Bài 19. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1427)

Lê Yến Nhi
Xem chi tiết
Dark_Hole
4 tháng 3 2022 lúc 19:47

C

Bình luận (0)
phung tuan anh phung tua...
4 tháng 3 2022 lúc 19:47

C

Bình luận (0)
Lê Phương Mai
4 tháng 3 2022 lúc 19:47

C

Bình luận (0)
phạm ngọc hân
Xem chi tiết
Sơn Mai Thanh Hoàng
3 tháng 3 2022 lúc 15:33

TK

Những năm đầu hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn

* Khó khăn:

- Lực lượng chưa lớn mạnh.

- Nhà Minh áp đặt bộ máy cai trị lâu dài.

- Nhiều lần bị quân Minh tấn công, bao vây.

+ Năm 1418, Nghĩa quân phải rút lên núi Chí Linh lần 1.

+ Quân Minh huy động quân bắt Lê Lợi, Lê Lai liều chết cứu chủ tướng.

+ Năm 1421, quân Minh mở cuộc càn quét buộc nghĩa quân rút lên núi Chí Linh lần 2, nghĩa quân trải qua nhiều khó khăn.

* Biện pháp giải quyết:

- Năm 1423, Lê Lợi quyết định hoà hoãn với quân Minh .

- Năm 1424 quân Minh trở mặt tấn công => rút lên núi Chí Linh lần 3 => khởi nghĩa chuyển sang giai đoạn mới.

=> Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chuyển sang giai đoạn mới.

ND chính

Những năm đầu hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn: khó khăn và biện pháp giải quyết của nghĩa quân.

Bình luận (0)
kodo sinichi
3 tháng 3 2022 lúc 15:34

tham khảo

Những năm đầu hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn

* Khó khăn:

- Lực lượng chưa lớn mạnh.

- Nhà Minh áp đặt bộ máy cai trị lâu dài.

- Nhiều lần bị quân Minh tấn công, bao vây.

+ Năm 1418, Nghĩa quân phải rút lên núi Chí Linh lần 1.

+ Quân Minh huy động quân bắt Lê Lợi, Lê Lai liều chết cứu chủ tướng.

+ Năm 1421, quân Minh mở cuộc càn quét buộc nghĩa quân rút lên núi Chí Linh lần 2, nghĩa quân trải qua nhiều khó khăn.

* Biện pháp giải quyết:

- Năm 1423, Lê Lợi quyết định hoà hoãn với quân Minh .

- Năm 1424 quân Minh trở mặt tấn công => rút lên núi Chí Linh lần 3 => khởi nghĩa chuyển sang giai đoạn mới.

=> Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chuyển sang giai đoạn mới.

ND chính

Những năm đầu hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn: khó khăn và biện pháp giải quyết của nghĩa quân.

Bình luận (0)
Minh Anh sô - cô - la lư...
3 tháng 3 2022 lúc 15:35

Tham khảo :

Những năm đầu hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn

* Khó khăn:

- Lực lượng chưa lớn mạnh.

- Nhà Minh áp đặt bộ máy cai trị lâu dài.

- Nhiều lần bị quân Minh tấn công, bao vây.

+ Năm 1418, Nghĩa quân phải rút lên núi Chí Linh lần 1.

+ Quân Minh huy động quân bắt Lê Lợi, Lê Lai liều chết cứu chủ tướng.

+ Năm 1421, quân Minh mở cuộc càn quét buộc nghĩa quân rút lên núi Chí Linh lần 2, nghĩa quân trải qua nhiều khó khăn.

* Biện pháp giải quyết:

- Năm 1423, Lê Lợi quyết định hoà hoãn với quân Minh .

- Năm 1424 quân Minh trở mặt tấn công => rút lên núi Chí Linh lần 3 => khởi nghĩa chuyển sang giai đoạn mới.

=> Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chuyển sang giai đoạn mới.

ND chính

Những năm đầu hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn: khó khăn và biện pháp giải quyết của nghĩa quân.

Bình luận (0)
Nguyễn Bình Nguyên
1 tháng 3 2022 lúc 20:54

giup minh voi.

Bình luận (0)
Trâm Anh Huỳnh
Xem chi tiết
Hẻm và Hỉm
28 tháng 2 2022 lúc 20:18

Tk
Cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn bắt đầu từ ngày 2 tháng Giêng năm Mậu Tuất (7-2-1418) và kéo dài 10 năm, kết thúc thắng lợi bằng Hội thề Đông Quan ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi (10-12-1427), đem lại độc lập cho dân tộc. Thắng lợi của 10 năm kháng chiến chống quân Minh khẳng định ý chí, quyết tâm, sức mạnh và truyền thống toàn dân đánh giặc của quân dân Đại Việt được bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước, khối đoàn kết dân tộc và trí tuệ sáng tạo gắn liền với cội nguồn sâu xa của nền văn hiến dân tộc Việt Nam.

Bình luận (0)
Đông Hải
28 tháng 2 2022 lúc 20:19

Tham khảo:

-Cách kết thúc chiến tranh vô cùng thông minh,khôn khéo,mềm dẻo,không hấp tấp→tầm nhìn xa trông rộng của Lê Lợi cùng bộ tham mưu

 

Bình luận (0)
đào khánh lâm
Xem chi tiết
Long Sơn
25 tháng 2 2022 lúc 17:24

Tham khảo

image

Bình luận (0)
Nguyễn Bảo Nam
Xem chi tiết
Nguyễn Phương Anh
24 tháng 2 2022 lúc 21:17

sự kiện kháng chiến chống quân minh

Bình luận (0)
Nguyễn Thị Hải Vân
24 tháng 2 2022 lúc 21:25

  Tháng 9 năm 1426 kháng chiến chống quân Minh

k mik nha bn

Bình luận (0)
Nguyễn Bảo Nam
Xem chi tiết
☆Châuuu~~~(๑╹ω╹๑ )☆
24 tháng 2 2022 lúc 16:14

Tham khảo

 

Lê Lợi tổ chức hội thề Đông Quan ngày 10/12/1427 với tướng giặc Vương Thông để tạo điều kiện an toàn cho quân Minh rút về nước. Thể hiện lòng nhân đạo sáng ngời của Lê Lợi, Bộ chỉ huy nghĩa quân, của nhân dân ta đối với kẻ thù bại trận. Đó cũng chính là truyền thống quý báu của dân tộc muôn đời :

"Đem đại nghĩa thắng hung tàn

Lấy chí nhân thay cường bạo"

Tại Hội thề Đông Quan, Vương Thông cam kết rút quân về nước. Đây là sự thất bại nhục nhã của những kẻ đi xâm lược. Đất nước sạch bóng quân thù, mở ra thời kì phát triển mới của dân tộc.

Bình luận (0)
phung tuan anh phung tua...
24 tháng 2 2022 lúc 16:14

Tham Khảo

Để tạo điều kiện cho Quân Minh về Nước,thể hiện lòng sáng ngời của Lê Lợi

Bình luận (0)
꧁ 𝕍uơ𝔫𝕘 ²ᵏ⁹✔꧂
25 tháng 2 2022 lúc 19:15

THAM KHẢO:

Lê Lợi tổ chức hội thề Đông Quan ngày 10/12/1427 với tướng giặc Vương Thông để tạo điều kiện an toàn cho quân Minh rút về nước. Thể hiện lòng nhân đạo sáng ngời của Lê Lợi, Bộ chỉ huy nghĩa quân, của nhân dân ta đối với kẻ thù bại trận. Đó cũng chính là truyền thống quý báu của dân tộc muôn đời :

"Đem đại nghĩa thắng hung tàn

Lấy chí nhân thay cường bạo"

Tại Hội thề Đông Quan, Vương Thông cam kết rút quân về nước. Đây là sự thất bại nhục nhã của những kẻ đi xâm lược. Đất nước sạch bóng quân thù, mở ra thời kì phát triển mới của dân tộc.

Bình luận (0)
phạm danh
Xem chi tiết
💌Học sinh chăm ngoan🐋...
22 tháng 2 2022 lúc 20:30

Nguyên nhân thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn:

+ Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí đấu tranh, tinh thần đoàn kết, chung sức chung lòng, quyết tâm giành lại độc lập tự do cho dân tộc của toàn thể nhân dân ta.

+ Nhờ đường lối chiến lược, chiến thuật đúng đắn, sáng tạo của bộ chỉ huy, đứng đầu Ɩà Lê Lợi, Nguyễn Trãi. 

Từ đó rút ra bài học cho các cuộc khởi nghĩa :

+ Để kháng chiến thắng lợi, để đánh đuổi được giặc ngoại xâm thì phải nhờ vào tinh thần đấu tranh, đoàn kết của toàn thể nhân dân, cùng chung sức chung lòng đấu tranh bảo vệ nước nhà. Và quan trọng là phải có sự lãnh đạo tài tình, đường lối chiến thuật đúng đắn, sáng tạo thì mới có thể đấu lại quân địch.

Học tốt nhé.

 

 

Bình luận (0)
phung tuan anh phung tua...
22 tháng 2 2022 lúc 20:19

vì :+nhân dân có tinh thần chống giặc

      +có người chỉ huy giỏi là Lê lợi

      +nhân dân có tinh thần đoàn kết

Bình luận (0)
kodo sinichi
22 tháng 2 2022 lúc 20:20

vì :+nhân dân có tinh thần chống giặc

      +có người chỉ huy giỏi là Lê lợi

      +nhân dân có tinh thần đoàn kết

Bình luận (0)
Nguyễn Thị Thanh
Xem chi tiết
ĐINH THỊ HOÀNG ANH
19 tháng 2 2022 lúc 10:49

Tham khảo:

Câu 1: 

Diễn biến:

- Tháng 10-1426, 5 vạn viện binh giặc do Vương Thông chỉ huy kéo vào thành Đông Quan, nâng số quân Minh ở đây lên 10 vạn.

- Để giành thế chủ động, ngày 7-11-1426, Vương Thông tiến đánh quân chủ lực của nghĩa quân ở Cao Bộ (Chương Mĩ, Hà Nội).

- Nắm được ý đồ và hướng tiến công của giặc, nghĩa quân đã đặt phục kích ở Tốt Động và Chúc Động.

- Khi quân Minh lọt vào trận địa, nghĩa quân đã nhất tề xông thẳng, đánh tan đội hình của chúng.

Kết quả: trên 5 vạn tên giặc tử thương, bị bắt sống trên 1 vạn; Vương Thông bị thương, tháo chạy về Đông Quan. Nghĩa quân thừa thắng kéo về vây hãm Đông Quan, giải phóng thêm nhiều châu, huyện.

Câu 2:

* Những thành tựu về văn hóa:

- Văn học:

+ Văn học chữ Hán và chữ Nôm đều phát triển. Tác phẩm nổi tiếng như: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập,…

+ Văn thơ thời Lê sơ có nội dung yêu nước sâu sắc, thể hiện niềm tự hào dân tộc, khí phách anh hùng và tinh thần bất khuất của dân tộc.

- Sử học: Đại Việt sử kí, Đại Việt sử kí toàn thư, Lam Sơn thực lục,…

- Địa lí: Hồng Đức bản đồ, Dư địa chí, An Nam hình thăng đồ.

- Y học: có Bản thảo thực vật toát yếu.

- Toán học: có Đại thành toán pháp, Lập thành toán pháp.

- Nghệ thuật sân khấu như ca, múa, nhạc, chèo, tuồng được phục hồi nhanh chóng và phát triển, nhất là chèo, tuồng.

- Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc: mang nhiều nét đặc sắc. Biểu hiện ở các công trình lăng tẩm, cung điện tại Lam Kinh (Thanh Hóa). Điêu khắc thời Lê Sơ có phong cách khối đồ sộ, kĩ thuật điêu luyện.

* Những thành tựu về giáo dục, khoa cử:

- Nội dung thi cử là các sách của đạo Nho.

Dựng lại Quốc Tử Giám, mở nhiều trường học, mở khoa thi. Nội dung học tập thi cử là sách của đạo Nho. Một năm tổ chức ba kì thi: Hương - Hội - Đình.

=> Giáo dục phát triển đào tạo được nhiều nhân tài.

Câu 3:

Nhận xét phong trào nông dân Đàng Ngoài ở thế kỉ XVIII:

Cuộc khởi nghĩa mang tính chất quyết liệt của phong trào nông dân chống lại chế độ phong kiến bất công đương thời.

- Quy mô: Cuộc khỏi nghĩa có quy mô rộng khắp cả Đàng Ngoài, từ đồng bằng đến miền núi, thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Tuy nhiên, các phong trào diễn ra còn lẻ tẻ, phân tán và chưa có sự lãnh đạo thống nhất.

- So với các thế kỉ trước: phong trào nông dân thời kì này diễn ra nhiều hơn, tồn tại trong thời gian lâu hơn.

Bình luận (0)
Mai Thị Lương
Xem chi tiết
sky12
17 tháng 2 2022 lúc 10:13

Nghệ thuật quân sự nhà Lê Sơ:

+ Thứ nhất: Biết tập hợp nhân dân,đoàn kết cùng nhân dân chống giặc.

+ Thứ hai: Nghệ thuật đánh vào lòng người,tinh thần của giặc từ đó khiến chúng suy sụp ý chí chiến đấu \(\Rightarrow\) Không đánh mà thắng (Nguyễn Trãi- đánh giặc bằng bút)

+ Thứ ba : Không chỉ đánh trên chiến trường quân sự mà nghĩa quân Lam Sơn còn chú trọng trên mặt trận ngoại giao

+ Thứ tư: Tận dụng ưu thế địa lý để đánh giặc

+ Thứ năm: Có đường lối chiến lược,chiến thuật sáng tạo,đúng đắn

Bình luận (0)
Như Nguyệt
16 tháng 2 2022 lúc 19:49

Tham Khảo:

Năm 1428, phong trào Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã đánh bại quân Minh xâm lược và đô hộ nước ta, sau đó ông lên ngôi hoàng đế, chính thức lập ra triều Lê sơ. Đó là kết quả của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc (1417 – 1427), mà trực tiếp là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Khắc phục hậu quả của chiến tranh, sau khi lên ngôi vua, nhà Lê đã thực hiện nhiều chính sách tích cực nhằm xây dựng đất nước, củng cố tình hình an ninh trật tự. Đặc biệt chú ý đến các vấn đề biên viễn, do vậy, dưới thời Lê Thánh Tông, Đại Việt bước vào thời kỳ phát triển thịnh vượng được coi là hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam.

Đặc biệt, nhà Lê đã chú ý đến các miền biên viễn và vai trò của đồng bào các dân tộc thiểu số, có những chính sách thích hợp, kịp thời để khai thác sức mạnh của nhân dân trong công tác bảo vệ biên cương của Tổ quốc.

Thấm nhuần tư tưởng minh triết phương Đông "dân vi quý", hiểu rõ sức mạnh của dân, sức dân như nước, dân là gốc của đất nước - "dân duy bang bản", triều đình nhà Lê luôn xác định, nhân dân vùng biên là những người "đứng mũi chịu sào", là lực lượng chủ yếu bảo vệ biên cương. Bởi vì, họ là lực lượng luôn có mặt ở vùng biên, thường xuyên nắm bắt những hoạt động ở gần biên giới của ngoại bang, kịp thời ngăn chặn những hành vi lấn chiếm, xâm lược. Bởi vậy, nhà Lê luôn coi đây là sức mạnh to lớn và lấy làm “kế sâu gốc bền rễ”. Tư tưởng lấy nhân dân làm gốc và phát huy sức mạnh của nhân dân không chỉ được vua Lê chú trọng mà vị khai quốc công thần Nguyễn Trãi đã khẳng định: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” (Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú, xuất bản năm 1960). Nhân dân với tinh thần sắt son trong bảo vệ biên cương, đã tạo nên sức mạnh to lớn để Đại Việt ở thế kỷ này có thể đương đầu với mọi khó khăn thử thách.

Sức dân như sức nước, đó là chân lý muôn đời, đối với công tác bảo vệ biên cương, nhân dân được coi là lực lượng nòng cốt. Với đặc điểm biên cương xa xôi, đồn trú lại ít mà triều đình ở xa, sức mạnh của nhân dân đã làm nên nhiều thắng lợi. Nhân dân khu vực biên giới là phên giậu của triều đình, thực sự là tai mắt, là thiên la địa võng để giữ yên bờ cõi. Đồng bào các dân tộc miền biên giới là lực lượng thường trực rộng khắp để lập thành phòng tuyến nhân dân bảo vệ an ninh, trấn áp trộm cướp ở các làng bản xa xôi. Khi có chiến tranh, lực lượng dân binh, hương binh, thổ binh (quân của các thổ tù, châu mục) là những người trực tiếp đánh tiêu hao sinh lực địch, góp phần ngăn chặn sự xâm lược của ngoại bang. Do đó, đây vừa là lực lượng đầu tiên, tại chỗ trực tiếp bảo vệ an ninh trật tự vùng biên, đấu tranh, đối phó với các hoạt động xâm lấn lãnh thổ của nước láng giềng, vừa phối, kết hợp với quân chính quy của triều đình tiến đánh các đạo quân vũ trang xâm lược.

Với địa hình biên giới rừng núi hiểm trở, sông suối chia cắt; vùng biển đảo ngăn cách, khi có chiến sự không thể huy động kịp binh mã, lương thảo để bảo vệ bờ cõi. Do vậy, triều đình nhà Lê luôn coi trọng biện pháp huy động lực lượng nhân dân tại chỗ, vũ khí tại chỗ, lương thảo tại chỗ nhằm thiết lập thế trận nhân dân chống trả quân xâm lược; đồng thời, tiêu hao, hãm chặn đưa địch vào thế bất lợi, bị động ngay tại cửa ngõ biên giới, tạo thời cơ có lợi cho chính binh của triều đình đập tan đội quân xâm lược. Với quan điểm "bách tính giai vi binh” (trăm họ đều là lính), nhà Lê đã tập hợp được sức mạnh của nhân dân.

Để làm được điều ấy, nhà Lê đã thực hiện chính sách ban phong chức tước, quyền tự quản, đối sách mềm mỏng với man dân miền núi. Bên cạnh đặt riêng các chức Thiên phán, Tào vận, Phòng ngự sứ, Chiêu thảo sứ, triều đình còn chú trọng đặt thêm các chức như Tri châu, Đại tri châu dành riêng cho các thổ tù. Vua Lê chủ trương ban chức tước, ban quốc tính, cấp ruộng đất, trao bổng lộc nhằm biến họ thành quan chức triều đình. Đặc biệt, có Nhập nội tư không Xa Khả Sâm được hưởng đặc ân, vua ban bổng lộc và được ban quốc tính. Các con trai của Sâm đều được phong làm Đại tướng quân có nhiệm vụ trông coi miền biên cương Đà Giang.

Cùng với đó, vua Lê rất chú trọng đến công tác an dân, cố kết các dòng họ, vỗ về đồng bào các dân tộc thiểu số, để họ gắn bó với bản làng, quê hương, sẵn sàng bám trụ bảo vệ biên cương đất nước. Đối với những dòng họ lớn có uy tín trong vùng, nhà Lê cho duy trì và phát triển chế độ thế tập, tự cai quản dân tộc mình các địa phương biên giới. Tiêu biểu là Mường Lễ giao cho họ Đèo cai quản. Khi Đèo Cát Hãn làm phản, nhà Lê dẹp loạn xong lại tiếp tục giao cho con trai Hãn là Đèo Mạnh Vương nối nghiệp cha cai quản. Các dòng họ Xa, họ Cầm ở Hưng Hóa, họ Vi ở Lạng Sơn, họ Hoàng, họ Bế ở phủ Cao Bình (Thái Nguyên)... cũng được duy trì nối đời thế tập.

Để sử dụng sức dân vào công tác quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh trong khu vực biên giới, nhà Lê đã thực hiện chính sách ưu đãi với cư dân nơi biên giới, giảm nhẹ thuế và các nghĩa vụ khác, tôn trọng văn hóa và phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc thiểu số, nhưng “giáo hóa” họ theo xu thế truyền thống tốt đẹp của từng dân tộc, thống nhất, đồng đều giữa các cộng đồng tộc người. Các triều đại phong kiến, nước ta đều cho mở các chợ biên giới để thông thương với nước ngoài, một mặt, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; mặt khác, để họ do thám tình hình các nước láng giềng, kịp thời phát hiện, ngăn chặn người nước ngoài vào sâu nội địa. Đồng thời, Nhà nước đưa ra nhiều chính sách: Khuyến khích nhân dân, kể cả thành phần tù phạm, chú trọng các “khổn quan” phát triển đồn điền, khai khẩn đất hoang, mở rộng diện tích canh tác; cho vay vốn, giống, cấp dụng cụ, trâu bò, nhằm phát triển kinh tế, xác lập chính quyền Nhà nước ở biên giới, khẳng định chủ quyền lãnh thổ. Bên cạnh đó, Nhà nước còn thực hiện nhiều hình thức khen thưởng (với khổn quan thì tăng thêm một cấp, với nhân dân ban tặng đất vừa khai khẩn, không thu thuế nhiều năm hoặc đánh thuế nhẹ), động viên quan chức, nhân dân các dân tộc thiểu số tham gia khai khẩn đất hoang, lập đồn điền ở miền biên viễn.

 

Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Pa Tần, BĐBP Lai Châu xuống bản tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tới người dân nơi đơn vị đóng quân. Ảnh: Đức Duẩn

Để an dân, nhà Lê còn thực hiện nhiều biện pháp: Lập các kho dự trữ lương thảo ở các địa phương để cứu đói khi thiên tai dịch bệnh, để việc biên phòng được đầy đủ, bảo đảm cho việc động binh khi biên phòng hữu sự. Cùng với chính sách ưu đãi đặc biệt, nhà Lê cũng sử dụng biện pháp cứng rắn, trấn áp những thổ tù, châu mục không bảo vệ được sự toàn vẹn lãnh thổ, nhưng cũng sẵn sàng tha tội, để họ trở về phụng sự triều đình.

Với quan niệm nhân dân là nguồn gốc của mọi thắng lợi trong công cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, nhà Lê đã nêu cao vai trò của nhân dân với tuyên ngôn “chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Mọi chính sách xây dựng phát triển đất nước đều đem lại quyền lợi cho nhân dân, đây là điều không phải triều đại phong kiến nào cũng làm được. Sức mạnh của nhân dân là nền tảng để thực hiện tốt mọi đường lối, chủ trương của Đảng như Hồ Chủ tịch từng căn dặn: “Gốc vững thì cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.

Bình luận (1)