lão Hạc chìm xuống đáy bể bi kịch, dẫn đến cái chết vô cùng thảm thương.

3.Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ mà trong sạch, giàu lòng tự trọng. Trong đói khổ cùng cực phải ăn củ chuối, củ ráy... ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè, lão cười hồn hậu và khất ông giáo cho để khi khác”. Ông giáo ngấm ngầm giúp đỡ, lão từ chối “một cách gần như hách dịch”. Bất đắc ***** phải bán con chó; bán xong rồi, lão đau đớn, lương tâm dằn vặt: “thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó”. Ba sào vườn gửi lại nguyên vẹn cho con trai, như một lời nguyền đinh ninh: “Cái vườn là của con ta (...). của mẹ nó tậu thì nó hưởng". Tnrớc khi chết, lão gửi lại ông giáo mảnh vườn cho con, và gửi lại 30 dồng bạc đê “lỡ có chết... gọi là của lão có tí chút...", vì lão không muốn làm phiền đến hàng xóm. Nam Cao đã tinh tế dưa nhân vật Binh Tư, một kẻ ‘làm nghề ăn trộm" ở phần cuối truyện, tạo nên một sự đối sánh đặc sắc, làm nổi bật tấm lòng trong sạch, tự trọng của lão Hạc, một lão nông chân quê đáng trọng.

Tóm lại, cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất hạnh. Sống thì âm thầm, nghèo đói, cô đơn; chết thì quằn quại, đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có bao phẩm chất tốt đẹp như hiền lành, chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự trọng... Lão Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ được Nam Cao miêu tả chân thực, với bao trân trọng xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thống thiết.

 

 

Nguyễn Trần Thành Đạt
27 tháng 10 2016 lúc 22:53

Viết 1 đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về tình bạn trong bài thơ Bạn đến chơi nhà.

Đọc thơ Nguyễn Khuyến ta chẳng thấy mấy bài vui bởi tâm trạng ông mang nặng nỗi buồn trước cảnh đất nước thương đau, trước thói đời lắm nỗi éo le. Nỗi buồn ấy càng sâu càng đậm từ khi ông cáo quan về ở ẩn. Nhưng ta niềm vui bất chợt khi đọc Bọn đến chơi nhà. Ẩn chứa trong bài thơ là một tình bạn bằng hữu tâm giao cao quý vượt lên mọi nghi thức đời thường. Cái nghèo vật chất không lấn át được tình cảm ấm áp chân thành.

Đã bấy lâu nay, bác tới nhà

Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa

Ao sâu nước cả, khôn chài cá

Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà

Cải chửa ra cây, cà mới nụ

Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa

Đầu trò tiếp khách, trầu không có

Bác đến chơi đây, ta với ta.

Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng sự phát triển của ý thơ khá bất ngờ không theo cấu trúc (đề, thực, luận, kết) thường thấy ở thơ Đường. Có lẽ đây cũng là một điều rất đặc biệt như chính tình bạn của họ.

Đã bấy lâu nay, bác tới nhà

 

 

Minh Huy
Xem chi tiết
Ngân Đại Boss
28 tháng 10 2016 lúc 10:38

-Giới thiệu về làng ku-ku-rêu:nằm ven chân núi, trên 1 cao nguyên rộng có những khe nước ào ào từ nhiều ngách đá đổ xuống...

-Nghệ thuật đặc sắc:+Đan xen các phương thức biểu đạt

+Kết hợp kể và tả

+Sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa

-Nội dung:+Vẻ đẹp thân thuộc, cao quý của 2 cây phong

+Tấm lòng gắn bó tha thiết của tác giả

Minh Huy
28 tháng 10 2016 lúc 11:13

cam on nha

CHUỐI là nhất
Xem chi tiết
Trần Thị Tuyết Nhung
28 tháng 10 2016 lúc 12:14

Chưa có nhân vật nào gây nhiều ấn tượng sâu sắc và lí thú như nhân vật Đôn-ki-hô-tê trong tác phẩm của nhà văn Xéc-van-tét, một người đáng thương nhưng cũng rất đáng chê với những hành động nực cười của mình.

Ki-ha-da, một nhà quí tộc bình thường, thú vui của chàng là đi săn và câu cá. Vậy mà khi chàng đọc những quyển truyện kiếm hiệp chàng đã say mê đọc suốt ngày bỏ cả những thú vui của mình và bán hết ruộng vườn, tài sản mình có để mua truyện kiếm hiệp, nhưng tệ hơn nữa là chàng nghĩ tất cả những điều trong truyện đều có thật và muốn phiêu lưu một chuyến trong thiên hạ. Chàng đã biến cái tên thật của mình thành cái tên 'Đô-ki-hô-tê nhà quí tộc tài ở xứ Man-tra’,biến con ngựa gầy còm của mình thành con tuấn mã và bỏ biết bao nhiêu thời gian để chuẩn bị cho cuộc chu du này.

Chàng ra đi với người giám mã Xa-chô Pan-xa, một người thực tế, gặp may mắn thì ít mà rủi ro thất bại thì nhiều. Buồn cười nhất là cuộc đánh nhau giữa chàng và cối xay gió. Chàng đã tưởng tượng cối xay gió là một tên khổng lồ gian ác và cứ xông vào đánh bất kể lời can thiệp của Xan-chô Phan-xa. Kết quả ra sao chắc các bạn cũng biết đó. Đôn-ki-hô-tê đã chịu một thất bại ê chề đau khổ. Với những hành động điên rồ, không phải chàng là người đáng ghét, mục đích của chàng là cứu người yếu, diệt kẻ gian tà. Chàng đã kiên nhẫn qua bao cuộc ra đi thất bại nhưng chàng không nản chí, vẫn ra đi để tiếp tục cuộc chu du. Bên cạnh chàng là một giám mã có đầu óc thật thực tế. Chàng đánh nhau vì muốn có ý nghĩ cứu người nhưng không biết hành động của mình đều sai cả. Để giữ mình đúng là một quí tộc, chàng đã nhịn ăn, rồi không kêu đau khi bị thương. Như vậy chàng cũng là một người đáng thương. Nhưng em nghĩ rằng bất cứ người nào dù có mục đích tốt đẹp đi chăng nữa nhưng với đầu óc điên rồ thì cũng chẳng làm được gì cả.

Qua tác phẩm, em đã rút ra một bài học từ nhân vật này. Không nên đọc những cuốn truyện nhảm nhí và đừng quá say mê đến nỗi lại tưởng tượng chuyện đó là có thật. Đôn-ki-hô-tê đã phí tuổi thanh xuân của mình cho những hành động nực cười. Nhưng may thay đến lúc chết chàng đã nhận thấy hậu quả của việc làm này. Đôn-ki-hô-tê đã phải trả giá. Em viết về nhân vật khá lý thú. Thái độ của em với nhân vật rạch ròi nhưng mới thấy phần đáng ghét mà chưa thấy rõ phần đáng thương, thậm chí đáng yêu của nhân vật này.

Đây chuối ơileuleu
Thảo Phương
28 tháng 10 2016 lúc 12:11

"Đôn Ki-hô-tê" là tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Xéc-van-téc và của nền văn học Tây Ban Nha. Đoạn trích "Đánh nhau với cối xay gió" là đoạn trích tiêu biểu góp phần làm nổi bật tính cách nhân vật chính: nhân vật Đôn Ki-hô-tê, một con người có lí tưởng tốt đẹp nhưng vì mê muội bởi những tác phẩm tiểu thuyết kiếm hiệp lỗi thời nên hành động mê muội, đáng cười.

Trên đường đi thực hiện những ý định viển vông, hai thầy trò phát hiện thấy ba bốn chục chiếc cối xay gió giữa đồng. Đôn Ki-hô-tê tưởng tượng đó là những tên khổng lồ, và quyết giao chiến. Bỗng lúc đó gió nổi lên, cối xay gió bắt đầu chuyển động và Đôn Ki-hô-tê càng hăng máu xông vào. Giáo gãy, ngựa và người văng ra, Đôn Ki-hô-tê bị đau như trời giáng. Kết cục, hai thầy trò đi về phía cảng La-pi-xê, vì Đôn Ki-hô-tê nghĩ: "con đường này có lắm người qua lại chẳng thể nào không gặp nhiều chuyện phiêu lưu khác nhau".

Đoạn trích này làm hiện lên rất rõ tính cách của Đô Ki-hô-tê. Sự mê muội do đọc quá nhiều sách kiếm hiệp đã khiến người hiệp sĩ tưởng những chiếc cối xay gió là bọn khổng lồ gian ác, sau đó lại tưởng là phép thuật của pháp sư Phơ-re-xtôn. Vì thế mà, không một chút ngần ngại, lão hiệp sĩ đã lao vào để tiêu trừ cái lũ gian ác ấy. Ước mơ và khát vọng của người hiệp sĩ không phải là không tốt đẹp và dũng cảm nếu đối thủ là quân gian ác thực sự, nhưng nó lại là hành động thật nực cười bởi đối thủ của anh ta lại là... những chiếc cối xay gió. Tính cách của Đôn Ki-hô-tê còn được thể hiện rõ ờ đoạn tiếp theo: lão bị trọng thương những không hề rên rỉ (lão cần phải chứng tỏ mình là một hiệp sĩ giang hồ); lão cũng không quan tâm đến chuyện ăn, chuyện ngủ bởi lão còn đang mơ đến... "tình nương”.

Tuy có nhiều khía cạnh tốt đẹp nhưng vì ngấm quá nhiều truyện kiếp hiệp nên Đôn Ki-hô-tê trở thành một nhân vật nực cười, vừa đáng trách lại vừa đáng thương


 

Trần Thị Tuyết Nhung
Xem chi tiết
Thảo Phương
28 tháng 10 2016 lúc 20:45

Ngược dòng lịch sử, chúng ta hãy cùng nhà văn Xéc-van-téc đến với đất nước Tây Ban Nha cách đây khoảng hơn ba trăm năm (Thế kỷ XVI-XVII) để chiếm ngưỡng người anh hùng hào hiệp của xứ Man-tra Đôn Ki-hô-tê và giám mã Xan-chô Pan-xa trong một cuộc phiêu lưu mạo hiểm của họ. Đó là việc Đôn Ki-hô- tê đánh nhau với những chiếc cối xay gió, một trận đánh kỳ quặc. Với tài năng của mình Xéc-van-téc đã thành công trong việc khắc họa tính cách của hai nhân vật qua trận đánh.

Qua đoạn trích, ta thấy rõ tài nghệ của Xéc-van-téc trong việc xây dựng cặp nhân vật bất hủ Đôn Ki-hô-tê, Xan-chô Pan-xa tương phản về mọi mặt. Bức chân dung của hai nhân vật hiện lên mỗi lúc một rõ nét, rất cụ thể, sinh động, từ ngoại hình, trí tuệ, ước muốn đến đến hành động và quan niệm cuộc sống.

Đôn Ki-hô-tê là nhân vật chính, lão tự phong cho mình là hiệp sĩ, chàng hiệp sĩ tuổi trạc năm mươi, gầy gò, cao lênh khênh. Cưỡi trên lưng con ngựa còm có cái tên mĩ miều chiến mã Rô-xi-nan-tê, mình mặc áo giáp, đầu đội mũ sắt, vai vác giáo dài, toàn những thứ han rỉ của tổ tiên để lại, rồi đem đánh bóng… Đôn Ki-hô-tê hiên ngang tiến bước với mục đích tốt đẹp là tiễu trừ quân gian ác, giúp đỡ người lương thiện. Trí óc của hiệp sĩ đầy hoang tưởng, có lúc mê muội. Nhìn thấy những chiếc cối xay gió, lão nghĩ là bọn gian ác khổng lồ đã lao vào để giao đấu, sau khi bị thất bại, lão cho rằng đấy là pháp thuật của pháp sư Phơ-re-xtôn đã thâm thù lão, và tước lấy phần vinh quang chiến thắng của Đôn Ki-hô-tê. Với động cơ trong sáng, hồn nhiên- tiêu diệt lũ tàn ác, trừ hại cho dân – Đôn Ki-hô-tê đã dũng cảm xông vào đánh những tên khổng lồ (thực ra là những chiếc cối xay gió), mặc dù lão biết đây là cuộc giao tranh điên cuồng và không cân sức. Đơn thương độc mã, hiệp sĩ bỏ mặc lời can ngăn của Xan-chô, phóng ngựa, vừa quát mắng lũ quỉ khổng lồ, và tâm niệm nguyện cầu người tình lý tưởng- Nàng Đuyn-xi- nê-a xinh đẹp giúp mình trong lúc nguy nan. Trong giây phút tấn công kẻ thù, hình ảnh chàng hiệp sĩ sáng chói lên như một anh hùng, rất đáng kính phục. Nhưng suy nghĩ tỉnh táo một chút, người đọc lại bật cười.

Bởi vì mục đích và hành động của Đôn Ki-hô-tê là đúng đắn, cao cả tốt đẹp, còn đối tượng hướng tới của chàng lại không phải lũ quỉ khổng lồ gian ác mà chỉ là những chiếc cối xay gió hiền lành vô tội. Đầu óc chàng đầy những hoang tưởng. Cho nên cái động cơ tốt đẹp, cái hành động dũng cảm của chàng đã trở thành hão huyền, mang tính phá phách. Bản thân hiệp sĩ thì thất bại đau đớn, ngọn giáo gãy tan tành, ngựa và người ngã văng ra. Nhìn thấy hình ảnh Đôn Ki- hô-tê nằm không cựa quậy, bác giám mã sợ quá, đã phải lạy chúa trên trời. Đọc đến chi tiết này, chúng ta vừa thương vừa… không nén được tiếng cười. Song, xin bạn đọc chớ đùa cợt. Trong thời khắc nguy nan sau cuộc chiến đấu, thầy trò chàng hiệp sĩ đã tranh cãi một cách rất nghiêm chỉnh. Nghe Xan-chô có ý phê bình mình là đầu óc quay cuồng như cối xay gió, hiệp sĩ mắng lại: Thôi im đi!… Chuyện chinh chiến thường biến hóa khôn lường… ta cho rằng, và đúng là như thế, chính lão pháp sư… biến những tên khổng lồ kia thành cối xay gió để tước đi của ta niềm vinh quang đánh bại chúng… nhưng rồi… lão sẽ không thể nào đối chọi được thanh kiếm lợi hại của ta. Ý nghĩ và những lập luận của hiệp sĩ kể ra cũng sáng suốt và chặt chẽ đấy chứ? Bị quật ngã đau đớn lịm người như thế mà không một tiếng rên rỉ, xuýt xoa, trái lại vẫn cháy bỏng một niềm tin mãnh liệt, một quyết tâm hành động vì nghĩa lớn. Một bản lĩnh làm người như thế đáng khâm phục biết bao! Chỉ có điều cái bản lĩnh làm người ấy lại không bắt nguồn từ thực tế cuộc sống mà nó từ trong cuốn sách kiếm hiệp cổ xưa mà lão đã ngốn ngấu đọc rồi làm theo. Do vậy sau trận chiến thất bại ê chề, Đôn Ki-hô-tê vẫn chưa tỉnh táo để rút ra bài học. Trái lại, lão vẫn tiếp tục cuộc phiêu lưu, tiếp tục những suy nghĩ lãng mạn, hoang tưởng.

Lão tâm sự với Xan-chô: Ta không kêu đau là vì các hiệp sĩ giang hồ có bị thương như thế nào cũng không được rên rỉ, dù xổ cả gan ruột ra ngoài. Ấy thế là tấm gương những hiệp sĩ giang hồ trong sách vở lại sống dậy, giục giã và khích lệ lão. Trong khi giám mã Xan-chô Pan-xa ăn uống thì hiệp sĩ thấy chưa cần ăn vì hình như đang mải nghĩ đến trận chiến sắp tới. Cho tới đêm hôm ấy, ta vẫn không thấy hiệp sĩ ăn uống gì cả. Ngài bẻ một cành khô, rút cái mũi sắt ở chiếc cán gãy lắp vào làm thành ngọn giáo. Đêm ấy, Đôn Ki-hô-tê không ngủ để giành thời gian nghĩ đến nàng Đuyn-xi-nê-a xinh đẹp, đúng như hiệp sĩ trong sách, thức trắng nhiều đêm ròng ở trong rừng hoặc nơi hoang mạc nhớ tới tình nương của mình. Suy nghĩ và mộng mơ bay bổng đến nỗi Đôn Ki-hô-tê không thèm để ý tới giám mã Xan-chô dang đánh một giấc ngon lành. Cho tới sáng hôm sau, hiệp sĩ cũng không muốn ăn sáng, vì chàng nghĩ đến người yêu cũng đủ no rồi… Có thể nói, dưới ngòi bút vừa nghiêm chỉnh vừa bỡn cợt, trào lộng của Xéc-van-téc, hình ảnh hiệp sĩ Đôn Ki-hô tê hiện lên là một con người đầy ảo mộng. Lão mang những khát vọng đẹp, hành động dũng cảm, bản lĩnh kiên cường,… nhưng lại có những nhầm lẫn trong suy nghĩ, gàn dở trong việc làm chỉ vì lão bị ảnh hưởng quá nặng nề bởi những trang sách cũ kỹ, lỗi thời. Nhân vật Đôn Ki-hô-tê vừa buồn cười và yêu mến, vừa cảm thấy đáng trách mà lại đáng thương…

 

Nhân vật Xan-chô Pan-xa là nhân vật phụ làm nền cho nhân vật chính là Đôn Ki-hô-tê. Nếu Đôn Ki-hô-tê mơ mộng và ảo tưởng thì giám mã Xan-chô Pan-xa là người tỉnh táo, thực dụng. Bác là một nông dân béo lùn, nhận, làm giám mã cho Đôn Ki-hô-tê với hy vọng sau này chủ công thành danh toại, bác sẽ được làm thống đốc, cai trị vài hòn đảo, được sống cuộc đời giàu sang, phú quí. Giám mã Xan-chô Pan-xa đủng đỉnh cưỡi lừa đi theo chủ, lúc nào cũng mang theo bầu rượu và cái túi hai ngăn đựng đầy thức ăn ngon. Trước khi vào trận đánh kỳ quặc, Xan- chô Pan-xa đã nhìn rõ kẻ thù của hiệp sĩ là những chiếc cối xay gió. Bác giải thích rất rõ ràng, rành mạch: cái vật trông giống cánh tay là những cảnh quạt, khi có gió thổi, chúng sẽ quay tròn làm chuyển động cối đá bến trong. Đến lúc cố hét to để ngăn cản ông chủ cuồng si lao lên phía trước đánh nhau với cối xay gió không được, bác nông dân ấy đã bỏ mặc chủ. Thái độ này của bác vừa đúng nhưng lại vừa không đúng. Đúng là vì bác ta biết hành động của chủ là gàn dở và bác đã can ngăn. Chưa đúng vì bác không thực sự quyết tâm bằng hành động và sức khỏe của mình xông lên để ngăn cản ông chủ, hay chí ít cũng giúp đỡ để ông chủ không bị thua, thua một cách thảm hại đến mức “giáo gãy, người và ngựa ngã lăn ra”. Hay là lúc đó bác cũng hoảng loạn mà tưởng rằng đó là những tên quỉ khổng lồ nguy hiểm thật, rồi bỏ mặc cho chủ giao chiến? Phải chăng, bác nông dân chỉ quen ăn no vác nặng này nhút nhát, sợ hãi?

Sau trận đánh, Xan-chô tỏ ra là một giám mã tận tụy. Bác ta vừa xoa xuýt thương chủ, vừa cố giải thích một lần nữa, giải thích để thức tỉnh ông chủ về cái hành động kỳ quặc bắt nguồn từ những đầu óc quay cuồng như cối xay. Về việc này, Xan-chô thật đáng yêu. Bác đã hết mực phục vụ chủ. Miệng cầu chúa phù hộ cho chủ sẽ giành thắng lợi ở các cuộc giao đấu sau này. Bác vừa nâng hiệp sĩ dậy rồi đỡ cho chủ ngồi ngay ngắn trên lưng con chiến mã gầy còm. Đến những phút tiếp tục cuộc phiêu lưu sau trận đánh, giám mã Xan-chô tiếp tục nhiệm vụ theo hầu chủ. Tâm sự với hiệp sĩ, bác tỏ ra là người rất chân thành, cởi mở. Bác nói : Chúa thấu hiểu cho tôi là tôi có yếu lòng không nếu thấy ngài rên la khi bị cái gì làm cho đau đớn. Còn tôi, có thể xin thưa với ngài rằng chỉ cẩn hơi đau một chút là tôi rên rỉ ngay. Con người Xan-chô như vậy chẳng phải là tốt nết và biết thương người hay sao? Lại còn tận tụy với chủ nữa song có lẽ thương người thì ít mà bác ta… thương mình nhiều hơn. Sau khi xin phép hiệp sĩ bằng vài lời qua quýt, Xan-chô thản nhiên lấy rượu và thức ăn ra đánh chén no say chẳng nhớ gì đến lời hứa hẹn của chủ, và cảm thấy cái nghề phiêu lưu này cũng chẳng vất vả gì mà lại còn thoải mái nữa là khác. Thế rồi sau khi rượu thịt ních đầy cái dạ dày, đến tối hôm ấy, trong khi ông chủ thao thức, trằn trọc thì giám mã, người hầu cận thân tín kia ngủ một mạch cho đến sáng hôm sau, vừa tỉnh dậy đã vớ ngay lấy bầu rượu… để rồi buồn rầu vì xem chừng trên quãng đường này khó đào đàu ra ngay rượu để đổ vào cho đầy. Quan tâm tới những nhu cầu ăn ngủ là chuyện bình thường. Nhưng hình như giám mã quá chu trọng đến hai việc này, nhiều lúc quên hết, kể cả ông chủ mà mình có nhiệm vụ hầu hạ, chăm sóc thì thật là tầm thường và đáng chê trách! Bằng ngòi bút sinh động, hóm hỉnh, Xéc-van-téc đã khắc hoạ nhân vật giám mã Xan-chô với những nét ngoại hình và tính cách trái ngược hẳn với Đôn Ki-hô-tê.

Đánh nhau với cối xay gió là một cuộc phiêu lưu, một trận đánh kì quặc. Chúng ta thấy Đôn Ki-hô-tê thật nực cười, nhưng cũng đáng yêu, còn Xan-chô Pan-xa tuy có những mặt tốt đáng quí, nhưng cũng còn có nét tính cách chưa tốt, đáng chê. Như vậy, hai nhân vật này tuy rất trái ngược nhau cả về hình dáng và tính cách nhưng vẫn là đôi tri kỷ thân thiết. Hai bên đã chịu ảnh hưởng của nhau rất sâu sắc. Thật là một cặp nhân vật bất hủ trong văn chương thời Trung cổ.

Câu chuyện phiêu lưu của thầy trò Đôn Ki-hô-tê đã có ý nghĩa lớn lao, phản ánh bước chuyển mình vĩ đại của đất nước, dân tộc Tây Ban Nha trên con đường từ xã hội phong kiến lạc hậu lên xã hội tư bản chủ nghĩa đầy phức tạp, thử thách, rèn luyện con người. Cuối cùng thì, cái điên rồ của Đôn Ki-hô-tê cũng như cái mộng tưởng của Xan-chô chỉ là cái vỏ tạm thời xa lạ với bản chất của họ. Còn truyền thống đạo đức tốt đẹp của nhân dân Tây Ban Nha lại là những phẩm chất tốt đẹp của hai nhân vật trong truyện.

Cảm ơn nhà văn vĩ đại Xéc-van-téc đã đưa chúng ta đên với đất nước Tây Ban Nha thơ mộng qua một trận đánh kì quặc “có một không hai” trong lịch sử nhân loại. Từ đó giúp ta càng hiểu rõ và thêm yêu quí nhân dân, đất nước Tây Ban Nha. Họ có quyền tự hào và kiêu hãnh, một đất nước có nhà văn Xéc-van- téc, có cuốn tiểu thuyết Đôn Ki-hô-tê sống bất hủ với thời gian.