haha rãnh trai hay gái ib chẳng được
Bài học từ sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu
Thứ Hai, 06/11/2017, 15:59:58
NDĐT - Những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Liên Xô và Đông Âu đã từng bước rơi vào khủng hoảng và sụp đổ. Đó là “một chấn động chính trị khủng khiếp nhất thế kỷ XX” theo cách nói của Tổng thống Nga V.Putin trong Thông điệp Liên bang năm 2005.
Xét trên phương diện lực lượng, đây là tổn thất to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới. Thành trì của chủ nghĩa xã hội (CNXH) đã sụp đổ, chỗ dựa vững chắc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã không còn, các nước XHCN còn lại đứng trước thử thách khốc liệt do hệ quả của sự tổn thất đó để lại. Song, khi thời gian đã qua đi, những nguyên nhân về sự sụp đổ của mô hình CNXH Xô viết đã được tổng kết, các nước XHCN còn lại trên thế giới cũng từng bước vượt qua được khủng hoảng, tìm ra những con đường mới để tiếp tục kiên định đi tới lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Sự kiện Liên Xô và Đông Âu tan vỡ có lẽ cũng cần được nhìn nhận dưới một góc độ ngày càng đầy đủ hơn, không chỉ là một tổn thất, mà còn là một sự kiện mang lại những bài học quý báu cho các nước XHCN. Sự phủ định biện chứng một mô hình sai lầm, nhiều khiếm khuyết là cần thiết cho sự phát triển trong tương lai của CNXH. Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ sự kiện lịch sử đau đớn ngoài ý muốn của những người cộng sản chân chính đã có ý nghĩa to lớn đối với các nước XHCN, trong đó có Việt Nam để tiếp tục đạt được nhiều thành tựu hơn nữa trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Từ sự sụp đổ và tan rã của CNXH ở Liên Xô, chúng ta có thể rút ra được những bài học bổ ích sau đây:
Một là, phải thường xuyên chăm lo xây dựng đảng để giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng, bộ máy chính quyền trong sạch vững mạnh và gắn bó với nhân dân. Xây dựng đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, luôn luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, nắm chắc quần chúng và động viên được sức mạnh của nhân dân.
Đảng lãnh đạo bằng đường lối, có đường lối lãnh đạo đúng đắn nhưng đường lối đó chỉ trở thành sức mạnh vật chất khi quần chúng nhân dân hiện thực hóa trong đời sống xã hội. Do vậy, đòi hỏi mỗi đảng cộng sản phải trung thành với lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo các nguyên lý cách mạng để đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn và phù hợp với thực tiễn. Để lãnh đạo, quản lý điều hành đất nước có hiệu quả, Đảng cầm quyền, bộ máy chính quyền phải gắn bó mật thiết với nhân dân, được lòng dân, nắm chắc dân và quy tụ được sức mạnh của nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khi Đảng và chính quyền bị tha hóa biến chất, xa dân và sách nhiễu dân, mối quan hệ với nhân dân bị rạn vỡ cũng đồng nghĩa với Đảng sẽ mất quần chúng, nhà nước và chế độ sẽ đánh mất cơ sở xã hội chính trị thì tất yếu bị lật đổ.
Đảng luôn luôn phải giữ vai trò cầm quyền, có nghĩa là Đảng Cộng sản phải thể hiện quyền lực chính trị, quyền lãnh đạo về chính trị và không bao giờ chia sẻ quyền lực đó cho bất kỳ lực lượng nào khác. Đảng mất là mất hết, vì Đảng lãnh đạo toàn bộ các mặt, các lĩnh vực của xã hội, lãnh đạo hệ thống chính trị, nhân sự cán bộ… Lãnh đạo Nhà nước thực hiện tốt chức năng, cụ thể hóa đường lối của Đảng, quản lý tốt xã hội, kiến tạo xã hội mới, định ra chính sách xã hội đúng đắn đáp ứng lợi ích chính đáng của nhân dân, thực sự dân chủ, lắng nghe và tôn trọng những nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đảng và bộ máy chính quyền là “xương sống” của chế độ nên phải vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, thực sự vì nhân dân, thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý điều hành xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân thì mới bảo đảm cho sự tồn tại của chế độ xã hội và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Hai là, vấn đề then chốt có ý nghĩa quyết định là xây dựng và thực hiện tốt chiến lược công tác cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì và xây dựng nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý kế cận, kế tiếp ở các cấp từ Trung ương đến địa phương. Trong công tác tổ chức sắp xếp cán bộ, nhất là những vị trí chủ chốt cần lựa chọn đúng những người thực sự tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, đạo đức và lối sống, năng lực trí tuệ và trình độ tổ chức thực tiễn, gần gũi nhân dân và được tín nhiệm, bảo đảm sự vững vàng về chính trị. Kiên quyết loại khỏi bộ máy lãnh đạo của Đảng và cơ quan Nhà nước những phần tử cơ hội thực dụng, tha hóa về chính trị tư tưởng và đạo đức, lối sống, sách nhiễu dân và xa dân, không được tín nhiệm. Thực hiện tốt công tác quản lý cán bộ, đánh giá và sử dụng cán bộ vì đó là gốc của mọi công việc, không để mất cảnh giác để các thế lực thù địch cài cắm các phần tử cơ hội, phần tử chống đối phản bội chui sâu, leo cao trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Ba là, xây dựng nền kinh tế ổn định và phát triển vững chắc, giữ được độc lập tự chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế. Sự ổn định và phát triển vững chắc của nền kinh tế là nền tảng vật chất bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước. Khi kinh tế lâm vào khủng hoảng suy thoái, đất nước dễ lâm vào mất ổn định chính trị, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lôi kéo, kích động nhân dân chống lại Đảng và chính quyền, làm chuyển hóa chế độ xã hội theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Cần giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, bảo đảm đúng định hướng phát triển của quốc gia, không để cho bất kỳ một thế lực nào điều khiển và thao túng nền kinh tế. Cần duy trì được tốc độ tăng trưởng hợp lý và ổn định, phát huy tốt năng lực nội sinh, tạo được nhiều việc làm để tăng thu nhập của người dân, bảo đảm công bằng xã hội, an sinh xã hội, tạo cơ sở vật chất để đất nước ổn định và phát triển bền vững. Mở rộng hội nhập quốc tế trong điều kiện toàn cầu hóa, đặc biệt là hợp tác về kinh tế là xu thế khách quan mà các nước XHCN phải tham gia, nếu không thì khó có thể tồn tại và phát triển được. Vấn đề đặt ra là các nước XHCN mở rộng hội nhập quốc tế để tận dụng được những thành tựu khoa học cộng nghệ, tận dụng được nguồn lực tài chính của các nước phát triển làm cho sản xuất của đất nước ngày càng lớn mạnh đủ sức canh tranh, lợi ích quốc gia - dân tộc và cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội ngày càng được củng cố.
Bốn là, tăng cường công tác chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên, nhân dân; phòng, chống có hiệu quả chiến lược “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Công tác tư tưởng, lý luận phải trở thành vấn đề quan trọng hàng đầu trong điều kiện Đảng cầm quyền, trước hết phải quan tâm thường xuyên đến công tác giáo dục lý luận chính trị cho các đối tượng trong xã hội, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên phải là những người nắm vững bản chất các nguyên lý cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì mới trở thành những người tiên phong. Nhận thức sâu sắc nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của CNXH ở Liên xô và Đông Âu, với những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Giáo dục mục tiêu, lý tưởng của Đảng, quán triệt kịp thời những nghị quyết đến cán bộ, đảng viên. Tuyên truyền, vạch trần âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc XHCN. Củng cố niềm tin có cơ sở khoa học của cán bộ, đảng viên, của nhân dân vào con đường đi lên CNXH trong giai đoạn hiện nay. Cần huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong tiến hành công tác chính trị tư tưởng, đặc biệt là phải phát huy vai trò của cơ quan và cán bộ chuyên trách từ Trung ương đến cơ sở.
Năm là, Đảng cầm quyền phải nắm chắc lực lượng vũ trang, đặc biệt chăm lo xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân thực sự trung thành, tin cậy về chính trị, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, làm nòng cốt trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Việc nắm chắc và chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang, nhất là quân đội nhân dân và công an nhân dân vững mạnh, thực sự trung thành và tin cậy về chính trị là một nguyên tắc chiến lược của đảng cầm quyền, liên quan trực tiếp đến sự sống còn của quốc gia dân tộc và chế độ. Đảng cầm quyền phải thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng và rèn luyện bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ trang, luôn trung thành với Đảng, với nhân dân. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm, bản lĩnh chính trị, quyết tâm chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ quân đội và công an, sẵn sàng nhận và thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao trong các tình huống không để bất ngờ xảy ra. Đảng luôn luôn giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang, nhất là quân đội và công an; đặc biệt chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội và công an vừa hồng, vừa chuyên... Sự vững mạnh của lực lượng vũ trang không chỉ là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, mà còn là đội quân lao động sản xuất, đội quân công tác, lực lượng chính trị tin cậy của Đảng và Nhà nước. Đây là lực lượng nòng cốt để cùng toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, chủ động xử lý kịp thời và đập tan âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá con đường đi lên CNXH.
Trên đây là những bài học kinh nghiệm rút ra từ sự sụp đổ mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, trong điều kiện hiện nay kẻ thù sử dụng nhiều thủ đoạn rất thâm độc để tiếp tục tiến công nhằm xóa bỏ chế độ XHCN của các nước còn lại. Theo đó, việc nghiên cứu nguyên nhân và rút ra bài học kinh nghiệm từ sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu vận dụng vào thực tiễn xây dựng CNXH ở mỗi nước hiện nay là rất cần thiết.
Liên Xô :
Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết (Liên Xô) đã chính thức chấm dứt tồn tại ngày 26 tháng 12 năm 1991 bởi bản tuyên bố số 142-H của Xô viết Tối cao. Tuyên bố này công nhận nền độc lập của mười hai nước cộng hòa của Liên bang Xô viết còn lại (tổng cộng 15 nước) và thành lập Cộng đồng các Quốc gia Độc lập (CIS). Một ngày trước đó, 25 tháng 12 năm 1991, tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev đã từ chức và bàn giao mật mã kích hoạt tên lửa hạt nhân của Xô Viết cho tổng thống Nga Boris Yeltsin. Vào hồi 7:32 tối cùng ngày, quốc kỳ Liên Xô đã được hạ xuống từ điện Kremli và thay thế bằng quốc kỳ Nga.
Việt Nam :
Bởi vì, ai cũng thấy là chủ nghĩa xã hội đã ở vào giờ Thứ 25 trên phạm vi toàn cầu, việc thực hiện xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam đã hoàn toàn thất bại sau 10 năm thực hiện triệt để (1975-1985) dù cố gắng “Đổi mới” 10 năm sau đó (1985-1995) theo gương “Cải tổ” của Liên Xô vẫn không cứu vãn được; phải “mở cửa” cho các nước tư bản tràn vào để được cứu nguy, tránh sự sụp đổ như Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu.
~ Hok tốt ~
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu hay được phương Tây gọi Cuộc cách mạng năm 1989 (cũng được gọi là Mùa thu của Cộng sản, Sự sụp đổ của khối Cộng sản chủ nghĩa, Các cuộc cách mạng ở Đông Âu và Mùa thu của Quốc gia [2]) là sự sụp đổ của các nhà nước cộng sản theo mô hình kế hoạch hóa của Liên Xô ở Đông Âu.
Những sự kiện này bắt đầu từ Ba Lan vào năm 1989,[3][4] và tiếp tục ở Hungary, Đông Đức, Bulgaria, Tiệp Khắc và România. Một đặc tính phổ biến cho hầu hết các cuộc cách mạng này là việc sử dụng rộng rãi các chiến dịch của lực lượng đối lập chống lại chế độ độc đảng và góp phần gây áp lực với sự thay đổi [5]. Romania là nước Đông Âu duy nhất lật đổ chế độ Xã hội chủ nghĩa của mình bằng bạo lực [6]. Sự kiện Thiên An Môn đã không thành công trong việc kích thích sự thay đổi chính trị lớn ở Trung Quốc. Tuy nhiên, hình ảnh mạnh mẽ của các sự thách thức trong những cuộc biểu tình đó đã giúp gây ra các sự kiện ở những phần khác của thế giới. Trong số các cuộc biểu tình chống Cộng nổi tiếng nhất là sự sụp đổ của Bức tường Berlin, đã phục vụ như là cửa ngõ tượng trưng để thống nhất nước Đức vào năm 1990.
Việc Liên Xô bị giải thể vào cuối năm 1991 dẫn đến kết quả là Nga và 14 quốc gia tuyên bố tách khỏi Liên Xô: Armenia, Azerbaijan, Belarus, Estonia, Georgia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Latvia, Litva, Moldova, Tajikistan, Turkmenistan, Ukraina và Uzbekistan. Chủ nghĩa xã hội sụp đổ tại Albania và Nam Tư từ năm 1990 đến 1992, chia thành năm nước kế tục: Slovenia, Croatia, Cộng hòa Macedonia, Bosnia và Herzegovina, và Cộng hòa Liên bang Nam Tư (gồm Serbia, Montenegro và Kosovo). Tác động này cũng được cảm thấy ở hàng chục quốc gia xã hội chủ nghĩa khác. Chế độ Xã hội Chủ nghĩa đã bị bỏ rơi ở các nước như Campuchia, Ethiopia, Mông Cổ và Nam Yemen... Sự sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến tuyên bố kết thúc của Chiến tranh Lạnh.
Mục lục
1Bối cảnh1.1Sự nổi lên của phong trào cộng sản1.2Áp lực từ phương Tây1.3Sự xuất hiện của Công đoàn Đoàn Kết tại Ba lan1.4Mikhail Gorbachev2Dự đoán về sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết3Khởi đầu sụp đổ4Quá trình sụp đổ4.1Ba Lan4.2Hungary4.3Đông Đức4.4Tiệp Khắc4.5Bulgaria4.6Romania4.7Albania4.8Nam Tư5Hội nghị thượng đỉnh Malta6Trình tự thời gian bầu cử ở Đông Âu từ 1989-19917Sự sụp đổ của Liên Bang Xô viết8Ảnh hưởng của Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu8.1Các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa trên thế giới8.1.1Châu Phi8.1.2Trung Đông8.1.3Châu Á8.1.4Mỹ Latinh8.1.5Châu Đại Dương8.2Các nước khác9Nguyên nhân của sự sụp đổ hệ thống chủ nghĩa xã hội10Xem thêm11Chú thích12Tham khảoBối cảnh[sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ (timeline) sự sụp đổ của các nhà nước XHCN ở các nước Đông Âu và sự tan rã của Liên Xô
Sự nổi lên của phong trào cộng sản[sửa | sửa mã nguồn]
Xem thêm: Liên Xô, Khối phía đông, và Danh sách các nước xã hội chủ nghĩa
Ý tưởng của Chủ nghĩa xã hội đã đạt được giữa các tầng lớp công nhân của thế giới từ thế kỷ 19, lên đến đỉnh điểm trong thế kỷ 20 khi một số quốc gia hình thành Đảng Cộng sản của riêng họ. Thông thường, chủ nghĩa xã hội không được ưa chuộng bởi tầng lớp cầm quyền cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỉ 20; do vậy, ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa bị đàn áp và điều này đã được thực hành ngay cả ở các nước thực hiện chế độ đa đảng.
Cuộc cách mạng Bolshevik năm 1917 đã chứng kiến sự lật đổ một nhà nước dân tộc Nga trước đó cùng với chế độ quân chủ của nó. Những người Bolshevik bao gồm các dân tộc của Nga đã lập ra Liên Xô trong suốt giai đoạn sau đó.
Trong thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, phong trào Cộng sản đã trỗi dậy tại nhiều nơi trên thế giới (ví dụ như ở Vương quốc Nam Tư thì nó đã phát triển phổ biến tại các đô thị trong suốt những năm 1920). Điều này dẫn đến một loạt các cuộc thanh trừng ở nhiều nước để dập tắt phong trào.
Sau thế chiến II, một loạt các quốc gia cộng sản chủ nghĩa đã ra đời ở châu Á và Đông Âu, tiêu biểu là CHND Trung Hoa. Các Đảng Cộng sản được thành lập ngày càng nhiều ở khắp nơi trên thế giới.
Khi phong trào cộng sản đã vào một giai đoạn phát triển phổ biến trên khắp Đông Âu, hình ảnh của họ cũng đã bắt đầu mờ nhạt đi. Khi các nhóm chính trị đối lập tăng cường các chiến dịch của họ để chống lại phong trào cộng sản, họ đã dùng đến bạo lực (bao gồm cả vụ đánh bom và giết người) để đạt được mục tiêu của họ: điều này dẫn phần lớn dân chúng trước đây ủng hộ Đảng Cộng sản đã mất sự quan tâm đến ý thức hệ này. Một sự hiện diện của Đảng Cộng sản vẫn được duy trì nhưng mất đi vai trò trước kia của nó.
Áp lực từ phương Tây[sửa | sửa mã nguồn]
Sau thế chiến thứ II, mặc dù là nước thắng trận nhưng Liên bang Xô Viết (gọi tắt là Liên Xô) bị thiệt hại nặng nề về người và của, đặc biệt là vấp phải sự chống phá của các phe đối lập nói chung và các nước tư bản nói riêng. Các nước tư bản đứng đầu là Mỹ, thực hiện chiến lược "toàn cầu chống XHCN" bằng những hành động cô lập kinh tế-chính trị, cũng từ đây thế giới bước vào thời kì "chiến tranh lạnh. Mỹ đưa ra lệnh "cấm vận" đối với Liên Xô, khiến tình hình nước này đã khó khăn nay càng trở nên khó khăn hơn. Bên cạnh đó, Mỹ thành lập "Khối Bắc Đại Tây Dương" (gọi tắt là NATO) để bao vây chính trị, tạo thế lực đồng minh chống XHCN. Để thoát khỏi áp lực nặng nề đó, Liên Bang Xô Viết đã thành lập "Khối quân sự Warszawa", tạo đối trọng với NATO và thành lập "Hội đồng tương trợ kinh tế" nhằm giải quyết tình trạng cô lập kinh tế của các nước phương Tây và Mỹ.[cần dẫn nguồn]
Sự xuất hiện của Công đoàn Đoàn Kết tại Ba lan[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Công đoàn Đoàn kết
Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Ba Lan trong năm 1980 đã dẫn đến sự hình thành của tổ chức công đoàn độc lập, Công đoàn Đoàn kết, do Lech Wałęsa lãnh đạo, dần dần đã trở thành một lực lượng chính trị đối lập. Ngày 13 tháng 12 năm 1981, sau khi Công đoàn Đoàn kết thể hiện rõ tư tưởng đối lập với chính phủ, Thủ tướng Ba Lan Wojciech Jaruzelski bắt đầu trấn áp Công đoàn Đoàn kết bằng cách tuyên bố thiết quân luật ở Ba Lan, đình chỉ hoạt động và tạm thời bắt giam tất cả các nhà lãnh đạo của tổ chức này.
Mikhail Gorbachev[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Mikhail Gorbachev, Perestroika, Glasnost, và Dân chủ hóa (Công đoàn Xô Viết)
Mặc dù một số quốc gia khối Đông đã nỗ lực cải cách kinh tế và chính trị, từ những năm 1950 (ví dụ Cách mạng Hungary năm 1956 và Mùa xuân Prague năm 1968), Mikhail Gorbachev trở thành tổng bí thư tối cao Liên Xô năm 1985 với những chính sách cải cách xu hướng mở cửa, tự do hóa. Vào giữa những năm 1980, một thế hệ trẻ của Liên Xô xuất hiện, do Gorbachev lãnh đạo, đã bắt đầu ủng hộ những cải cách mới nhằm thoát khỏi tình trạng phát triển trì trệ dưới thời tổng bí thư Brezhnev. Sau nhiều thập kỷ, Liên Xô hiện đang phải đối mặt với một giai đoạn trì trệ kinh tế nghiêm trọng và cần cải tiến công nghệ cũng như vay vốn phương Tây để bù đắp cho sự lạc hậu ngày càng tăng. Các chi phí để duy trì quân sự, KGB, trợ cấp cho nước ngoài, vv.. khiến nền kinh tế bao cấpcủa Liên Xô ngày càng lâm vào trì trệ.
Những dấu hiệu đầu tiên của cuộc cải cách lớn là vào năm 1986 khi Gorbachev đưa ra chính sách glasnost (chính sách công khai hóa và minh bạch hóa đến mức tối đa các hoạt động của các cơ quan nhà nước và tự do thông tin và ngôn luận) và chính sách perestroika (chính sách cải cách chính trị và kinh tế) ở Liên Xô, để nhấn mạnh việc chống tham nhũng trong đội ngũ lãnh đạo Liên Xô và sự cần thiết của việc tái cơ cấu nền kinh tế. Vào mùa xuân năm 1989, Liên Xô không chỉ trải qua cuộc tranh luận truyền thông sôi nổi mà còn tổ chức các cuộc bầu cử đa ứng cử đầu tiên trong Đại hội nhân dân mới thành lập. Trong khi chính sách glasnost bề ngoài ủng hộ sự cởi mở và phê phán chính trị, những điều này chỉ được phép trong một phạm vi hẹp do nhà nước quyết định. Công chúng trong khối Đông vẫn phải chịu giám sát chính trị bởi các lực lượng cảnh sát.
Gorbachev kêu gọi các chính quyền Trung ương và chính quyền ở Đông Nam Âu áp dụng chính sách perestroika và glasnost ở các quốc gia của họ. Tuy nhiên, trong khi các nhà cải cách ở Hungary và Ba Lan được khuyến khích áp dụng bởi lực lượng tự do lan rộng từ khối phía đông, các nước khối Đông khác vẫn còn hoài nghi công khai và thể hiện sự ác cảm trong cải cách này. Những người tin rằng những sáng kiến cải cách của Gorbachev sẽ không trụ được lâu bao gồm các nhà cộng sản Erich Honecker của Đông Đức, Todor Zhivkov của Bulgaria, Gustáv Husák của Tiệp Khắc và Nicolae Ceauşescu của Romania đã lờ đi những lời kêu gọi thay đổi.[7] "Khi người hàng xóm của bạn dán giấy tường mới nó không có nghĩa là bạn cũng phải làm theo", đó là tuyên bố của một thành viên bộ chính trị Đông Đức.[8]
Dự đoán về sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết[sửa | sửa mã nguồn]
Có nhiều dự đoán rằng Liên bang Xô viết cuối cùng sẽ bị tan rã trước khi quá trình giải thể bắt đầu với sự sụp đổ của Bức tường Berlin vào tháng 10 năm 1989.
Các tác giả dự đoán sự sụp đổ của Liên bang Xô viết bao gồm Andrei Amalrik trong cuốn Liên bang Xô viết sẽ tồn tại đến 1984? (1970), học giả người Pháp Emmanuel Todd trong La chute finale: Essais sur la décomposition de la sphère Soviétique (The Fall Final: Bài luận về sự tan rã của Liên Xô) (1976), nhà kinh tế Ravi Batra trong cuốn sách của ông là Sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và cộng sản năm 1978 và sử gia người Pháp Hélène Carrère d'Encausse.[9] Ngoài ra, Walter Laqueur lưu ý rằng "bài báo khác nhau xuất hiện trong các tạp chí chuyên ngành về các vấn đề của cộng sản và nghiên cứu về sự phân rã và sự sụp đổ có thể có của chế độ Xô viết."[10]
Tại Hoa Kỳ, chủ yếu là giữa những người bảo thủ,[11][12] các chính trị gia nhất ghi có dự đoán sự sụp đổ của Liên bang Xô viết là Tổng thống Ronald Reagan.
Các dự đoán được thực hiện trước 1980 về sự sụp đổ của Liên Xô đều coi sự sụp đổ là điều xảy ra trong tương lai hơn là một xác suất. Tuy nhiên, đối với một số ý tưởng (như Amalrik và Todd) được nghiên cứu thấu đáo hơn là suy nghĩ thoáng qua.[10] Trong trường hợp của Ludwig von Mises, ông gọi là sự sụp đổ của Liên Xô là một sự chắc chắn tuyệt đối, tuy nhiên ông không đưa ra bất kỳ khoảng thời gian hợp lý để kiểm tra dự đoán của mình.
Khởi đầu sụp đổ[sửa | sửa mã nguồn]
Người dân mang tem phiếu xếp hàng để mua tại một cửa hàng, hình ảnh tiêu biểu về thời bao cấp ở Ba Lan trong những năm 1980
Cuối những năm 1980, hầu như tất cả các nền kinh tế bao cấp các ở nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô đều có vấn đề. Người dân ở Kavkaz và vùng Bal đã yêu cầu quyền tự chủ từ Moskva, sau đó điện Kremlin đã bị mất quyền kiểm soát tại một số khu vực và lãnh thổ trong Liên Xô. vào tháng 11 năm 1988, Cộng hòa Chủ nghĩa Xô Viết Estonia đã ban hành tuyên bố chủ quyền lãnh thổ,[13] dẫn đến các nước cộng hòa khác trong khối phía Đông cũng đưa ra tuyên bố tương tự về quyền tự chủ.
Thảm họa hạt nhân Chernobyl xảy ra hồi tháng 4 -1986 đã tác động, ảnh hưởng rất lớn lên chính trị và xã hội, Thảm họa Chernobyl là một trong những yếu tố khởi nguồn quan trọng gây ra sự sụp đổ khối Đông và Liên Xô năm 1991. Vụ tai nạn đã tác động to lớn đối với chính sách Glasnost của Liên Xô nhằm tăng sự minh bạch hóa đến mức tối đa các hoạt động của các cơ quan nhà nước[14][15] Không thể thống kê hết được những hậu quả do thảm họa hạt nhân gây ra. Theo Mikhail Gorbachev, Liên Xô đã chi 18 tỷ rúp (tương đương 18 tỷ đô la Mỹ vào thời điểm đó) về ngăn chặn và khử nhiễm phóng xạ, Ngân khố Liên Xô gần như cạn kiệt và bị phá sản.[16] Ở Ukraine, thảm họa Chernobyl là một biểu tượng của phong trào dân tộc chủ nghĩa, biểu tượng của tất cả những gì Liên Xô đã làm sai gây hậu quả nghiêm trọng, Ukraine đã phải phát triển một hệ thống phúc lợi lớn và nặng nề để khắc phục những hậu quả hạt nhân.
Quá trình sụp đổ[sửa | sửa mã nguồn]
Các sự kiện năm 1989 còn được gọi là Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản (Fall of Communism, the Collapse of Communism), các cuộc biểu tình tại Đông Âu là những phong trào lật đổ các nhà nước xã hội chủ nghĩa tại Liên Xô của các nước Đông Âu.
Những sự kiện bắt đầu tại Ba Lan,[3][17] và tiếp tục ở Hungary, Đông Đức, Bulgaria, Tiệp Khắc và Romania. Romania là nước duy nhất thuộc Đông Âu lật đổ chế độ cộng sản bằng bạo lực [6] Các cuộc biểu tình Thiên An Môn năm 1989 không thành công để kích thích những thay đổi chính trị lớn ở Trung Quốc. Tuy nhiên, hình ảnh mạnh mẽ của người biểu tình trong cuộc biểu tình đó đã giúp để thúc đẩy các sự kiện tương tự ở các khu vực khác của thế giới.
Albania và Nam Tư từ bỏ chủ nghĩa cộng sản từ năm 1990 đến 1992, chia thành năm nước năm 1992: Slovenia, Croatia, Cộng hòa Macedonia, Bosnia và Herzegovina, và Cộng hòa Liên bang Nam Tư (gồm Serbia và Montenegro). Liên Xô bị giải thể vào cuối năm 1991, kết quả là Nga và 14 quốc gia mới tuyên bố độc lập từ Liên bang Xô Viết: Armenia, Azerbaijan, Belarus, Estonia, Georgia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Latvia, Lithuania, Moldova, Tajikistan, Turkmenistan, Ukraine và Uzbekistan. Tác động của sự sụp đổ này được cảm thấy ở hàng chục quốc gia xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Cộng sản đã bị bỏ rơi ở các nước như Campuchia, Ethiopia, và Mông Cổ và Nam Yemen. Sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN đã dẫn tới tuyên bố kết thúc chiến tranh lạnh.
Việc áp dụng các hình thức khác nhau của nền kinh tế thị trường thường dẫn đầu trong việc giảm mức sống ở các nước Đông Âu thời kỳ hậu Cộng sản, cùng với tác dụng phụ bao gồm sự gia tăng của đầu sỏ chính trị kinh doanh tại các nước như Nga, và phát triển xã hội và kinh tế. Cải cách chính trị đã bị thay đổi, một số quốc gia Đảng cộng sản vẫn có thể giữ cho mình quyền lực, chẳng hạn như Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, trong khi đối với các quốc gia các đảng chính trị khác đã thành công. Nhiều tổ chức cộng sản và xã hội ở phương Tây có tôn chỉ quay sang nền dân chủ xã hội. Các cảnh quan chính trị châu Âu đã quyết liệt thay đổi, với rất nhiều nước Đông Âu gia nhập NATO và hội nhập kinh tế mạnh mẽ hơn châu Âu và xã hội tiếp đó.
Ba Lan[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Kết thúc của Chủ nghĩa Cộng sản tại Ba Lan
Chủ tịch Công đoàn Đoàn kết Lech Wałęsa (giữa) với Tổng thống Mỹ George H. Bush (phải) và Barbara Bush (trái) ở Warsaw, tháng 7 năm 1989.
Đại hội lần thứ tư của Liên Hợp Đảng Người lao động Ba Lan, được tổ chức vào năm 1963.
Vào tháng 4 năm 1989, Phong trào Công đoàn Đoàn kết lại được hợp pháp hóa và được tham gia cuộc bầu cử quốc hội vào ngày 4 tháng 6 năm 1989 (bất ngờ, ngày hôm sau vụ đàn áp những người biểu tình Trung Quốc nửa đêm ở Thiên An Môn). Một trận động đất chính trị diễn ra. Chiến thắng Công đoàn đoàn kết vượt qua tất cả các dự đoán. Các ứng cử viên giành được tất cả các chỗ họ được phép cạnh tranh trong Hạ viện, trong khi tại Thượng viện họ chiếm 99 trong số 100 ghế (với các ghế còn lại được thắng cử bởi một ứng cử viên độc lập). Đồng thời, nhiều ứng cử viên nổi bật của Đảng Cộng sản đã thất bại để đạt được ngay cả những số phiếu tối thiểu cần thiết để nắm bắt những ghế đã được dành riêng cho họ.
Một chính phủ Phi Cộng sản mới, lần đầu tiên của loại hình này ở các nước Khối Đông Âu, đã tuyên thệ nhậm chức vào văn phòng vào tháng 9 năm 1989.
Hungary[sửa | sửa mã nguồn]
Theo sau Ba Lan, Hungary đã tới để trở lại với một chính phủ không cộng sản. Mặc dù Hungary đã đạt được một số cải cách kinh tế lâu dài và tự do hóa chính trị giới hạn trong những năm 1980, cải cách chính chỉ xảy ra sau khi János Kádár làm Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản năm 1988. Cùng năm đó, Quốc hội đã thông qua một "gói cải cách dân chủ", trong đó bao gồm đa nguyên, tự do hội họp, lập hội, và báo chí; một luật bầu cử mới, và sửa đổi một hiến pháp cấp tiến, và nhiều hoạt động khác. Trong tháng 10 năm 1989, Đảng Cộng sản triệu tập đại hội cuối cùng của mình và sau đó tái thành lập trở thành Đảng Xã hội Hungary, mà vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay (tên gọi là MSZP).Trong một phiên họp lịch sử từ 16 tháng 10 đến 20 tháng 10, Quốc hội đã thông qua luật cho phép bầu cử quốc hội đa đảng và một cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp. Pháp luật về chuyển Hungary từ Cộng hòa Nhân dân thành Cộng hòa Hungary, đảm bảo nhân quyền và dân quyền, và tạo ra một cấu trúc thể chế đảm bảo phân chia quyền lực giữa các ngành tư pháp, lập pháp, và hành pháp của chính phủ. Hungary đề nghị quân đội Xô viết "về nhà." Một ý tưởng đầu tiên được đề xuất bởi Viktor Orbán tại lễ tang chôn lại của Imre Nagy.
Đông Đức[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Die Wende, Tái thống nhất nước Đức, và Cách mạng hòa bình
Bức tường Berlin tại Cổng Brandenburg, ngày 10 tháng 11 năm 1989
Sau khi biên giới cải cách đã được mở từ phía Hungary, ngày càng có nhiều người Đông Đức đã bắt đầu di cư sang Tây Đức thông qua biên giới của Hungary với nước Áo. Đến cuối tháng 9 năm 1989, hơn 30.000 người Đông Đức đã trốn thoát sang Tây Đức trước khi Đông Đức từ chối cho phép du lịch đến Hungary, để lại CSSR (Tiệp Khắc) là các nhà nước láng giềng duy nhất mà người Đông Đức có thể đi du lịch. Hàng ngàn người Đông Đức đã cố gắng để tiếp cận Tây Đức bằng cách chiếm các cơ sở ngoại giao ở thủ đô Đông Âu khác, đặc biệt là Đại sứ quán Prague, nơi hàng ngàn người cắm trại trong vườn lầy lội từ tháng Tám đến tháng Mười Một. Đông Đức đã đóng cửa biên giới với Tiệp Khắc (CSSR) vào đầu tháng Mười, từ đó cô lập mình khỏi tất cả các nước láng giềng. Do cơ hội cuối cùng để tẩu thoát đã bị đóng lại, những người Đông Đức bắt đầu cuộc biểu tình Ngày Thứ Hai. Hàng trăm ngàn người dân ở một số thành phố - đặc biệt là Leipzig - đã tham gia.
Sau khi các cuộc biểu tình ngày 02 Tháng Mười, lãnh đạo Đảng Thống nhất Xã hội Chủ nghĩa (SED) Erich Honecker đã ra lệnh bắn và giết cho quân đội [19] Đảng Cộng sản chuẩn bị một lực lượng cảnh sát rất lớn, dân quân, cảnh sát chìm (Stasi), và quân tác chiến và đã có tin đồn về một thảm sát Thiên An Mônnữa. [20]
Ngày 06 tháng 10 và 07 tháng 10, Gorbachev viếng thăm Đông Đức để đánh dấu kỷ niệm 40 năm nước Cộng hòa Dân chủ Đức, và thúc giục lãnh đạo Đông Đức chấp nhận cải cách. Một câu nói nổi tiếng của ông được đưa ra trong tiếng Đức là "Wer zu spät kommt, den bestraft das Leben" (Ai đã là quá muộn sẽ bị chết). Tuy nhiên, Erich Honecker vẫn chống đối cải cách, với chế độ của ông thậm chí còn đi xa hơn như cấm lưu hành các ấn phẩm của Liên Xô mà được xem như là phá hoại.
Đối mặt với tình trạng bất ổn dân sự đang diễn ra, phán quyết của Đảng Thống nhất Xã hội chủ nghĩa (SED) cho Honecker về vườn vào giữa tháng Mười, và thay thế ông ta bằng Egon Krenz. Ngoài ra, biên giới Tiệp Khắc đã được mở cửa trở lại, nhưng chính quyền Tiệp Khắc sớm để cho tất cả Đông Đức du lịch trực tiếp tới Tây Đức mà không có thêm thủ tục gì, do đó nâng phần mình của Bức màn sắt vào ngày 3 tháng 11. Không thể để ngăn chặn dòng người tị nạn tiếp theo với phương Tây thông qua Tiệp Khắc, chính quyền Đông Đức cuối cùng đầu hàng trước áp lực công chúng bằng cách cho phép các công dân Đông Đức vào Tây Berlin và Tây Đức trực tiếp, thông qua các điểm biên giới hiện tại, vào ngày 09 tháng 11, mà không cần phải thông báo với lính biên phòng canh biên giới.
Kích hoạt bởi các ngôn từ thất thường của Günter Schabowski trong một cuộc họp báo truyền hình, nói rằng những thay đổi kế hoạch là "có hiệu lực ngay lập tức", hàng trăm ngàn người đã lợi dụng cơ hội, ngay sau mới điểm qua đã được mở trong các bức tường Berlin và dọc biên giới với Tây Đức. Đến tháng mười hai, Krenz đã được thay thế, và chế độ độc tài của Đảng Thống nhất Xã hội chủ nghĩa đã kết thúc. Điều này dẫn đến sự tăng tốc của quá trình cải cách ở Đông Đức đã kết thúc với sự thống nhất cuối cùng của Đông và Tây Đức có hiệu lực vào ngày 03 tháng 10 năm 1990.
Sự sẵn sàng của điện Kremlin từ bỏ một đồng minh chiến lược quan trọng đánh dấu một sự thay đổi đầy kịch tính của một siêu cường Liên Xô và các mô hình thay đổi cơ bản trong quan hệ quốc tế, trước năm 1989 vẫn thống trị sự chia cắt Đông Tây Berlin.
Tiệp Khắc[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Cách mạng Nhung
Các cuộc biểu tình bên dưới tượng đài ở Quảng trường Wenceslas Prague, Tiệp Khắc.
Các "Cách mạng nhung" là một cuộc cách mạng bất bạo động ở Tiệp Khắc mà thấy việc lật đổ chính phủ Cộng sản. Vào ngày 17 tháng 11 năm 1989 (thứ sáu), cảnh sát chống bạo động đàn áp một cuộc biểu tình sinh viên hòa bình ở Prague. Sự kiện đó đã gây ra một loạt các cuộc biểu tình phổ biến từ tháng 19 đến cuối tháng Mười Hai. Đến ngày 20 tháng 11 số lượng người biểu tình hòa bình tập hợp tại Praha đã tăng lên từ 200.000 ngày hôm trước đến khoảng nửa triệu. Tổng Đình công "hai tiếng" gồm tất cả các công dân của Tiệp Khắc, được tổ chức vào ngày 27.
Đài tưởng niệm của cuộc cách mạng Nhung tại Bratislava (Námestie SNP), Slovakia
Với sự sụp đổ của các chính phủ cộng sản khác, và cuộc biểu tình đường phố ngày càng tăng, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc công bố vào ngày 28 Tháng 11 rằng họ sẽ từ bỏ quyền lực và từ bỏ nhà nước độc đảng. Dây thép gai và chướng ngại vật khác đã được gỡ bỏ từ biên giới với Tây Đức và Áo vào đầu tháng mười hai. Ngày 10 Tháng 12, Chủ tịch Gustáv Husák bổ nhiệm chính phủ phi cộng sản đầu tiên ở Tiệp Khắc từ năm 1948, và từ chức. Alexander Dubček được bầu làm người phát ngôn của nghị viện liên bang vào ngày 28 và Václav Havel làm Tổng thống Tiệp Khắc vào ngày 29 Tháng 12 năm 1989.
Trong tháng 6 năm 1990 Tiệp Khắc đã tổ chức cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên kể từ năm 1946.
Tiệp Khắc bị tách thành hai nước sau khi bầu cử:
Cộng hòa Séc (ngày 1 tháng 1 năm 1993)Slovakia (ngày 1 tháng 1 năm 1993)Bulgaria[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Kết thúc của Chủ nghĩa Cộng sản ở Bulgaria
Ngày 10 tháng 11 năm 1989 - một ngày sau khi Bức tường Berlin đã bị xâm phạm – nhà lãnh đạo lâu đời của Bulgaria Todor Zhivkov bị lật đổ bởi Bộ Chính trị. Moscow dường như chấp thuận việc thay đổi lãnh đạo, mặc dù danh tiếng của Zhivkov như là một đồng minh khuất phục của Liên Xô. Tuy nhiên, sự ra đi của Zhivkov là không đủ để đáp ứng các phong trào dân chủ đang phát triển. Cùng lúc đó tác động của chương trình cải cách của Mikhail Gorbachev tại Liên Xô đã được cảm thấy ở Bulgaria vào cuối thập niên 1980, những người Cộng sản, giống như lãnh đạo của họ, đã trở nên quá yếu ớt để chống lại những nhu cầu thay đổi lâu dài.
Trong Tháng 11 năm 1989 các cuộc biểu tình về các vấn đề sinh thái được tổ chức tại Sofia, và những sớm mở rộng vào một chiến dịch chung để cải cách chính trị. Đảng Cộng sản đã phản ứng bằng cách khai trừ Zhivkov già yếu và thay thế ông ta bằng Petar Mladenov, nhưng điều này đã chỉ có một thời gian ổn định ngắn. Trong tháng 2 năm 1990 Đảng Cộng sản, buộc bởi cuộc biểu tình đường phố đã từ bỏ độc quyền của Đảng và vào tháng 6 năm 1990, bầu cử tự do đầu tiên kể từ năm 1931 đã được tổ chức, thắng của Bungari Đảng Xã hội (tên mới của Đảng Cộng sản). Mặc dù Zhivkov phải đối mặt với phiên toà vào năm 1991, ông thoát khỏi số phận nghiệt ngã của đồng chí miền Bắc của mình, Tổng thống Rumani Nicolae Ceauşescu.
Romania[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Cách mạng România
Không giống như các nước Đông Âu, Romania đã không bao giờ trải qua bất cứ phong trào chống Stalin nào, nhưng đã được độc lập với sự thống trị của Liên Xô từ những năm 1960. Năm 1989 Tháng 1, Ceauşescu, sau đó ở độ tuổi 71, được bầu lại thêm năm năm, lãnh đạo của Đảng Cộng sản Rumani, báo hiệu rằng ông dự định để vượt qua cuộc nổi dậy chống cộng sản đang càn quét phần còn lại của Đông Âu. Như Ceauşescu chuẩn bị để đi trên một chuyến thăm nhà nước Iran, Securitate của ông đã ra lệnh bắt giữ và lưu vong của một bộ trưởng địa phương nói tiếng Hungary, László Tőkés, ngày 16 tháng mười hai, vì vi phạm chế độ. Tőkés bị giam, nhưng chỉ sau khi nổ ra bạo loạn nghiêm trọng. Timisoara là thành phố đầu tiên phản ứng, ngày 16 tháng mười hai, và nó vẫn còn nổi loạn trong 5 ngày.
Trở về từ Iran, Ceauşescu ra lệnh cho một cuộc biểu tình quần chúng ủng hộ ông ở bên ngoài trụ sở đảng Cộng sản ở Bucharest. Tuy nhiên, thật bất ngờ, đám đông la ó khi ông nói. Sau khi biết sự cố xảy ra (cả hai từ Timisoara và từ Bucharest) từ các đài phát thanh phương Tây, những năm tháng của sự không hài lòng về sự đàn áp đã tồn tại trong dân Rumani và thậm chí giữa các thành phần trong chính phủ của Ceauşescu, và các cuộc biểu tình lan rộng trong cả nước.
Lúc đầu, các lực lượng an ninh của Ceauşescu tuân lệnh bắn người biểu tình, nhưng vào sáng ngày 22 Tháng 12, quân đội Rumani đột nhiên thay đổi bên. Quân đội xe tăng đã bắt đầu chuyển động hướng tới Ủy ban Trung ương với đám đông tràn ngập bên cạnh. Những người nổi loạn buộc mở cửa các cửa ra vào của tòa nhà Trung ương trong một nỗ lực để bắt Ceauşescu và vợ ông, Elena, nhưng họ đã trốn thoát qua một máy bay trực thăng đang chờ họ trên mái của tòa nhà. Các cuộc cách mạng dẫn đến 1104 người tử vong.
Vào ngày lễ Giáng Sinh, truyền hình Rumani cho thấy Ceauşescus phải đối mặt với một phiên xử vội vàng, và sau đó là tử hình. Một Hội đồng Mặt trận lâm thời cứu quốc đã tiếp nhận và công bố cuộc bầu cử cho tháng 4 năm 1990. Các cuộc bầu cử đầu tiên đã được thực sự tổ chức vào ngày 20 Tháng 5 năm 1990.
Albania[sửa | sửa mã nguồn]
Tại Cộng hoà xã hội chủ nghĩa nhân dân Albania, Enver Hoxha, người cai trị Albania trong bốn thập kỷ với bàn tay sắt, đã chết vào 11 tháng 4 năm 1985. Người kế nhiệm ông, Ramiz Alia, bắt đầu dần dần lới lỏng chế độ cai trị. Năm 1989, các cuộc nổi dậy đầu tiên bắt đầu tại Shkodra và lây lan ra các thành phố khác. Cuối cùng, chế độ hiện hành đưa một số tự do hóa, bao gồm cả các biện pháp năm 1990 quy định quyền tự do đi du lịch nước ngoài. Những nỗ lực bắt đầu cải thiện quan hệ với thế giới bên ngoài. Tháng 3 năm 1991 cuộc bầu cử cho phép những người cộng sản trước đây nắm quyền, nhưng một cuộc tổng biểu tình và đối lập đô thị dẫn đến việc thành lập một nội các liên minh bao gồm cả phi cộng sản. Đảng cựu cộng sản Albania đã bị loại trong cuộc bầu cử tháng 3 năm 1992, giữa lúc sự sụp đổ kinh tế và bất ổn xã hội.
Nam Tư[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Giải tán Nam Tư và Chiến tranh Nam Tư
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Liên bang Nam Tư không phải là một phần của Khối hiệp ước Warszawa, nhưng theo đuổi phiên bản "cộng sản" riêng của mình theo Josip Broz Tito.Đó là một nhà nước đa sắc tộc, và những căng thẳng giữa các dân tộc đầu tiên leo thang với mùa xuân Croatia cái gọi là của 1970-71, một phong trào tự trị lớn hơn của Croatia, đã được dập tắt. Năm 1974 có thay đổi hiến pháp theo phân cấp một số các quyền hạn của liên bang cho các nước cộng hòa thành phần và các tỉnh. Sau cái chết của Tito vào năm 1980 đã tăng căng thẳng sắc tộc, đầu tiên Kosovo cộng đồng đa số tiếng Albania. Trong cuối những năm 1980 lãnh đạo Serbia Slobodan Milošević sử dụng cuộc khủng hoảng Kosovo để thúc đẩy tăng chủ nghĩa dân tộc Serbia và cố gắng để củng cố và thống trị đất nước, xa lánh các nhóm dân tộc khác.
Song song với quá trình này, Slovenia đã chứng kiến một chính sách tự do hóa dần dần từ năm 1984, không giống như các Perestroika của Liên Xô. Điều này gây căng thẳng giữa các Liên minh Cộng sản của Slovenia ở một bên, và Trung ương Đảng và Quân đội Liên bang Nam Tư ở phía bên kia. Vào giữa tháng 5 năm 1988, Liên minh nông dân của Slovenia đã được tổ chức như tổ chức chính trị đầu tiên phi cộng sản trong nước. Sau đó trong cùng một tháng, quân đội Nam Tư bị bắt giữ bốn nhà báo của tạp chí Mladina, kết án họ là tiết lộ bí mật nhà nước. Phiên toà Ljubljana gây ra cuộc biểu tình quần chúng ở Ljubljana, các thành phố của Slovenia khác. Ủy ban Bảo vệ nhân quyền được thành lập như là nền tảng của tất cả phong trào chính trị Phi Cộng sản. Đến đầu năm 1989, một số đảng phái chính trị chống Cộng sản đã được công khai hoạt động, thách thức quyền bá chủ của Đảng cộng sản Slovenia. Ngay sau đó, Đảng Cộng sản Slovenia, dưới áp lực của xã hội dân sự của mình, bước vào trong cuộc xung đột với các lãnh đạo Cộng sản Serbia.
Vào tháng 1 năm 1990, Đại hội bất thường của Liên đoàn của Cộng sản Nam Tư đã được triệu tập để giải quyết các tranh chấp giữa các bên độc lập. Ở thế thiểu số, những người Cộng sản Slovenia rời bỏ Quốc hội, do đó trên thực tế mang đến sự kết thúc Đảng Cộng sản Nam Tư. Đảng Cộng sản Slovenia đã được theo bởi những người Croatia. Cả hai bên của hai nước cộng hòa miền Tây đàm phán tự do bầu cử đa đảng với các phong trào đối lập của riêng mình.
Vào mùa xuân năm 1990, trình diễn dân chủ và chống Nam Tư liên minh đã giành được cuộc bầu cử tại Slovenia, trong khi các cuộc bầu cử Croatia đã chứng kiến chiến thắng của những người theo chủ nghĩa dân tộc. Các kết quả đã được nhiều cân bằng hơn ở Bosnia và Herzegovina và Macedonia, trong khi các cuộc bầu cử quốc hội và tổng thống ở Serbia và Montenegro hợp nhất sức mạnh của Milošević và những người ủng hộ ông ta. Cuộc bầu cử tự do vào mức độ liên bang đã không bao giờ thực hiện. Thay vào đó, các lãnh đạo Slovenia và Croatia bắt đầu chuẩn bị kế hoạch ly khai khỏi liên bang.
Năm 1998 - 1999 thì xảy ra sự kiện chiến tranh Kosovo do Mỹ và khối quân sự Nato tấn công vào Nam Tư cũ.
Leo thang căng thẳng sắc tộc và quốc gia đã dẫn tới các cuộc chiến tranh Nam Tư và độc lập của các (liên bang) các đơn vị thành phần, trình tự thời gian:
Slovenia (25 tháng 6 năm 1991)Croatia (25 tháng 6 năm 1991)Cộng hòa Macedonia (Ngày 08 tháng 9 năm 1991)Bosnia và Herzegovina (Ngày 01 tháng 3 năm 1992)Serbia và Montenegro (2 công đoàn nhà nước từ 1992-2006). Montenegro tuyên bố độc lập vào ngày 03 tháng 6 năm 2006, trong khi Serbia tuyên bố thừa kế của mình cho các công đoàn như là một nhà nước độc lập vào ngày 05 tháng 6 năm 2006.Kosovo (ngày 17 tháng 2 năm 2008, một phần được công nhận)Hội nghị thượng đỉnh Malta[sửa | sửa mã nguồn]
Mikhail Gorbachev và Tổng thống Mỹ George Bush trên boong tàu của Liên Xô Maxim Gorky, Marsaxlokk Harbour.
Hội nghị thượng đỉnh Malta bao gồm một cuộc họp giữa Tổng thống Mỹ George HW Bush và nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev, diễn ra khoảng 2-3 tháng mười hai, năm 1989, chỉ một vài tuần sau sự sụp đổ của Bức tường Berlin, trong đó hai bên chính thức kết thúc chiến tranh lạnh, một phần là kết quả của phong trào ủng hộ dân chủ rộng lớn. Đó là cuộc họp thứ hai của họ sau một cuộc họp trong đó có Tổng thống Ronald Reagan, tại New York vào tháng 12 năm 1988.
Các bản tin vào thời gian này[18] gọi Hội nghị thượng đỉnh Malta là quan trọng nhất kể từ năm 1945, khi Thủ tướng Anh Winston Churchill, thủ tướng Liên Xô Joseph Stalin và Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đã nhất trí về một kế hoạch hậu chiến cho châu Âu tại Hội nghị Yalta.
Trình tự thời gian bầu cử ở Đông Âu từ 1989-1991[sửa | sửa mã nguồn]
Giữa mùa xuân 1989 và mùa xuân 1991, các nước thuộc Liên Xô và đông Âu dần từ bỏ chế độ Xã hội chủ nghĩa. Tại một số nước, Đảng Cộng sản bị giải thể hoặc thậm chí bị cấm hoạt động trong một thời gian. Ở Trung và Đông Âu, kể cả những người đã từng là công dân của nước Liên Xô và Nam Tư cũ, đã tham gia bầu cử nhiều đảng phái lần đầu tiên trong nhiều thập kỷ. Dưới đây là danh sách các cuộc bầu cử ở Đông Âu sau Các cuộc cách mạng 1989:vSự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu hay được phương Tây gọi Cuộc cách mạng năm 1989 (cũng được gọi là Mùa thu của Cộng sản, Sự sụp đổ của khối Cộng sản chủ nghĩa, Các cuộc cách mạng ở Đông Âu và Mùa thu của Quốc gia [2]) là sự sụp đổ của các nhà nước cộng sản theo mô hình kế hoạch hóa của Liên Xô ở Đông Âu.
Những sự kiện này bắt đầu từ Ba Lan vào năm 1989,[3][4] và tiếp tục ở Hungary, Đông Đức, Bulgaria, Tiệp Khắc và România. Một đặc tính phổ biến cho hầu hết các cuộc cách mạng này là việc sử dụng rộng rãi các chiến dịch của lực lượng đối lập chống lại chế độ độc đảng và góp phần gây áp lực với sự thay đổi [5]. Romania là nước Đông Âu duy nhất lật đổ chế độ Xã hội chủ nghĩa của mình bằng bạo lực [6]. Sự kiện Thiên An Môn đã không thành công trong việc kích thích sự thay đổi chính trị lớn ở Trung Quốc. Tuy nhiên, hình ảnh mạnh mẽ của các sự thách thức trong những cuộc biểu tình đó đã giúp gây ra các sự kiện ở những phần khác của thế giới. Trong số các cuộc biểu tình chống Cộng nổi tiếng nhất là sự sụp đổ của Bức tường Berlin, đã phục vụ như là cửa ngõ tượng trưng để thống nhất nước Đức vào năm 1990.
Việc Liên Xô bị giải thể vào cuối năm 1991 dẫn đến kết quả là Nga và 14 quốc gia tuyên bố tách khỏi Liên Xô: Armenia, Azerbaijan, Belarus, Estonia, Georgia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Latvia, Litva, Moldova, Tajikistan, Turkmenistan, Ukraina và Uzbekistan. Chủ nghĩa xã hội sụp đổ tại Albania và Nam Tư từ năm 1990 đến 1992, chia thành năm nước kế tục: Slovenia, Croatia, Cộng hòa Macedonia, Bosnia và Herzegovina, và Cộng hòa Liên bang Nam Tư (gồm Serbia, Montenegro và Kosovo). Tác động này cũng được cảm thấy ở hàng chục quốc gia xã hội chủ nghĩa khác. Chế độ Xã hội Chủ nghĩa đã bị bỏ rơi ở các nước như Campuchia, Ethiopia, Mông Cổ và Nam Yemen... Sự sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến tuyên bố kết thúc của Chiến tranh Lạnh.
Mục lục
1Bối cảnh1.1Sự nổi lên của phong trào cộng sản1.2Áp lực từ phương Tây1.3Sự xuất hiện của Công đoàn Đoàn Kết tại Ba lan1.4Mikhail Gorbachev2Dự đoán về sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết3Khởi đầu sụp đổ4Quá trình sụp đổ4.1Ba Lan4.2Hungary4.3Đông Đức4.4Tiệp Khắc4.5Bulgaria4.6Romania4.7Albania4.8Nam Tư5Hội nghị thượng đỉnh Malta6Trình tự thời gian bầu cử ở Đông Âu từ 1989-19917Sự sụp đổ của Liên Bang Xô viết8Ảnh hưởng của Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu8.1Các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa trên thế giới8.1.1Châu Phi8.1.2Trung Đông8.1.3Châu Á8.1.4Mỹ Latinh8.1.5Châu Đại Dương8.2Các nước khác9Nguyên nhân của sự sụp đổ hệ thống chủ nghĩa xã hội10Xem thêm11Chú thích12Tham khảoBối cảnh[sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ (timeline) sự sụp đổ của các nhà nước XHCN ở các nước Đông Âu và sự tan rã của Liên Xô
Sự nổi lên của phong trào cộng sản[sửa | sửa mã nguồn]
Xem thêm: Liên Xô, Khối phía đông, và Danh sách các nước xã hội chủ nghĩa
Ý tưởng của Chủ nghĩa xã hội đã đạt được giữa các tầng lớp công nhân của thế giới từ thế kỷ 19, lên đến đỉnh điểm trong thế kỷ 20 khi một số quốc gia hình thành Đảng Cộng sản của riêng họ. Thông thường, chủ nghĩa xã hội không được ưa chuộng bởi tầng lớp cầm quyền cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỉ 20; do vậy, ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa bị đàn áp và điều này đã được thực hành ngay cả ở các nước thực hiện chế độ đa đảng.
Cuộc cách mạng Bolshevik năm 1917 đã chứng kiến sự lật đổ một nhà nước dân tộc Nga trước đó cùng với chế độ quân chủ của nó. Những người Bolshevik bao gồm các dân tộc của Nga đã lập ra Liên Xô trong suốt giai đoạn sau đó.
Trong thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, phong trào Cộng sản đã trỗi dậy tại nhiều nơi trên thế giới (ví dụ như ở Vương quốc Nam Tư thì nó đã phát triển phổ biến tại các đô thị trong suốt những năm 1920). Điều này dẫn đến một loạt các cuộc thanh trừng ở nhiều nước để dập tắt phong trào.
Sau thế chiến II, một loạt các quốc gia cộng sản chủ nghĩa đã ra đời ở châu Á và Đông Âu, tiêu biểu là CHND Trung Hoa. Các Đảng Cộng sản được thành lập ngày càng nhiều ở khắp nơi trên thế giới.
Khi phong trào cộng sản đã vào một giai đoạn phát triển phổ biến trên khắp Đông Âu, hình ảnh của họ cũng đã bắt đầu mờ nhạt đi. Khi các nhóm chính trị đối lập tăng cường các chiến dịch của họ để chống lại phong trào cộng sản, họ đã dùng đến bạo lực (bao gồm cả vụ đánh bom và giết người) để đạt được mục tiêu của họ: điều này dẫn phần lớn dân chúng trước đây ủng hộ Đảng Cộng sản đã mất sự quan tâm đến ý thức hệ này. Một sự hiện diện của Đảng Cộng sản vẫn được duy trì nhưng mất đi vai trò trước kia của nó.
Áp lực từ phương Tây[sửa | sửa mã nguồn]
Sau thế chiến thứ II, mặc dù là nước thắng trận nhưng Liên bang Xô Viết (gọi tắt là Liên Xô) bị thiệt hại nặng nề về người và của, đặc biệt là vấp phải sự chống phá của các phe đối lập nói chung và các nước tư bản nói riêng. Các nước tư bản đứng đầu là Mỹ, thực hiện chiến lược "toàn cầu chống XHCN" bằng những hành động cô lập kinh tế-chính trị, cũng từ đây thế giới bước vào thời kì "chiến tranh lạnh. Mỹ đưa ra lệnh "cấm vận" đối với Liên Xô, khiến tình hình nước này đã khó khăn nay càng trở nên khó khăn hơn. Bên cạnh đó, Mỹ thành lập "Khối Bắc Đại Tây Dương" (gọi tắt là NATO) để bao vây chính trị, tạo thế lực đồng minh chống XHCN. Để thoát khỏi áp lực nặng nề đó, Liên Bang Xô Viết đã thành lập "Khối quân sự Warszawa", tạo đối trọng với NATO và thành lập "Hội đồng tương trợ kinh tế" nhằm giải quyết tình trạng cô lập kinh tế của các nước phương Tây và Mỹ.[cần dẫn nguồn]
Sự xuất hiện của Công đoàn Đoàn Kết tại Ba lan[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Công đoàn Đoàn kết
Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Ba Lan trong năm 1980 đã dẫn đến sự hình thành của tổ chức công đoàn độc lập, Công đoàn Đoàn kết, do Lech Wałęsa lãnh đạo, dần dần đã trở thành một lực lượng chính trị đối lập. Ngày 13 tháng 12 năm 1981, sau khi Công đoàn Đoàn kết thể hiện rõ tư tưởng đối lập với chính phủ, Thủ tướng Ba Lan Wojciech Jaruzelski bắt đầu trấn áp Công đoàn Đoàn kết bằng cách tuyên bố thiết quân luật ở Ba Lan, đình chỉ hoạt động và tạm thời bắt giam tất cả các nhà lãnh đạo của tổ chức này.
Mikhail Gorbachev[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Mikhail Gorbachev, Perestroika, Glasnost, và Dân chủ hóa (Công đoàn Xô Viết)
Mặc dù một số quốc gia khối Đông đã nỗ lực cải cách kinh tế và chính trị, từ những năm 1950 (ví dụ Cách mạng Hungary năm 1956 và Mùa xuân Prague năm 1968), Mikhail Gorbachev trở thành tổng bí thư tối cao Liên Xô năm 1985 với những chính sách cải cách xu hướng mở cửa, tự do hóa. Vào giữa những năm 1980, một thế hệ trẻ của Liên Xô xuất hiện, do Gorbachev lãnh đạo, đã bắt đầu ủng hộ những cải cách mới nhằm thoát khỏi tình trạng phát triển trì trệ dưới thời tổng bí thư Brezhnev. Sau nhiều thập kỷ, Liên Xô hiện đang phải đối mặt với một giai đoạn trì trệ kinh tế nghiêm trọng và cần cải tiến công nghệ cũng như vay vốn phương Tây để bù đắp cho sự lạc hậu ngày càng tăng. Các chi phí để duy trì quân sự, KGB, trợ cấp cho nước ngoài, vv.. khiến nền kinh tế bao cấpcủa Liên Xô ngày càng lâm vào trì trệ.
Những dấu hiệu đầu tiên của cuộc cải cách lớn là vào năm 1986 khi Gorbachev đưa ra chính sách glasnost (chính sách công khai hóa và minh bạch hóa đến mức tối đa các hoạt động của các cơ quan nhà nước và tự do thông tin và ngôn luận) và chính sách perestroika (chính sách cải cách chính trị và kinh tế) ở Liên Xô, để nhấn mạnh việc chống tham nhũng trong đội ngũ lãnh đạo Liên Xô và sự cần thiết của việc tái cơ cấu nền kinh tế. Vào mùa xuân năm 1989, Liên Xô không chỉ trải qua cuộc tranh luận truyền thông sôi nổi mà còn tổ chức các cuộc bầu cử đa ứng cử đầu tiên trong Đại hội nhân dân mới thành lập. Trong khi chính sách glasnost bề ngoài ủng hộ sự cởi mở và phê phán chính trị, những điều này chỉ được phép trong một phạm vi hẹp do nhà nước quyết định. Công chúng trong khối Đông vẫn phải chịu giám sát chính trị bởi các lực lượng cảnh sát.
Gorbachev kêu gọi các chính quyền Trung ương và chính quyền ở Đông Nam Âu áp dụng chính sách perestroika và glasnost ở các quốc gia của họ. Tuy nhiên, trong khi các nhà cải cách ở Hungary và Ba Lan được khuyến khích áp dụng bởi lực lượng tự do lan rộng từ khối phía đông, các nước khối Đông khác vẫn còn hoài nghi công khai và thể hiện sự ác cảm trong cải cách này. Những người tin rằng những sáng kiến cải cách của Gorbachev sẽ không trụ được lâu bao gồm các nhà cộng sản Erich Honecker của Đông Đức, Todor Zhivkov của Bulgaria, Gustáv Husák của Tiệp Khắc và Nicolae Ceauşescu của Romania đã lờ đi những lời kêu gọi thay đổi.[7] "Khi người hàng xóm của bạn dán giấy tường mới nó không có nghĩa là bạn cũng phải làm theo", đó là tuyên bố của một thành viên bộ chính trị Đông Đức.[8]
Dự đoán về sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết[sửa | sửa mã nguồn]
Có nhiều dự đoán rằng Liên bang Xô viết cuối cùng sẽ bị tan rã trước khi quá trình giải thể bắt đầu với sự sụp đổ của Bức tường Berlin vào tháng 10 năm 1989.
Các tác giả dự đoán sự sụp đổ của Liên bang Xô viết bao gồm Andrei Amalrik trong cuốn Liên bang Xô viết sẽ tồn tại đến 1984? (1970), học giả người Pháp Emmanuel Todd trong La chute finale: Essais sur la décomposition de la sphère Soviétique (The Fall Final: Bài luận về sự tan rã của Liên Xô) (1976), nhà kinh tế Ravi Batra trong cuốn sách của ông là Sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và cộng sản năm 1978 và sử gia người Pháp Hélène Carrère d'Encausse.[9] Ngoài ra, Walter Laqueur lưu ý rằng "bài báo khác nhau xuất hiện trong các tạp chí chuyên ngành về các vấn đề của cộng sản và nghiên cứu về sự phân rã và sự sụp đổ có thể có của chế độ Xô viết."[10]
Tại Hoa Kỳ, chủ yếu là giữa những người bảo thủ,[11][12] các chính trị gia nhất ghi có dự đoán sự sụp đổ của Liên bang Xô viết là Tổng thống Ronald Reagan.
Các dự đoán được thực hiện trước 1980 về sự sụp đổ của Liên Xô đều coi sự sụp đổ là điều xảy ra trong tương lai hơn là một xác suất. Tuy nhiên, đối với một số ý tưởng (như Amalrik và Todd) được nghiên cứu thấu đáo hơn là suy nghĩ thoáng qua.[10] Trong trường hợp của Ludwig von Mises, ông gọi là sự sụp đổ của Liên Xô là một sự chắc chắn tuyệt đối, tuy nhiên ông không đưa ra bất kỳ khoảng thời gian hợp lý để kiểm tra dự đoán của mình.
Khởi đầu sụp đổ[sửa | sửa mã nguồn]
Người dân mang tem phiếu xếp hàng để mua tại một cửa hàng, hình ảnh tiêu biểu về thời bao cấp ở Ba Lan trong những năm 1980
Cuối những năm 1980, hầu như tất cả các nền kinh tế bao cấp các ở nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô đều có vấn đề. Người dân ở Kavkaz và vùng Bal đã yêu cầu quyền tự chủ từ Moskva, sau đó điện Kremlin đã bị mất quyền kiểm soát tại một số khu vực và lãnh thổ trong Liên Xô. vào tháng 11 năm 1988, Cộng hòa Chủ nghĩa Xô Viết Estonia đã ban hành tuyên bố chủ quyền lãnh thổ,[13] dẫn đến các nước cộng hòa khác trong khối phía Đông cũng đưa ra tuyên bố tương tự về quyền tự chủ.
Thảm họa hạt nhân Chernobyl xảy ra hồi tháng 4 -1986 đã tác động, ảnh hưởng rất lớn lên chính trị và xã hội, Thảm họa Chernobyl là một trong những yếu tố khởi nguồn quan trọng gây ra sự sụp đổ khối Đông và Liên Xô năm 1991. Vụ tai nạn đã tác động to lớn đối với chính sách Glasnost của Liên Xô nhằm tăng sự minh bạch hóa đến mức tối đa các hoạt động của các cơ quan nhà nước[14][15] Không thể thống kê hết được những hậu quả do thảm họa hạt nhân gây ra. Theo Mikhail Gorbachev, Liên Xô đã chi 18 tỷ rúp (tương đương 18 tỷ đô la Mỹ vào thời điểm đó) về ngăn chặn và khử nhiễm phóng xạ, Ngân khố Liên Xô gần như cạn kiệt và bị phá sản.[16] Ở Ukraine, thảm họa Chernobyl là một biểu tượng của phong trào dân tộc chủ nghĩa, biểu tượng của tất cả những gì Liên Xô đã làm sai gây hậu quả nghiêm trọng, Ukraine đã phải phát triển một hệ thống phúc lợi lớn và nặng nề để khắc phục những hậu quả hạt nhân.
Quá trình sụp đổ[sửa | sửa mã nguồn]
Các sự kiện năm 1989 còn được gọi là Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản (Fall of Communism, the Collapse of Communism), các cuộc biểu tình tại Đông Âu là những phong trào lật đổ các nhà nước xã hội chủ nghĩa tại Liên Xô của các nước Đông Âu.
Những sự kiện bắt đầu tại Ba Lan,[3][17] và tiếp tục ở Hungary, Đông Đức, Bulgaria, Tiệp Khắc và Romania. Romania là nước duy nhất thuộc Đông Âu lật đổ chế độ cộng sản bằng bạo lực [6] Các cuộc biểu tình Thiên An Môn năm 1989 không thành công để kích thích những thay đổi chính trị lớn ở Trung Quốc. Tuy nhiên, hình ảnh mạnh mẽ của người biểu tình trong cuộc biểu tình đó đã giúp để thúc đẩy các sự kiện tương tự ở các khu vực khác của thế giới.
Albania và Nam Tư từ bỏ chủ nghĩa cộng sản từ năm 1990 đến 1992, chia thành năm nước năm 1992: Slovenia, Croatia, Cộng hòa Macedonia, Bosnia và Herzegovina, và Cộng hòa Liên bang Nam Tư (gồm Serbia và Montenegro). Liên Xô bị giải thể vào cuối năm 1991, kết quả là Nga và 14 quốc gia mới tuyên bố độc lập từ Liên bang Xô Viết: Armenia, Azerbaijan, Belarus, Estonia, Georgia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Latvia, Lithuania, Moldova, Tajikistan, Turkmenistan, Ukraine và Uzbekistan. Tác động của sự sụp đổ này được cảm thấy ở hàng chục quốc gia xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Cộng sản đã bị bỏ rơi ở các nước như Campuchia, Ethiopia, và Mông Cổ và Nam Yemen. Sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN đã dẫn tới tuyên bố kết thúc chiến tranh lạnh.
Việc áp dụng các hình thức khác nhau của nền kinh tế thị trường thường dẫn đầu trong việc giảm mức sống ở các nước Đông Âu thời kỳ hậu Cộng sản, cùng với tác dụng phụ bao gồm sự gia tăng của đầu sỏ chính trị kinh doanh tại các nước như Nga, và phát triển xã hội và kinh tế. Cải cách chính trị đã bị thay đổi, một số quốc gia Đảng cộng sản vẫn có thể giữ cho mình quyền lực, chẳng hạn như Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, trong khi đối với các quốc gia các đảng chính trị khác đã thành công. Nhiều tổ chức cộng sản và xã hội ở phương Tây có tôn chỉ quay sang nền dân chủ xã hội. Các cảnh quan chính trị châu Âu đã quyết liệt thay đổi, với rất nhiều nước Đông Âu gia nhập NATO và hội nhập kinh tế mạnh mẽ hơn châu Âu và xã hội tiếp đó.
Ba Lan[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Kết thúc của Chủ nghĩa Cộng sản tại Ba Lan
Chủ tịch Công đoàn Đoàn kết Lech Wałęsa (giữa) với Tổng thống Mỹ George H. Bush (phải) và Barbara Bush (trái) ở Warsaw, tháng 7 năm 1989.
Đại hội lần thứ tư của Liên Hợp Đảng Người lao động Ba Lan, được tổ chức vào năm 1963.
Vào tháng 4 năm 1989, Phong trào Công đoàn Đoàn kết lại được hợp pháp hóa và được tham gia cuộc bầu cử quốc hội vào ngày 4 tháng 6 năm 1989 (bất ngờ, ngày hôm sau vụ đàn áp những người biểu tình Trung Quốc nửa đêm ở Thiên An Môn). Một trận động đất chính trị diễn ra. Chiến thắng Công đoàn đoàn kết vượt qua tất cả các dự đoán. Các ứng cử viên giành được tất cả các chỗ họ được phép cạnh tranh trong Hạ viện, trong khi tại Thượng viện họ chiếm 99 trong số 100 ghế (với các ghế còn lại được thắng cử bởi một ứng cử viên độc lập). Đồng thời, nhiều ứng cử viên nổi bật của Đảng Cộng sản đã thất bại để đạt được ngay cả những số phiếu tối thiểu cần thiết để nắm bắt những ghế đã được dành riêng cho họ.
Một chính phủ Phi Cộng sản mới, lần đầu tiên của loại hình này ở các nước Khối Đông Âu, đã tuyên thệ nhậm chức vào văn phòng vào tháng 9 năm 1989.
Hungary[sửa | sửa mã nguồn]
Theo sau Ba Lan, Hungary đã tới để trở lại với một chính phủ không cộng sản. Mặc dù Hungary đã đạt được một số cải cách kinh tế lâu dài và tự do hóa chính trị giới hạn trong những năm 1980, cải cách chính chỉ xảy ra sau khi János Kádár làm Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản năm 1988. Cùng năm đó, Quốc hội đã thông qua một "gói cải cách dân chủ", trong đó bao gồm đa nguyên, tự do hội họp, lập hội, và báo chí; một luật bầu cử mới, và sửa đổi một hiến pháp cấp tiến, và nhiều hoạt động khác. Trong tháng 10 năm 1989, Đảng Cộng sản triệu tập đại hội cuối cùng của mình và sau đó tái thành lập trở thành Đảng Xã hội Hungary, mà vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay (tên gọi là MSZP).Trong một phiên họp lịch sử từ 16 tháng 10 đến 20 tháng 10, Quốc hội đã thông qua luật cho phép bầu cử quốc hội đa đảng và một cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp. Pháp luật về chuyển Hungary từ Cộng hòa Nhân dân thành Cộng hòa Hungary, đảm bảo nhân quyền và dân quyền, và tạo ra một cấu trúc thể chế đảm bảo phân chia quyền lực giữa các ngành tư pháp, lập pháp, và hành pháp của chính phủ. Hungary đề nghị quân đội Xô viết "về nhà." Một ý tưởng đầu tiên được đề xuất bởi Viktor Orbán tại lễ tang chôn lại của Imre Nagy.
Đông Đức[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Die Wende, Tái thống nhất nước Đức, và Cách mạng hòa bình
Bức tường Berlin tại Cổng Brandenburg, ngày 10 tháng 11 năm 1989
Sau khi biên giới cải cách đã được mở từ phía Hungary, ngày càng có nhiều người Đông Đức đã bắt đầu di cư sang Tây Đức thông qua biên giới của Hungary với nước Áo. Đến cuối tháng 9 năm 1989, hơn 30.000 người Đông Đức đã trốn thoát sang Tây Đức trước khi Đông Đức từ chối cho phép du lịch đến Hungary, để lại CSSR (Tiệp Khắc) là các nhà nước láng giềng duy nhất mà người Đông Đức có thể đi du lịch. Hàng ngàn người Đông Đức đã cố gắng để tiếp cận Tây Đức bằng cách chiếm các cơ sở ngoại giao ở thủ đô Đông Âu khác, đặc biệt là Đại sứ quán Prague, nơi hàng ngàn người cắm trại trong vườn lầy lội từ tháng Tám đến tháng Mười Một. Đông Đức đã đóng cửa biên giới với Tiệp Khắc (CSSR) vào đầu tháng Mười, từ đó cô lập mình khỏi tất cả các nước láng giềng. Do cơ hội cuối cùng để tẩu thoát đã bị đóng lại, những người Đông Đức bắt đầu cuộc biểu tình Ngày Thứ Hai. Hàng trăm ngàn người dân ở một số thành phố - đặc biệt là Leipzig - đã tham gia.
Sau khi các cuộc biểu tình ngày 02 Tháng Mười, lãnh đạo Đảng Thống nhất Xã hội Chủ nghĩa (SED) Erich Honecker đã ra lệnh bắn và giết cho quân đội [19] Đảng Cộng sản chuẩn bị một lực lượng cảnh sát rất lớn, dân quân, cảnh sát chìm (Stasi), và quân tác chiến và đã có tin đồn về một thảm sát Thiên An Mônnữa. [20]
Ngày 06 tháng 10 và 07 tháng 10, Gorbachev viếng thăm Đông Đức để đánh dấu kỷ niệm 40 năm nước Cộng hòa Dân chủ Đức, và thúc giục lãnh đạo Đông Đức chấp nhận cải cách. Một câu nói nổi tiếng của ông được đưa ra trong tiếng Đức là "Wer zu spät kommt, den bestraft das Leben" (Ai đã là quá muộn sẽ bị chết). Tuy nhiên, Erich Honecker vẫn chống đối cải cách, với chế độ của ông thậm chí còn đi xa hơn như cấm lưu hành các ấn phẩm của Liên Xô mà được xem như là phá hoại.
Đối mặt với tình trạng bất ổn dân sự đang diễn ra, phán quyết của Đảng Thống nhất Xã hội chủ nghĩa (SED) cho Honecker về vườn vào giữa tháng Mười, và thay thế ông ta bằng Egon Krenz. Ngoài ra, biên giới Tiệp Khắc đã được mở cửa trở lại, nhưng chính quyền Tiệp Khắc sớm để cho tất cả Đông Đức du lịch trực tiếp tới Tây Đức mà không có thêm thủ tục gì, do đó nâng phần mình của Bức màn sắt vào ngày 3 tháng 11. Không thể để ngăn chặn dòng người tị nạn tiếp theo với phương Tây thông qua Tiệp Khắc, chính quyền Đông Đức cuối cùng đầu hàng trước áp lực công chúng bằng cách cho phép các công dân Đông Đức vào Tây Berlin và Tây Đức trực tiếp, thông qua các điểm biên giới hiện tại, vào ngày 09 tháng 11, mà không cần phải thông báo với lính biên phòng canh biên giới.
Kích hoạt bởi các ngôn từ thất thường của Günter Schabowski trong một cuộc họp báo truyền hình, nói rằng những thay đổi kế hoạch là "có hiệu lực ngay lập tức", hàng trăm ngàn người đã lợi dụng cơ hội, ngay sau mới điểm qua đã được mở trong các bức tường Berlin và dọc biên giới với Tây Đức. Đến tháng mười hai, Krenz đã được thay thế, và chế độ độc tài của Đảng Thống nhất Xã hội chủ nghĩa đã kết thúc. Điều này dẫn đến sự tăng tốc của quá trình cải cách ở Đông Đức đã kết thúc với sự thống nhất cuối cùng của Đông và Tây Đức có hiệu lực vào ngày 03 tháng 10 năm 1990.
Sự sẵn sàng của điện Kremlin từ bỏ một đồng minh chiến lược quan trọng đánh dấu một sự thay đổi đầy kịch tính của một siêu cường Liên Xô và các mô hình thay đổi cơ bản trong quan hệ quốc tế, trước năm 1989 vẫn thống trị sự chia cắt Đông Tây Berlin.
Tiệp Khắc[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Cách mạng Nhung
Các cuộc biểu tình bên dưới tượng đài ở Quảng trường Wenceslas Prague, Tiệp Khắc.
Các "Cách mạng nhung" là một cuộc cách mạng bất bạo động ở Tiệp Khắc mà thấy việc lật đổ chính phủ Cộng sản. Vào ngày 17 tháng 11 năm 1989 (thứ sáu), cảnh sát chống bạo động đàn áp một cuộc biểu tình sinh viên hòa bình ở Prague. Sự kiện đó đã gây ra một loạt các cuộc biểu tình phổ biến từ tháng 19 đến cuối tháng Mười Hai. Đến ngày 20 tháng 11 số lượng người biểu tình hòa bình tập hợp tại Praha đã tăng lên từ 200.000 ngày hôm trước đến khoảng nửa triệu. Tổng Đình công "hai tiếng" gồm tất cả các công dân của Tiệp Khắc, được tổ chức vào ngày 27.
Đài tưởng niệm của cuộc cách mạng Nhung tại Bratislava (Námestie SNP), Slovakia
Với sự sụp đổ của các chính phủ cộng sản khác, và cuộc biểu tình đường phố ngày càng tăng, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc công bố vào ngày 28 Tháng 11 rằng họ sẽ từ bỏ quyền lực và từ bỏ nhà nước độc đảng. Dây thép gai và chướng ngại vật khác đã được gỡ bỏ từ biên giới với Tây Đức và Áo vào đầu tháng mười hai. Ngày 10 Tháng 12, Chủ tịch Gustáv Husák bổ nhiệm chính phủ phi cộng sản đầu tiên ở Tiệp Khắc từ năm 1948, và từ chức. Alexander Dubček được bầu làm người phát ngôn của nghị viện liên bang vào ngày 28 và Václav Havel làm Tổng thống Tiệp Khắc vào ngày 29 Tháng 12 năm 1989.
Trong tháng 6 năm 1990 Tiệp Khắc đã tổ chức cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên kể từ năm 1946.
Tiệp Khắc bị tách thành hai nước sau khi bầu cử:
Cộng hòa Séc (ngày 1 tháng 1 năm 1993)Slovakia (ngày 1 tháng 1 năm 1993)Bulgaria[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Kết thúc của Chủ nghĩa Cộng sản ở Bulgaria
Ngày 10 tháng 11 năm 1989 - một ngày sau khi Bức tường Berlin đã bị xâm phạm – nhà lãnh đạo lâu đời của Bulgaria Todor Zhivkov bị lật đổ bởi Bộ Chính trị. Moscow dường như chấp thuận việc thay đổi lãnh đạo, mặc dù danh tiếng của Zhivkov như là một đồng minh khuất phục của Liên Xô. Tuy nhiên, sự ra đi của Zhivkov là không đủ để đáp ứng các phong trào dân chủ đang phát triển. Cùng lúc đó tác động của chương trình cải cách của Mikhail Gorbachev tại Liên Xô đã được cảm thấy ở Bulgaria vào cuối thập niên 1980, những người Cộng sản, giống như lãnh đạo của họ, đã trở nên quá yếu ớt để chống lại những nhu cầu thay đổi lâu dài.
Trong Tháng 11 năm 1989 các cuộc biểu tình về các vấn đề sinh thái được tổ chức tại Sofia, và những sớm mở rộng vào một chiến dịch chung để cải cách chính trị. Đảng Cộng sản đã phản ứng bằng cách khai trừ Zhivkov già yếu và thay thế ông ta bằng Petar Mladenov, nhưng điều này đã chỉ có một thời gian ổn định ngắn. Trong tháng 2 năm 1990 Đảng Cộng sản, buộc bởi cuộc biểu tình đường phố đã từ bỏ độc quyền của Đảng và vào tháng 6 năm 1990, bầu cử tự do đầu tiên kể từ năm 1931 đã được tổ chức, thắng của Bungari Đảng Xã hội (tên mới của Đảng Cộng sản). Mặc dù Zhivkov phải đối mặt với phiên toà vào năm 1991, ông thoát khỏi số phận nghiệt ngã của đồng chí miền Bắc của mình, Tổng thống Rumani Nicolae Ceauşescu.
Romania[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Cách mạng România
Không giống như các nước Đông Âu, Romania đã không bao giờ trải qua bất cứ phong trào chống Stalin nào, nhưng đã được độc lập với sự thống trị của Liên Xô từ những năm 1960. Năm 1989 Tháng 1, Ceauşescu, sau đó ở độ tuổi 71, được bầu lại thêm năm năm, lãnh đạo của Đảng Cộng sản Rumani, báo hiệu rằng ông dự định để vượt qua cuộc nổi dậy chống cộng sản đang càn quét phần còn lại của Đông Âu. Như Ceauşescu chuẩn bị để đi trên một chuyến thăm nhà nước Iran, Securitate của ông đã ra lệnh bắt giữ và lưu vong của một bộ trưởng địa phương nói tiếng Hungary, László Tőkés, ngày 16 tháng mười hai, vì vi phạm chế độ. Tőkés bị giam, nhưng chỉ sau khi nổ ra bạo loạn nghiêm trọng. Timisoara là thành phố đầu tiên phản ứng, ngày 16 tháng mười hai, và nó vẫn còn nổi loạn trong 5 ngày.
Trở về từ Iran, Ceauşescu ra lệnh cho một cuộc biểu tình quần chúng ủng hộ ông ở bên ngoài trụ sở đảng Cộng sản ở Bucharest. Tuy nhiên, thật bất ngờ, đám đông la ó khi ông nói. Sau khi biết sự cố xảy ra (cả hai từ Timisoara và từ Bucharest) từ các đài phát thanh phương Tây, những năm tháng của sự không hài lòng về sự đàn áp đã tồn tại trong dân Rumani và thậm chí giữa các thành phần trong chính phủ của Ceauşescu, và các cuộc biểu tình lan rộng trong cả nước.
Lúc đầu, các lực lượng an ninh của Ceauşescu tuân lệnh bắn người biểu tình, nhưng vào sáng ngày 22 Tháng 12, quân đội Rumani đột nhiên thay đổi bên. Quân đội xe tăng đã bắt đầu chuyển động hướng tới Ủy ban Trung ương với đám đông tràn ngập bên cạnh. Những người nổi loạn buộc mở cửa các cửa ra vào của tòa nhà Trung ương trong một nỗ lực để bắt Ceauşescu và vợ ông, Elena, nhưng họ đã trốn thoát qua một máy bay trực thăng đang chờ họ trên mái của tòa nhà. Các cuộc cách mạng dẫn đến 1104 người tử vong.
Vào ngày lễ Giáng Sinh, truyền hình Rumani cho thấy Ceauşescus phải đối mặt với một phiên xử vội vàng, và sau đó là tử hình. Một Hội đồng Mặt trận lâm thời cứu quốc đã tiếp nhận và công bố cuộc bầu cử cho tháng 4 năm 1990. Các cuộc bầu cử đầu tiên đã được thực sự tổ chức vào ngày 20 Tháng 5 năm 1990.
Albania[sửa | sửa mã nguồn]
Tại Cộng hoà xã hội chủ nghĩa nhân dân Albania, Enver Hoxha, người cai trị Albania trong bốn thập kỷ với bàn tay sắt, đã chết vào 11 tháng 4 năm 1985. Người kế nhiệm ông, Ramiz Alia, bắt đầu dần dần lới lỏng chế độ cai trị. Năm 1989, các cuộc nổi dậy đầu tiên bắt đầu tại Shkodra và lây lan ra các thành phố khác. Cuối cùng, chế độ hiện hành đưa một số tự do hóa, bao gồm cả các biện pháp năm 1990 quy định quyền tự do đi du lịch nước ngoài. Những nỗ lực bắt đầu cải thiện quan hệ với thế giới bên ngoài. Tháng 3 năm 1991 cuộc bầu cử cho phép những người cộng sản trước đây nắm quyền, nhưng một cuộc tổng biểu tình và đối lập đô thị dẫn đến việc thành lập một nội các liên minh bao gồm cả phi cộng sản. Đảng cựu cộng sản Albania đã bị loại trong cuộc bầu cử tháng 3 năm 1992, giữa lúc sự sụp đổ kinh tế và bất ổn xã hội.
Nam Tư[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Giải tán Nam Tư và Chiến tranh Nam Tư
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Liên bang Nam Tư không phải là một phần của Khối hiệp ước Warszawa, nhưng theo đuổi phiên bản "cộng sản" riêng của mình theo Josip Broz Tito.Đó là một nhà nước đa sắc tộc, và những căng thẳng giữa các dân tộc đầu tiên leo thang với mùa xuân Croatia cái gọi là của 1970-71, một phong trào tự trị lớn hơn của Croatia, đã được dập tắt. Năm 1974 có thay đổi hiến pháp theo phân cấp một số các quyền hạn của liên bang cho các nước cộng hòa thành phần và các tỉnh. Sau cái chết của Tito vào năm 1980 đã tăng căng thẳng sắc tộc, đầu tiên Kosovo cộng đồng đa số tiếng Albania. Trong cuối những năm 1980 lãnh đạo Serbia Slobodan Milošević sử dụng cuộc khủng hoảng Kosovo để thúc đẩy tăng chủ nghĩa dân tộc Serbia và cố gắng để củng cố và thống trị đất nước, xa lánh các nhóm dân tộc khác.
Song song với quá trình này, Slovenia đã chứng kiến một chính sách tự do hóa dần dần từ năm 1984, không giống như các Perestroika của Liên Xô. Điều này gây căng thẳng giữa các Liên minh Cộng sản của Slovenia ở một bên, và Trung ương Đảng và Quân đội Liên bang Nam Tư ở phía bên kia. Vào giữa tháng 5 năm 1988, Liên minh nông dân của Slovenia đã được tổ chức như tổ chức chính trị đầu tiên phi cộng sản trong nước. Sau đó trong cùng một tháng, quân đội Nam Tư bị bắt giữ bốn nhà báo của tạp chí Mladina, kết án họ là tiết lộ bí mật nhà nước. Phiên toà Ljubljana gây ra cuộc biểu tình quần chúng ở Ljubljana, các thành phố của Slovenia khác. Ủy ban Bảo vệ nhân quyền được thành lập như là nền tảng của tất cả phong trào chính trị Phi Cộng sản. Đến đầu năm 1989, một số đảng phái chính trị chống Cộng sản đã được công khai hoạt động, thách thức quyền bá chủ của Đảng cộng sản Slovenia. Ngay sau đó, Đảng Cộng sản Slovenia, dưới áp lực của xã hội dân sự của mình, bước vào trong cuộc xung đột với các lãnh đạo Cộng sản Serbia.
Vào tháng 1 năm 1990, Đại hội bất thường của Liên đoàn của Cộng sản Nam Tư đã được triệu tập để giải quyết các tranh chấp giữa các bên độc lập. Ở thế thiểu số, những người Cộng sản Slovenia rời bỏ Quốc hội, do đó trên thực tế mang đến sự kết thúc Đảng Cộng sản Nam Tư. Đảng Cộng sản Slovenia đã được theo bởi những người Croatia. Cả hai bên của hai nước cộng hòa miền Tây đàm phán tự do bầu cử đa đảng với các phong trào đối lập của riêng mình.
Vào mùa xuân năm 1990, trình diễn dân chủ và chống Nam Tư liên minh đã giành được cuộc bầu cử tại Slovenia, trong khi các cuộc bầu cử Croatia đã chứng kiến chiến thắng của những người theo chủ nghĩa dân tộc. Các kết quả đã được nhiều cân bằng hơn ở Bosnia và Herzegovina và Macedonia, trong khi các cuộc bầu cử quốc hội và tổng thống ở Serbia và Montenegro hợp nhất sức mạnh của Milošević và những người ủng hộ ông ta. Cuộc bầu cử tự do vào mức độ liên bang đã không bao giờ thực hiện. Thay vào đó, các lãnh đạo Slovenia và Croatia bắt đầu chuẩn bị kế hoạch ly khai khỏi liên bang.
Năm 1998 - 1999 thì xảy ra sự kiện chiến tranh Kosovo do Mỹ và khối quân sự Nato tấn công vào Nam Tư cũ.
Leo thang căng thẳng sắc tộc và quốc gia đã dẫn tới các cuộc chiến tranh Nam Tư và độc lập của các (liên bang) các đơn vị thành phần, trình tự thời gian:
Slovenia (25 tháng 6 năm 1991)Croatia (25 tháng 6 năm 1991)Cộng hòa Macedonia (Ngày 08 tháng 9 năm 1991)Bosnia và Herzegovina (Ngày 01 tháng 3 năm 1992)Serbia và Montenegro (2 công đoàn nhà nước từ 1992-2006). Montenegro tuyên bố độc lập vào ngày 03 tháng 6 năm 2006, trong khi Serbia tuyên bố thừa kế của mình cho các công đoàn như là một nhà nước độc lập vào ngày 05 tháng 6 năm 2006.Kosovo (ngày 17 tháng 2 năm 2008, một phần được công nhận)Hội nghị thượng đỉnh Malta[sửa | sửa mã nguồn]
Mikhail Gorbachev và Tổng thống Mỹ George Bush trên boong tàu của Liên Xô Maxim Gorky, Marsaxlokk Harbour.
Hội nghị thượng đỉnh Malta bao gồm một cuộc họp giữa Tổng thống Mỹ George HW Bush và nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev, diễn ra khoảng 2-3 tháng mười hai, năm 1989, chỉ một vài tuần sau sự sụp đổ của Bức tường Berlin, trong đó hai bên chính thức kết thúc chiến tranh lạnh, một phần là kết quả của phong trào ủng hộ dân chủ rộng lớn. Đó là cuộc họp thứ hai của họ sau một cuộc họp trong đó có Tổng thống Ronald Reagan, tại New York vào tháng 12 năm 1988.
Các bản tin vào thời gian này[18] gọi Hội nghị thượng đỉnh Malta là quan trọng nhất kể từ năm 1945, khi Thủ tướng Anh Winston Churchill, thủ tướng Liên Xô Joseph Stalin và Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đã nhất trí về một kế hoạch hậu chiến cho châu Âu tại Hội nghị Yalta.
Trình tự thời gian bầu cử ở Đông Âu từ 1989-1991[sửa | sửa mã nguồn]
Giữa mùa xuân 1989 và mùa xuân 1991, các nước thuộc Liên Xô và đông Âu dần từ bỏ chế độ Xã hội chủ nghĩa. Tại một số nước, Đảng Cộng sản bị giải thể hoặc thậm chí bị cấm hoạt động trong một thời gian. Ở Trung và Đông Âu, kể cả những người đã từng là công dân của nước Liên Xô và Nam Tư cũ, đã tham gia bầu cử nhiều đảng phái lần đầu tiên trong nhiều thập kỷ. Dưới đây là danh sách các cuộc bầu cử ở Đông Âu sau Các cuộc cách mạng 1989:Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu hay được phương Tây gọi Cuộc cách mạng năm 1989 (cũng được gọi là Mùa thu của Cộng sản, Sự sụp đổ của khối Cộng sản chủ nghĩa, Các cuộc cách mạng ở Đông Âu và Mùa thu của Quốc gia [2]) là sự sụp đổ của các nhà nước cộng sản theo mô hình kế hoạch hóa của Liên Xô ở Đông Âu.
Những sự kiện này bắt đầu từ Ba Lan vào năm 1989,[3][4] và tiếp tục ở Hungary, Đông Đức, Bulgaria, Tiệp Khắc và România. Một đặc tính phổ biến cho hầu hết các cuộc cách mạng này là việc sử dụng rộng rãi các chiến dịch của lực lượng đối lập chống lại chế độ độc đảng và góp phần gây áp lực với sự thay đổi [5]. Romania là nước Đông Âu duy nhất lật đổ chế độ Xã hội chủ nghĩa của mình bằng bạo lực [6]. Sự kiện Thiên An Môn đã không thành công trong việc kích thích sự thay đổi chính trị lớn ở Trung Quốc. Tuy nhiên, hình ảnh mạnh mẽ của các sự thách thức trong những cuộc biểu tình đó đã giúp gây ra các sự kiện ở những phần khác của thế giới. Trong số các cuộc biểu tình chống Cộng nổi tiếng nhất là sự sụp đổ của Bức tường Berlin, đã phục vụ như là cửa ngõ tượng trưng để thống nhất nước Đức vào năm 1990.
Việc Liên Xô bị giải thể vào cuối năm 1991 dẫn đến kết quả là Nga và 14 quốc gia tuyên bố tách khỏi Liên Xô: Armenia, Azerbaijan, Belarus, Estonia, Georgia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Latvia, Litva, Moldova, Tajikistan, Turkmenistan, Ukraina và Uzbekistan. Chủ nghĩa xã hội sụp đổ tại Albania và Nam Tư từ năm 1990 đến 1992, chia thành năm nước kế tục: Slovenia, Croatia, Cộng hòa Macedonia, Bosnia và Herzegovina, và Cộng hòa Liên bang Nam Tư (gồm Serbia, Montenegro và Kosovo). Tác động này cũng được cảm thấy ở hàng chục quốc gia xã hội chủ nghĩa khác. Chế độ Xã hội Chủ nghĩa đã bị bỏ rơi ở các nước như Campuchia, Ethiopia, Mông Cổ và Nam Yemen... Sự sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến tuyên bố kết thúc của Chiến tranh Lạnh.
Mục lục
1Bối cảnh1.1Sự nổi lên của phong trào cộng sản1.2Áp lực từ phương Tây1.3Sự xuất hiện của Công đoàn Đoàn Kết tại Ba lan1.4Mikhail Gorbachev2Dự đoán về sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết3Khởi đầu sụp đổ4Quá trình sụp đổ4.1Ba Lan4.2Hungary4.3Đông Đức4.4Tiệp Khắc4.5Bulgaria4.6Romania4.7Albania4.8Nam Tư5Hội nghị thượng đỉnh Malta6Trình tự thời gian bầu cử ở Đông Âu từ 1989-19917Sự sụp đổ của Liên Bang Xô viết8Ảnh hưởng của Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu8.1Các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa trên thế giới8.1.1Châu Phi8.1.2Trung Đông8.1.3Châu Á8.1.4Mỹ Latinh8.1.5Châu Đại Dương8.2Các nước khác9Nguyên nhân của sự sụp đổ hệ thống chủ nghĩa xã hội10Xem thêm11Chú thích12Tham khảoBối cảnh[sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ (timeline) sự sụp đổ của các nhà nước XHCN ở các nước Đông Âu và sự tan rã của Liên Xô
Sự nổi lên của phong trào cộng sản[sửa | sửa mã nguồn]
Xem thêm: Liên Xô, Khối phía đông, và Danh sách các nước xã hội chủ nghĩa
Ý tưởng của Chủ nghĩa xã hội đã đạt được giữa các tầng lớp công nhân của thế giới từ thế kỷ 19, lên đến đỉnh điểm trong thế kỷ 20 khi một số quốc gia hình thành Đảng Cộng sản của riêng họ. Thông thường, chủ nghĩa xã hội không được ưa chuộng bởi tầng lớp cầm quyền cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỉ 20; do vậy, ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa bị đàn áp và điều này đã được thực hành ngay cả ở các nước thực hiện chế độ đa đảng.
Cuộc cách mạng Bolshevik năm 1917 đã chứng kiến sự lật đổ một nhà nước dân tộc Nga trước đó cùng với chế độ quân chủ của nó. Những người Bolshevik bao gồm các dân tộc của Nga đã lập ra Liên Xô trong suốt giai đoạn sau đó.
Trong thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, phong trào Cộng sản đã trỗi dậy tại nhiều nơi trên thế giới (ví dụ như ở Vương quốc Nam Tư thì nó đã phát triển phổ biến tại các đô thị trong suốt những năm 1920). Điều này dẫn đến một loạt các cuộc thanh trừng ở nhiều nước để dập tắt phong trào.
Sau thế chiến II, một loạt các quốc gia cộng sản chủ nghĩa đã ra đời ở châu Á và Đông Âu, tiêu biểu là CHND Trung Hoa. Các Đảng Cộng sản được thành lập ngày càng nhiều ở khắp nơi trên thế giới.
Khi phong trào cộng sản đã vào một giai đoạn phát triển phổ biến trên khắp Đông Âu, hình ảnh của họ cũng đã bắt đầu mờ nhạt đi. Khi các nhóm chính trị đối lập tăng cường các chiến dịch của họ để chống lại phong trào cộng sản, họ đã dùng đến bạo lực (bao gồm cả vụ đánh bom và giết người) để đạt được mục tiêu của họ: điều này dẫn phần lớn dân chúng trước đây ủng hộ Đảng Cộng sản đã mất sự quan tâm đến ý thức hệ này. Một sự hiện diện của Đảng Cộng sản vẫn được duy trì nhưng mất đi vai trò trước kia của nó.
Áp lực từ phương Tây[sửa | sửa mã nguồn]
Sau thế chiến thứ II, mặc dù là nước thắng trận nhưng Liên bang Xô Viết (gọi tắt là Liên Xô) bị thiệt hại nặng nề về người và của, đặc biệt là vấp phải sự chống phá của các phe đối lập nói chung và các nước tư bản nói riêng. Các nước tư bản đứng đầu là Mỹ, thực hiện chiến lược "toàn cầu chống XHCN" bằng những hành động cô lập kinh tế-chính trị, cũng từ đây thế giới bước vào thời kì "chiến tranh lạnh. Mỹ đưa ra lệnh "cấm vận" đối với Liên Xô, khiến tình hình nước này đã khó khăn nay càng trở nên khó khăn hơn. Bên cạnh đó, Mỹ thành lập "Khối Bắc Đại Tây Dương" (gọi tắt là NATO) để bao vây chính trị, tạo thế lực đồng minh chống XHCN. Để thoát khỏi áp lực nặng nề đó, Liên Bang Xô Viết đã thành lập "Khối quân sự Warszawa", tạo đối trọng với NATO và thành lập "Hội đồng tương trợ kinh tế" nhằm giải quyết tình trạng cô lập kinh tế của các nước phương Tây và Mỹ.[cần dẫn nguồn]
Sự xuất hiện của Công đoàn Đoàn Kết tại Ba lan[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Công đoàn Đoàn kết
Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Ba Lan trong năm 1980 đã dẫn đến sự hình thành của tổ chức công đoàn độc lập, Công đoàn Đoàn kết, do Lech Wałęsa lãnh đạo, dần dần đã trở thành một lực lượng chính trị đối lập. Ngày 13 tháng 12 năm 1981, sau khi Công đoàn Đoàn kết thể hiện rõ tư tưởng đối lập với chính phủ, Thủ tướng Ba Lan Wojciech Jaruzelski bắt đầu trấn áp Công đoàn Đoàn kết bằng cách tuyên bố thiết quân luật ở Ba Lan, đình chỉ hoạt động và tạm thời bắt giam tất cả các nhà lãnh đạo của tổ chức này.
Mikhail Gorbachev[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Mikhail Gorbachev, Perestroika, Glasnost, và Dân chủ hóa (Công đoàn Xô Viết)
Mặc dù một số quốc gia khối Đông đã nỗ lực cải cách kinh tế và chính trị, từ những năm 1950 (ví dụ Cách mạng Hungary năm 1956 và Mùa xuân Prague năm 1968), Mikhail Gorbachev trở thành tổng bí thư tối cao Liên Xô năm 1985 với những chính sách cải cách xu hướng mở cửa, tự do hóa. Vào giữa những năm 1980, một thế hệ trẻ của Liên Xô xuất hiện, do Gorbachev lãnh đạo, đã bắt đầu ủng hộ những cải cách mới nhằm thoát khỏi tình trạng phát triển trì trệ dưới thời tổng bí thư Brezhnev. Sau nhiều thập kỷ, Liên Xô hiện đang phải đối mặt với một giai đoạn trì trệ kinh tế nghiêm trọng và cần cải tiến công nghệ cũng như vay vốn phương Tây để bù đắp cho sự lạc hậu ngày càng tăng. Các chi phí để duy trì quân sự, KGB, trợ cấp cho nước ngoài, vv.. khiến nền kinh tế bao cấpcủa Liên Xô ngày càng lâm vào trì trệ.
Những dấu hiệu đầu tiên của cuộc cải cách lớn là vào năm 1986 khi Gorbachev đưa ra chính sách glasnost (chính sách công khai hóa và minh bạch hóa đến mức tối đa các hoạt động của các cơ quan nhà nước và tự do thông tin và ngôn luận) và chính sách perestroika (chính sách cải cách chính trị và kinh tế) ở Liên Xô, để nhấn mạnh việc chống tham nhũng trong đội ngũ lãnh đạo Liên Xô và sự cần thiết của việc tái cơ cấu nền kinh tế. Vào mùa xuân năm 1989, Liên Xô không chỉ trải qua cuộc tranh luận truyền thông sôi nổi mà còn tổ chức các cuộc bầu cử đa ứng cử đầu tiên trong Đại hội nhân dân mới thành lập. Trong khi chính sách glasnost bề ngoài ủng hộ sự cởi mở và phê phán chính trị, những điều này chỉ được phép trong một phạm vi hẹp do nhà nước quyết định. Công chúng trong khối Đông vẫn phải chịu giám sát chính trị bởi các lực lượng cảnh sát.
Gorbachev kêu gọi các chính quyền Trung ương và chính quyền ở Đông Nam Âu áp dụng chính sách perestroika và glasnost ở các quốc gia của họ. Tuy nhiên, trong khi các nhà cải cách ở Hungary và Ba Lan được khuyến khích áp dụng bởi lực lượng tự do lan rộng từ khối phía đông, các nước khối Đông khác vẫn còn hoài nghi công khai và thể hiện sự ác cảm trong cải cách này. Những người tin rằng những sáng kiến cải cách của Gorbachev sẽ không trụ được lâu bao gồm các nhà cộng sản Erich Honecker của Đông Đức, Todor Zhivkov của Bulgaria, Gustáv Husák của Tiệp Khắc và Nicolae Ceauşescu của Romania đã lờ đi những lời kêu gọi thay đổi.[7] "Khi người hàng xóm của bạn dán giấy tường mới nó không có nghĩa là bạn cũng phải làm theo", đó là tuyên bố của một thành viên bộ chính trị Đông Đức.[8]
Dự đoán về sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết[sửa | sửa mã nguồn]
Có nhiều dự đoán rằng Liên bang Xô viết cuối cùng sẽ bị tan rã trước khi quá trình giải thể bắt đầu với sự sụp đổ của Bức tường Berlin vào tháng 10 năm 1989.
Các tác giả dự đoán sự sụp đổ của Liên bang Xô viết bao gồm Andrei Amalrik trong cuốn Liên bang Xô viết sẽ tồn tại đến 1984? (1970), học giả người Pháp Emmanuel Todd trong La chute finale: Essais sur la décomposition de la sphère Soviétique (The Fall Final: Bài luận về sự tan rã của Liên Xô) (1976), nhà kinh tế Ravi Batra trong cuốn sách của ông là Sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và cộng sản năm 1978 và sử gia người Pháp Hélène Carrère d'Encausse.[9] Ngoài ra, Walter Laqueur lưu ý rằng "bài báo khác nhau xuất hiện trong các tạp chí chuyên ngành về các vấn đề của cộng sản và nghiên cứu về sự phân rã và sự sụp đổ có thể có của chế độ Xô viết."[10]
Tại Hoa Kỳ, chủ yếu là giữa những người bảo thủ,[11][12] các chính trị gia nhất ghi có dự đoán sự sụp đổ của Liên bang Xô viết là Tổng thống Ronald Reagan.
Các dự đoán được thực hiện trước 1980 về sự sụp đổ của Liên Xô đều coi sự sụp đổ là điều xảy ra trong tương lai hơn là một xác suất. Tuy nhiên, đối với một số ý tưởng (như Amalrik và Todd) được nghiên cứu thấu đáo hơn là suy nghĩ thoáng qua.[10] Trong trường hợp của Ludwig von Mises, ông gọi là sự sụp đổ của Liên Xô là một sự chắc chắn tuyệt đối, tuy nhiên ông không đưa ra bất kỳ khoảng thời gian hợp lý để kiểm tra dự đoán của mình.
Khởi đầu sụp đổ[sửa | sửa mã nguồn]
Người dân mang tem phiếu xếp hàng để mua tại một cửa hàng, hình ảnh tiêu biểu về thời bao cấp ở Ba Lan trong những năm 1980
Cuối những năm 1980, hầu như tất cả các nền kinh tế bao cấp các ở nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô đều có vấn đề. Người dân ở Kavkaz và vùng Bal đã yêu cầu quyền tự chủ từ Moskva, sau đó điện Kremlin đã bị mất quyền kiểm soát tại một số khu vực và lãnh thổ trong Liên Xô. vào tháng 11 năm 1988, Cộng hòa Chủ nghĩa Xô Viết Estonia đã ban hành tuyên bố chủ quyền lãnh thổ,[13] dẫn đến các nước cộng hòa khác trong khối phía Đông cũng đưa ra tuyên bố tương tự về quyền tự chủ.
Thảm họa hạt nhân Chernobyl xảy ra hồi tháng 4 -1986 đã tác động, ảnh hưởng rất lớn lên chính trị và xã hội, Thảm họa Chernobyl là một trong những yếu tố khởi nguồn quan trọng gây ra sự sụp đổ khối Đông và Liên Xô năm 1991. Vụ tai nạn đã tác động to lớn đối với chính sách Glasnost của Liên Xô nhằm tăng sự minh bạch hóa đến mức tối đa các hoạt động của các cơ quan nhà nước[14][15] Không thể thống kê hết được những hậu quả do thảm họa hạt nhân gây ra. Theo Mikhail Gorbachev, Liên Xô đã chi 18 tỷ rúp (tương đương 18 tỷ đô la Mỹ vào thời điểm đó) về ngăn chặn và khử nhiễm phóng xạ, Ngân khố Liên Xô gần như cạn kiệt và bị phá sản.[16] Ở Ukraine, thảm họa Chernobyl là một biểu tượng của phong trào dân tộc chủ nghĩa, biểu tượng của tất cả những gì Liên Xô đã làm sai gây hậu quả nghiêm trọng, Ukraine đã phải phát triển một hệ thống phúc lợi lớn và nặng nề để khắc phục những hậu quả hạt nhân.
Quá trình sụp đổ[sửa | sửa mã nguồn]
Các sự kiện năm 1989 còn được gọi là Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản (Fall of Communism, the Collapse of Communism), các cuộc biểu tình tại Đông Âu là những phong trào lật đổ các nhà nước xã hội chủ nghĩa tại Liên Xô của các nước Đông Âu.
Những sự kiện bắt đầu tại Ba Lan,[3][17] và tiếp tục ở Hungary, Đông Đức, Bulgaria, Tiệp Khắc và Romania. Romania là nước duy nhất thuộc Đông Âu lật đổ chế độ cộng sản bằng bạo lực [6] Các cuộc biểu tình Thiên An Môn năm 1989 không thành công để kích thích những thay đổi chính trị lớn ở Trung Quốc. Tuy nhiên, hình ảnh mạnh mẽ của người biểu tình trong cuộc biểu tình đó đã giúp để thúc đẩy các sự kiện tương tự ở các khu vực khác của thế giới.
Albania và Nam Tư từ bỏ chủ nghĩa cộng sản từ năm 1990 đến 1992, chia thành năm nước năm 1992: Slovenia, Croatia, Cộng hòa Macedonia, Bosnia và Herzegovina, và Cộng hòa Liên bang Nam Tư (gồm Serbia và Montenegro). Liên Xô bị giải thể vào cuối năm 1991, kết quả là Nga và 14 quốc gia mới tuyên bố độc lập từ Liên bang Xô Viết: Armenia, Azerbaijan, Belarus, Estonia, Georgia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Latvia, Lithuania, Moldova, Tajikistan, Turkmenistan, Ukraine và Uzbekistan. Tác động của sự sụp đổ này được cảm thấy ở hàng chục quốc gia xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Cộng sản đã bị bỏ rơi ở các nước như Campuchia, Ethiopia, và Mông Cổ và Nam Yemen. Sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN đã dẫn tới tuyên bố kết thúc chiến tranh lạnh.
Việc áp dụng các hình thức khác nhau của nền kinh tế thị trường thường dẫn đầu trong việc giảm mức sống ở các nước Đông Âu thời kỳ hậu Cộng sản, cùng với tác dụng phụ bao gồm sự gia tăng của đầu sỏ chính trị kinh doanh tại các nước như Nga, và phát triển xã hội và kinh tế. Cải cách chính trị đã bị thay đổi, một số quốc gia Đảng cộng sản vẫn có thể giữ cho mình quyền lực, chẳng hạn như Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, trong khi đối với các quốc gia các đảng chính trị khác đã thành công. Nhiều tổ chức cộng sản và xã hội ở phương Tây có tôn chỉ quay sang nền dân chủ xã hội. Các cảnh quan chính trị châu Âu đã quyết liệt thay đổi, với rất nhiều nước Đông Âu gia nhập NATO và hội nhập kinh tế mạnh mẽ hơn châu Âu và xã hội tiếp đó.
Ba Lan[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Kết thúc của Chủ nghĩa Cộng sản tại Ba Lan
Chủ tịch Công đoàn Đoàn kết Lech Wałęsa (giữa) với Tổng thống Mỹ George H. Bush (phải) và Barbara Bush (trái) ở Warsaw, tháng 7 năm 1989.
Đại hội lần thứ tư của Liên Hợp Đảng Người lao động Ba Lan, được tổ chức vào năm 1963.
Vào tháng 4 năm 1989, Phong trào Công đoàn Đoàn kết lại được hợp pháp hóa và được tham gia cuộc bầu cử quốc hội vào ngày 4 tháng 6 năm 1989 (bất ngờ, ngày hôm sau vụ đàn áp những người biểu tình Trung Quốc nửa đêm ở Thiên An Môn). Một trận động đất chính trị diễn ra. Chiến thắng Công đoàn đoàn kết vượt qua tất cả các dự đoán. Các ứng cử viên giành được tất cả các chỗ họ được phép cạnh tranh trong Hạ viện, trong khi tại Thượng viện họ chiếm 99 trong số 100 ghế (với các ghế còn lại được thắng cử bởi một ứng cử viên độc lập). Đồng thời, nhiều ứng cử viên nổi bật của Đảng Cộng sản đã thất bại để đạt được ngay cả những số phiếu tối thiểu cần thiết để nắm bắt những ghế đã được dành riêng cho họ.
Một chính phủ Phi Cộng sản mới, lần đầu tiên của loại hình này ở các nước Khối Đông Âu, đã tuyên thệ nhậm chức vào văn phòng vào tháng 9 năm 1989.
Hungary[sửa | sửa mã nguồn]
Theo sau Ba Lan, Hungary đã tới để trở lại với một chính phủ không cộng sản. Mặc dù Hungary đã đạt được một số cải cách kinh tế lâu dài và tự do hóa chính trị giới hạn trong những năm 1980, cải cách chính chỉ xảy ra sau khi János Kádár làm Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản năm 1988. Cùng năm đó, Quốc hội đã thông qua một "gói cải cách dân chủ", trong đó bao gồm đa nguyên, tự do hội họp, lập hội, và báo chí; một luật bầu cử mới, và sửa đổi một hiến pháp cấp tiến, và nhiều hoạt động khác. Trong tháng 10 năm 1989, Đảng Cộng sản triệu tập đại hội cuối cùng của mình và sau đó tái thành lập trở thành Đảng Xã hội Hungary, mà vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay (tên gọi là MSZP).Trong một phiên họp lịch sử từ 16 tháng 10 đến 20 tháng 10, Quốc hội đã thông qua luật cho phép bầu cử quốc hội đa đảng và một cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp. Pháp luật về chuyển Hungary từ Cộng hòa Nhân dân thành Cộng hòa Hungary, đảm bảo nhân quyền và dân quyền, và tạo ra một cấu trúc thể chế đảm bảo phân chia quyền lực giữa các ngành tư pháp, lập pháp, và hành pháp của chính phủ. Hungary đề nghị quân đội Xô viết "về nhà." Một ý tưởng đầu tiên được đề xuất bởi Viktor Orbán tại lễ tang chôn lại của Imre Nagy.
Đông Đức[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Die Wende, Tái thống nhất nước Đức, và Cách mạng hòa bình
Bức tường Berlin tại Cổng Brandenburg, ngày 10 tháng 11 năm 1989
Sau khi biên giới cải cách đã được mở từ phía Hungary, ngày càng có nhiều người Đông Đức đã bắt đầu di cư sang Tây Đức thông qua biên giới của Hungary với nước Áo. Đến cuối tháng 9 năm 1989, hơn 30.000 người Đông Đức đã trốn thoát sang Tây Đức trước khi Đông Đức từ chối cho phép du lịch đến Hungary, để lại CSSR (Tiệp Khắc) là các nhà nước láng giềng duy nhất mà người Đông Đức có thể đi du lịch. Hàng ngàn người Đông Đức đã cố gắng để tiếp cận Tây Đức bằng cách chiếm các cơ sở ngoại giao ở thủ đô Đông Âu khác, đặc biệt là Đại sứ quán Prague, nơi hàng ngàn người cắm trại trong vườn lầy lội từ tháng Tám đến tháng Mười Một. Đông Đức đã đóng cửa biên giới với Tiệp Khắc (CSSR) vào đầu tháng Mười, từ đó cô lập mình khỏi tất cả các nước láng giềng. Do cơ hội cuối cùng để tẩu thoát đã bị đóng lại, những người Đông Đức bắt đầu cuộc biểu tình Ngày Thứ Hai. Hàng trăm ngàn người dân ở một số thành phố - đặc biệt là Leipzig - đã tham gia.
Sau khi các cuộc biểu tình ngày 02 Tháng Mười, lãnh đạo Đảng Thống nhất Xã hội Chủ nghĩa (SED) Erich Honecker đã ra lệnh bắn và giết cho quân đội [19] Đảng Cộng sản chuẩn bị một lực lượng cảnh sát rất lớn, dân quân, cảnh sát chìm (Stasi), và quân tác chiến và đã có tin đồn về một thảm sát Thiên An Mônnữa. [20]
Ngày 06 tháng 10 và 07 tháng 10, Gorbachev viếng thăm Đông Đức để đánh dấu kỷ niệm 40 năm nước Cộng hòa Dân chủ Đức, và thúc giục lãnh đạo Đông Đức chấp nhận cải cách. Một câu nói nổi tiếng của ông được đưa ra trong tiếng Đức là "Wer zu spät kommt, den bestraft das Leben" (Ai đã là quá muộn sẽ bị chết). Tuy nhiên, Erich Honecker vẫn chống đối cải cách, với chế độ của ông thậm chí còn đi xa hơn như cấm lưu hành các ấn phẩm của Liên Xô mà được xem như là phá hoại.
Đối mặt với tình trạng bất ổn dân sự đang diễn ra, phán quyết của Đảng Thống nhất Xã hội chủ nghĩa (SED) cho Honecker về vườn vào giữa tháng Mười, và thay thế ông ta bằng Egon Krenz. Ngoài ra, biên giới Tiệp Khắc đã được mở cửa trở lại, nhưng chính quyền Tiệp Khắc sớm để cho tất cả Đông Đức du lịch trực tiếp tới Tây Đức mà không có thêm thủ tục gì, do đó nâng phần mình của Bức màn sắt vào ngày 3 tháng 11. Không thể để ngăn chặn dòng người tị nạn tiếp theo với phương Tây thông qua Tiệp Khắc, chính quyền Đông Đức cuối cùng đầu hàng trước áp lực công chúng bằng cách cho phép các công dân Đông Đức vào Tây Berlin và Tây Đức trực tiếp, thông qua các điểm biên giới hiện tại, vào ngày 09 tháng 11, mà không cần phải thông báo với lính biên phòng canh biên giới.
Kích hoạt bởi các ngôn từ thất thường của Günter Schabowski trong một cuộc họp báo truyền hình, nói rằng những thay đổi kế hoạch là "có hiệu lực ngay lập tức", hàng trăm ngàn người đã lợi dụng cơ hội, ngay sau mới điểm qua đã được mở trong các bức tường Berlin và dọc biên giới với Tây Đức. Đến tháng mười hai, Krenz đã được thay thế, và chế độ độc tài của Đảng Thống nhất Xã hội chủ nghĩa đã kết thúc. Điều này dẫn đến sự tăng tốc của quá trình cải cách ở Đông Đức đã kết thúc với sự thống nhất cuối cùng của Đông và Tây Đức có hiệu lực vào ngày 03 tháng 10 năm 1990.
Sự sẵn sàng của điện Kremlin từ bỏ một đồng minh chiến lược quan trọng đánh dấu một sự thay đổi đầy kịch tính của một siêu cường Liên Xô và các mô hình thay đổi cơ bản trong quan hệ quốc tế, trước năm 1989 vẫn thống trị sự chia cắt Đông Tây Berlin.
Tiệp Khắc[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Cách mạng Nhung
Các cuộc biểu tình bên dưới tượng đài ở Quảng trường Wenceslas Prague, Tiệp Khắc.
Các "Cách mạng nhung" là một cuộc cách mạng bất bạo động ở Tiệp Khắc mà thấy việc lật đổ chính phủ Cộng sản. Vào ngày 17 tháng 11 năm 1989 (thứ sáu), cảnh sát chống bạo động đàn áp một cuộc biểu tình sinh viên hòa bình ở Prague. Sự kiện đó đã gây ra một loạt các cuộc biểu tình phổ biến từ tháng 19 đến cuối tháng Mười Hai. Đến ngày 20 tháng 11 số lượng người biểu tình hòa bình tập hợp tại Praha đã tăng lên từ 200.000 ngày hôm trước đến khoảng nửa triệu. Tổng Đình công "hai tiếng" gồm tất cả các công dân của Tiệp Khắc, được tổ chức vào ngày 27.
Đài tưởng niệm của cuộc cách mạng Nhung tại Bratislava (Námestie SNP), Slovakia
Với sự sụp đổ của các chính phủ cộng sản khác, và cuộc biểu tình đường phố ngày càng tăng, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc công bố vào ngày 28 Tháng 11 rằng họ sẽ từ bỏ quyền lực và từ bỏ nhà nước độc đảng. Dây thép gai và chướng ngại vật khác đã được gỡ bỏ từ biên giới với Tây Đức và Áo vào đầu tháng mười hai. Ngày 10 Tháng 12, Chủ tịch Gustáv Husák bổ nhiệm chính phủ phi cộng sản đầu tiên ở Tiệp Khắc từ năm 1948, và từ chức. Alexander Dubček được bầu làm người phát ngôn của nghị viện liên bang vào ngày 28 và Václav Havel làm Tổng thống Tiệp Khắc vào ngày 29 Tháng 12 năm 1989.
Trong tháng 6 năm 1990 Tiệp Khắc đã tổ chức cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên kể từ năm 1946.
Tiệp Khắc bị tách thành hai nước sau khi bầu cử:
Cộng hòa Séc (ngày 1 tháng 1 năm 1993)Slovakia (ngày 1 tháng 1 năm 1993)Bulgaria[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Kết thúc của Chủ nghĩa Cộng sản ở Bulgaria
Ngày 10 tháng 11 năm 1989 - một ngày sau khi Bức tường Berlin đã bị xâm phạm – nhà lãnh đạo lâu đời của Bulgaria Todor Zhivkov bị lật đổ bởi Bộ Chính trị. Moscow dường như chấp thuận việc thay đổi lãnh đạo, mặc dù danh tiếng của Zhivkov như là một đồng minh khuất phục của Liên Xô. Tuy nhiên, sự ra đi của Zhivkov là không đủ để đáp ứng các phong trào dân chủ đang phát triển. Cùng lúc đó tác động của chương trình cải cách của Mikhail Gorbachev tại Liên Xô đã được cảm thấy ở Bulgaria vào cuối thập niên 1980, những người Cộng sản, giống như lãnh đạo của họ, đã trở nên quá yếu ớt để chống lại những nhu cầu thay đổi lâu dài.
Trong Tháng 11 năm 1989 các cuộc biểu tình về các vấn đề sinh thái được tổ chức tại Sofia, và những sớm mở rộng vào một chiến dịch chung để cải cách chính trị. Đảng Cộng sản đã phản ứng bằng cách khai trừ Zhivkov già yếu và thay thế ông ta bằng Petar Mladenov, nhưng điều này đã chỉ có một thời gian ổn định ngắn. Trong tháng 2 năm 1990 Đảng Cộng sản, buộc bởi cuộc biểu tình đường phố đã từ bỏ độc quyền của Đảng và vào tháng 6 năm 1990, bầu cử tự do đầu tiên kể từ năm 1931 đã được tổ chức, thắng của Bungari Đảng Xã hội (tên mới của Đảng Cộng sản). Mặc dù Zhivkov phải đối mặt với phiên toà vào năm 1991, ông thoát khỏi số phận nghiệt ngã của đồng chí miền Bắc của mình, Tổng thống Rumani Nicolae Ceauşescu.
Romania[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Cách mạng România
Không giống như các nước Đông Âu, Romania đã không bao giờ trải qua bất cứ phong trào chống Stalin nào, nhưng đã được độc lập với sự thống trị của Liên Xô từ những năm 1960. Năm 1989 Tháng 1, Ceauşescu, sau đó ở độ tuổi 71, được bầu lại thêm năm năm, lãnh đạo của Đảng Cộng sản Rumani, báo hiệu rằng ông dự định để vượt qua cuộc nổi dậy chống cộng sản đang càn quét phần còn lại của Đông Âu. Như Ceauşescu chuẩn bị để đi trên một chuyến thăm nhà nước Iran, Securitate của ông đã ra lệnh bắt giữ và lưu vong của một bộ trưởng địa phương nói tiếng Hungary, László Tőkés, ngày 16 tháng mười hai, vì vi phạm chế độ. Tőkés bị giam, nhưng chỉ sau khi nổ ra bạo loạn nghiêm trọng. Timisoara là thành phố đầu tiên phản ứng, ngày 16 tháng mười hai, và nó vẫn còn nổi loạn trong 5 ngày.
Trở về từ Iran, Ceauşescu ra lệnh cho một cuộc biểu tình quần chúng ủng hộ ông ở bên ngoài trụ sở đảng Cộng sản ở Bucharest. Tuy nhiên, thật bất ngờ, đám đông la ó khi ông nói. Sau khi biết sự cố xảy ra (cả hai từ Timisoara và từ Bucharest) từ các đài phát thanh phương Tây, những năm tháng của sự không hài lòng về sự đàn áp đã tồn tại trong dân Rumani và thậm chí giữa các thành phần trong chính phủ của Ceauşescu, và các cuộc biểu tình lan rộng trong cả nước.
Lúc đầu, các lực lượng an ninh của Ceauşescu tuân lệnh bắn người biểu tình, nhưng vào sáng ngày 22 Tháng 12, quân đội Rumani đột nhiên thay đổi bên. Quân đội xe tăng đã bắt đầu chuyển động hướng tới Ủy ban Trung ương với đám đông tràn ngập bên cạnh. Những người nổi loạn buộc mở cửa các cửa ra vào của tòa nhà Trung ương trong một nỗ lực để bắt Ceauşescu và vợ ông, Elena, nhưng họ đã trốn thoát qua một máy bay trực thăng đang chờ họ trên mái của tòa nhà. Các cuộc cách mạng dẫn đến 1104 người tử vong.
Vào ngày lễ Giáng Sinh, truyền hình Rumani cho thấy Ceauşescus phải đối mặt với một phiên xử vội vàng, và sau đó là tử hình. Một Hội đồng Mặt trận lâm thời cứu quốc đã tiếp nhận và công bố cuộc bầu cử cho tháng 4 năm 1990. Các cuộc bầu cử đầu tiên đã được thực sự tổ chức vào ngày 20 Tháng 5 năm 1990.
Albania[sửa | sửa mã nguồn]
Tại Cộng hoà xã hội chủ nghĩa nhân dân Albania, Enver Hoxha, người cai trị Albania trong bốn thập kỷ với bàn tay sắt, đã chết vào 11 tháng 4 năm 1985. Người kế nhiệm ông, Ramiz Alia, bắt đầu dần dần lới lỏng chế độ cai trị. Năm 1989, các cuộc nổi dậy đầu tiên bắt đầu tại Shkodra và lây lan ra các thành phố khác. Cuối cùng, chế độ hiện hành đưa một số tự do hóa, bao gồm cả các biện pháp năm 1990 quy định quyền tự do đi du lịch nước ngoài. Những nỗ lực bắt đầu cải thiện quan hệ với thế giới bên ngoài. Tháng 3 năm 1991 cuộc bầu cử cho phép những người cộng sản trước đây nắm quyền, nhưng một cuộc tổng biểu tình và đối lập đô thị dẫn đến việc thành lập một nội các liên minh bao gồm cả phi cộng sản. Đảng cựu cộng sản Albania đã bị loại trong cuộc bầu cử tháng 3 năm 1992, giữa lúc sự sụp đổ kinh tế và bất ổn xã hội.
Nam Tư[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Giải tán Nam Tư và Chiến tranh Nam Tư
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Liên bang Nam Tư không phải là một phần của Khối hiệp ước Warszawa, nhưng theo đuổi phiên bản "cộng sản" riêng của mình theo Josip Broz Tito.Đó là một nhà nước đa sắc tộc, và những căng thẳng giữa các dân tộc đầu tiên leo thang với mùa xuân Croatia cái gọi là của 1970-71, một phong trào tự trị lớn hơn của Croatia, đã được dập tắt. Năm 1974 có thay đổi hiến pháp theo phân cấp một số các quyền hạn của liên bang cho các nước cộng hòa thành phần và các tỉnh. Sau cái chết của Tito vào năm 1980 đã tăng căng thẳng sắc tộc, đầu tiên Kosovo cộng đồng đa số tiếng Albania. Trong cuối những năm 1980 lãnh đạo Serbia Slobodan Milošević sử dụng cuộc khủng hoảng Kosovo để thúc đẩy tăng chủ nghĩa dân tộc Serbia và cố gắng để củng cố và thống trị đất nước, xa lánh các nhóm dân tộc khác.
Song song với quá trình này, Slovenia đã chứng kiến một chính sách tự do hóa dần dần từ năm 1984, không giống như các Perestroika của Liên Xô. Điều này gây căng thẳng giữa các Liên minh Cộng sản của Slovenia ở một bên, và Trung ương Đảng và Quân đội Liên bang Nam Tư ở phía bên kia. Vào giữa tháng 5 năm 1988, Liên minh nông dân của Slovenia đã được tổ chức như tổ chức chính trị đầu tiên phi cộng sản trong nước. Sau đó trong cùng một tháng, quân đội Nam Tư bị bắt giữ bốn nhà báo của tạp chí Mladina, kết án họ là tiết lộ bí mật nhà nước. Phiên toà Ljubljana gây ra cuộc biểu tình quần chúng ở Ljubljana, các thành phố của Slovenia khác. Ủy ban Bảo vệ nhân quyền được thành lập như là nền tảng của tất cả phong trào chính trị Phi Cộng sản. Đến đầu năm 1989, một số đảng phái chính trị chống Cộng sản đã được công khai hoạt động, thách thức quyền bá chủ của Đảng cộng sản Slovenia. Ngay sau đó, Đảng Cộng sản Slovenia, dưới áp lực của xã hội dân sự của mình, bước vào trong cuộc xung đột với các lãnh đạo Cộng sản Serbia.
Vào tháng 1 năm 1990, Đại hội bất thường của Liên đoàn của Cộng sản Nam Tư đã được triệu tập để giải quyết các tranh chấp giữa các bên độc lập. Ở thế thiểu số, những người Cộng sản Slovenia rời bỏ Quốc hội, do đó trên thực tế mang đến sự kết thúc Đảng Cộng sản Nam Tư. Đảng Cộng sản Slovenia đã được theo bởi những người Croatia. Cả hai bên của hai nước cộng hòa miền Tây đàm phán tự do bầu cử đa đảng với các phong trào đối lập của riêng mình.
Vào mùa xuân năm 1990, trình diễn dân chủ và chống Nam Tư liên minh đã giành được cuộc bầu cử tại Slovenia, trong khi các cuộc bầu cử Croatia đã chứng kiến chiến thắng của những người theo chủ nghĩa dân tộc. Các kết quả đã được nhiều cân bằng hơn ở Bosnia và Herzegovina và Macedonia, trong khi các cuộc bầu cử quốc hội và tổng thống ở Serbia và Montenegro hợp nhất sức mạnh của Milošević và những người ủng hộ ông ta. Cuộc bầu cử tự do vào mức độ liên bang đã không bao giờ thực hiện. Thay vào đó, các lãnh đạo Slovenia và Croatia bắt đầu chuẩn bị kế hoạch ly khai khỏi liên bang.
Năm 1998 - 1999 thì xảy ra sự kiện chiến tranh Kosovo do Mỹ và khối quân sự Nato tấn công vào Nam Tư cũ.
Leo thang căng thẳng sắc tộc và quốc gia đã dẫn tới các cuộc chiến tranh Nam Tư và độc lập của các (liên bang) các đơn vị thành phần, trình tự thời gian:
Slovenia (25 tháng 6 năm 1991)Croatia (25 tháng 6 năm 1991)Cộng hòa Macedonia (Ngày 08 tháng 9 năm 1991)Bosnia và Herzegovina (Ngày 01 tháng 3 năm 1992)Serbia và Montenegro (2 công đoàn nhà nước từ 1992-2006). Montenegro tuyên bố độc lập vào ngày 03 tháng 6 năm 2006, trong khi Serbia tuyên bố thừa kế của mình cho các công đoàn như là một nhà nước độc lập vào ngày 05 tháng 6 năm 2006.Kosovo (ngày 17 tháng 2 năm 2008, một phần được công nhận)Hội nghị thượng đỉnh Malta[sửa | sửa mã nguồn]
Mikhail Gorbachev và Tổng thống Mỹ George Bush trên boong tàu của Liên Xô Maxim Gorky, Marsaxlokk Harbour.
Hội nghị thượng đỉnh Malta bao gồm một cuộc họp giữa Tổng thống Mỹ George HW Bush và nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev, diễn ra khoảng 2-3 tháng mười hai, năm 1989, chỉ một vài tuần sau sự sụp đổ của Bức tường Berlin, trong đó hai bên chính thức kết thúc chiến tranh lạnh, một phần là kết quả của phong trào ủng hộ dân chủ rộng lớn. Đó là cuộc họp thứ hai của họ sau một cuộc họp trong đó có Tổng thống Ronald Reagan, tại New York vào tháng 12 năm 1988.
Các bản tin vào thời gian này[18] gọi Hội nghị thượng đỉnh Malta là quan trọng nhất kể từ năm 1945, khi Thủ tướng Anh Winston Churchill, thủ tướng Liên Xô Joseph Stalin và Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đã nhất trí về một kế hoạch hậu chiến cho châu Âu tại Hội nghị Yalta.
Trình tự thời gian bầu cử ở Đông Âu từ 1989-1991[sửa | sửa mã nguồn]
Giữa mùa xuân 1989 và mùa xuân 1991, các nước thuộc Liên Xô và đông Âu dần từ bỏ chế độ Xã hội chủ nghĩa. Tại một số nước, Đảng Cộng sản bị giải thể hoặc thậm chí bị cấm hoạt động trong một thời gian. Ở Trung và Đông Âu, kể cả những người đã từng là công dân của nước Liên Xô và Nam Tư cũ, đã tham gia bầu cử nhiều đảng phái lần đầu tiên trong nhiều thập kỷ. Dưới đây là danh sách các cuộc bầu cử ở Đông Âu sau Các cuộc cách mạng 1989:
Gần 20 năm sau khi Liên Xô sụp đổ đã có nhiều người viết về nguyên nhân vì sao Liên Xô sụp đổ một cách có hệ thống. Loạt bài này khai thác những tư liệu được công bố gần đây (chủ yếu là công trình “Bí ẩn diệt vong của Liên Xô - lịch sử những âm mưu và phản bội 1945 - 1991” của tác giả A. P. Seviakin nhằm giúp bạn đọc hiểu thêm những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Nhà nước Xô viết vào năm 1991.
Mikhail Sergeyevich Gorbachyov, nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, rồi Tổng thống Cộng hòa Liên bang Xô viết (ảnh tư liệu)
Gần 20 năm sau khi Liên Xô sụp đổ đã có nhiều người viết về nguyên nhân vì sao Liên Xô sụp đổ một cách có hệ thống, nhiều công trình nghiên cứu đã đi đến kết luận sự sụp đổ của Liên Xô có nguyên nhân sâu xa là do những sai lầm, khuyết tật của mô hình XHCN Xô viết, một chế độ xã hội đã đạt những thành tựu vĩ đại, đóng góp to lớn cho sự phát triển của nhân loại, góp phần quyết định cứu loài người khỏi thảm họa phát - xít, nhưng đã trở nên trì trệ, không đáp ứng được yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Cuộc cải tổ sai lầm ở Liên Xô do M. S. Gorbachev đề xướng là nhân tố trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước Liên Xô.
Loạt bài này khai thác những tư liệu được công bố gần đây (chủ yếu là công trình “Bí ẩn diệt vong của Liên Xô - lịch sử những âm mưu và phản bội 1945 - 1991” của tác giả A. P. Seviakin nhằm giúp bạn đọc hiểu thêm những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Nhà nước Xô viết vào năm 1991.
Vào những năm tháng cuối cùng của thời Xô viết, có 7 nhân vật tên tuổi đã tạo nên công cuộc cải tổ để rồi chính họ phá tan Đảng Cộng sản Liên Xô, phá tan nhà nước Xô viết, làm sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô. Nhưng trước hết và quan trọng nhất là M. Gorbachev.
1. Đích nhắm của phương Tây
Vào đầu thập kỷ 1970 tại Sicily (Italia) diễn ra cuộc gặp mặt "những chính khách trẻ”, có M. S. Gorbachev tham dự. Ông ta lúc đó là cán bộ đoàn, thủ lĩnh đảng của Stavropol. Chính vào thời điểm này mối liên lạc của “người cải tổ số 1" trong tương lai với giới lãnh đạo chính trị phương Tây được thiết lập. Những cuộc tiếp xúc này đã khởi đầu một đường lối "Tư duy mới” và điểm kết thúc là sự biến mất hoàn toàn của Liên Xô.
M. S. Gorbachev khi là Bí thư Trung ương Đảng phụ trách nông nghiệp đã tiếp xúc công khai với người Mỹ là những nhà "hoạt động xã hội” khoác áo chuyên gia về nông nghiệp. Thông qua con đường công khai và không công khai, M. S. Gorbachev đã từng tiếp xúc với RAND Coporatinon là tổ chức chuyên nghiên cứu thông tin tình báo để chống phá Liên Xô. Trong những tài liệu thu thập gần đây cho thấy phía Mỹ đã có ý kiến thiết lập mối quan hệ với M. S. Gorbachev trước khi khởi động công cuộc cải tổ không lâu. Năm 1984, một năm trước khi Gorbachev lên nắm chức Tổng Bí thư, tại Geneva, diễn ra hội nghị về giải trừ quân bị, đại sứ Liên Xô V. Israelian - Trưởng đoàn đại biểu Liên Xô đã nhận lời mời của Đại sứ Mỹ tại Hội nghị Geneva Lewis Fields tới gặp xã giao ở một nhà hàng ngoại ô thành phố. Khi ăn cơm, người Mỹ không thông báo gì đặc biệt. Lúc chia tay, Fields đề nghị hai người đi bộ một lát và ông bạn Mỹ nói Mỹ muốn thiết lập mối tiếp xúc công việc nghiêm túc với Ban lãnh đạo Liên Xô và Phó Tổng thống Bush sẵn sàng gặp lãnh đạo Xô viết trong thời gian công cán tại Geneva. Cuộc gặp cần mang tính riêng tư, kín đáo nhất - Fields nói thẳng rằng Phó Tổng thống muốn được gặp M. S. Gorbachev với tư cách là một lãnh tụ chắc chắn trong tương lai của Liên Xô.
Đại sứ Liên Xô Israelian kể lại, đúng thời gian đó Bush đã có mặt tại Geneva, ngày 18-4-1984. Còn hôm trước đó, cố vấn Tổng Thư ký Liên Hợp quốc Xadrudnin Aga Han đã gọi điện thoại bí mật thông báo cho tôi rằng chiều 17 ông ta muốn cùng tôi gặp "một người bạn chung của chúng ta". Chúng tôi cùng trò chuyện ba người. Bush đề cập đến mục đích chuyến đi Geneva là đưa ra dự thảo Hiệp ước về cấm vũ khí hóa học. Khi chuyển sang nói chuyện khác thì Aga Han bỏ đi, chỉ còn lại tôi và Bush. Ông lập tức chuyển cuộc nói chuyện sang khả năng tiến hành cuộc gặp Xô - Mỹ không chính thức. Bush nói thêm đã ủy nhiệm cho Fields thu xếp, còn địa điểm, thời gian cuộc gặp sẽ xác định theo nguyện vọng và khả năng của hai bên. Nội dung cuộc gặp mỗi bên có thể tùy ý đề cập tới bất cứ đề tài nào. Nhưng chỉ với yêu cầu người cùng nói chuyện với mình, về phía Liên Xô phải là lãnh tụ Xô viết tương lai. Ông ta chỉ nói tên một người ''lãnh tụ sau đây của các ngài sẽ là Gorbachev”. Ông tuyên bố rất tin tưởng.
Chuyến thăm nổi tiếng tới London mà Gorbachev và phu nhân gặp bà M. Thatcher cũng là một đuờng nét vẽ nên mối quan hệ giữa M. S. Gorbachev với phương Tây. Sau cái chết của K. V. Chernenko thì Thatcher đã chấp nhận chuyến thăm đối với M. S. Gorbachev, họ ngồi với nhau cả hàng giờ liền "mắt trong mắt”, nhưng vì gặp đông người phía Liên Xô nên chẳng nói gì được nhiều. Trở về nhà, Gorbachev làm báo cáo gửi Bộ Chính trị với nội dung mù mờ, không dám báo cáo rõ ràng những gì mà ''bà đầm thép" đã nói, đã khuyên ông ta. Còn trong thực tế, từ đó mối quan hệ bất bình thường giữa Thatcher và Gorbachev đã trở nên bền chặt. Bà ta tuyên bố "có thể làm việc với con người này”. Có lần Thatcher thổ lộ “chúng tôi đã làm cho Gorbachev thành Tổng Bí thư”.
Theo thời gian, M . S. Gorbachev có nhiều cơ hội gặp gỡ lãnh đạo các nước phuơng Tây hơn, và ông ta sớm được phương Tây tâng bốc là ngôi sao mới và họ bắt tay thiết lập địa vị chính trị cho ông ta. Trong mọi trường hợp Gorbachev đều muốn tiếp xúc riêng với các nhà lãnh đạo phương Tây. Năm 1991, trong chuyến thăm của Tổng thống Bush, M. S. Gorbachev đã kéo theo nhiều người tin cậy cùng nói chuyện với Bush. Tuy nhiên, trong toàn bộ cuộc nói chuyện, họ mặt nhìn mặt, cố xa lánh mọi người. Sau bữa ăn, M. S. Gorbachev mời Bush đi dạo theo lối cửa sau cùng người phiên dịch. Bước ra quảng trường Ivanov, hai người đã thiết lập được mối quan hệ tin cậy và lúc này họ đang nói chuyện công khai.
Bất chấp nguyên tắc của Đảng, người đứng đầu Đảng Cộng sản Liên Xô đã gặp trực tiếp với giáo hoàng Roma John Paul II không có phiên dịch, gặp tay đôi với Bush cha trên khoang chỉ huy của một tàu chiến Mỹ tại Malta không có người thứ ba dự.
Trên thế giới các cuộc gặp gỡ quan chức các nước với nhau bao giờ cũng được ghi biên bản chi tiết, người tham gia là người chính thức hay quan chức chính phủ, hai bên đưa ra những vấn đề gì, v.v. nhưng người đầu tiên vi phạm điều này là Gorbachev. Họ thường xuyên tiến hành các cuộc đàm phán mà nội dung không được ghi vào biên bản. Họ cũng không sử dụng phiên dịch người mình. Không ai ở Liên Xô biết được nội dung các cuộc trò chuyện của họ.
Tuy việc đăng tải những tin tức như thế bị cấm nhưng vẫn có vài tư liệu đã được làm rõ như trong thời gian Gorbachev ở Đại sứ quán Mỹ thường có một số trí thức theo khuynh hướng tự do, những cốt cán tương lai của cuộc "cải cách” cũng được mời dự.
Sau này vào tháng 5-1993, sau khi Liên Xô sụp đổ, Gorbachev thăm Pháp đã trả lời phỏng vấn báo "Le Figaro" nội dung bài phỏng vấn có câu về hỏi về khả năng “hỗ trợ bên ngoài” trong việc xóa sổ Liên Xô, Gorbachev lần đầu tiên công nhận rằng trong cuộc gặp với Tổng thống Mỹ Reagan tại Reykjavik, ông đã trao Liên Xô vào tay Mỹ. Nguyên văn trả lời của Gorbachev như sau: Reykiavik thực sự là một vở kịch, vở kịch lớn. Bạn sẽ nhanh chóng hiểu vì sao. Tôi cho rằng không có một cá tính mạnh mẽ như Reagan thì tiến trình sẽ không thay đổi. Trong cuộc gặp cấp cao này chúng tôi, các bạn có biết chăng, đã tiến xa tới mức không thể quay trở lại…". Về sau, trong hồi ký của mình nhắc lại sự kiện này, Reagan đã kể lại rằng ông ta đã thực sự bị sốc vì vui mừng. Thực ra ông ta đến cuộc gặp ấy mà không tin rằng tại Reykjavik, Gorbachev đã báo tin một bộ phận chống Xô viết trong giới thượng lưu Matxcova chấp thuận việc phá tan Liên Xô.
Điều này làm nhiều người nhớ lại trước đó vào tháng 6 năm 1993, dự lễ tang Tổng Bí thư Enriko Belinguer của Đảng Cộng sản Italia, M. S. Gorbachev trong bài phát biểu của mình đã nói: Enriko thân mến, chúng tôi sẽ không bao giờ quên những lời khuyên của anh về sự cần thiết dân chủ hóa đất nước chúng tôi!
2. Gorbachev chống phá Liên Xô
M. S. Gorbachev sinh ngày 2-3-1931 trong một gia đình nông dân tại làng Privolnoe Stavropol, Bắc Capcadơ. Đến nay mọi người đã có thể biết rõ gốc rễ gia đình Gorbachev, dưới thời Stalin, ông ngoại – Panteluy Efimovich đã bị ngồi tù, còn ông nội, Andray Moi Xeievich từng bị đi cải tạo lưu đày ở Siberia. Người ông đằng vợ bị xử bắn năm 1937 như một kẻ troskit chính hiệu, bố vợ cũng bị ngồi tù 4 năm vì chống lại nhà nước Xô viết. “Sự việc đó thực sự là một cú sốc ghê gớm, hằn sâu vào ký ức của tôi từ lúc đó” M . S. Gorbachev nói.
Gorbachev tìm mọi cách chui sâu, luồn cao vào hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước. Gorbachev là con người né tránh vấn đề, giỏi che đậy, khôn ngoan và có kỹ năng và chiến thuật làm mọi người nhanh quên đi những quan điểm cấp tiến của mình. Trước khi Gorbachev lên làm Tổng Bí thư, các bài viết của K. V. Chernenko đăng trên Tạp chí Người Cộng sản vào những năm 1981 - 1983 đã kiên trì đề cập tới quan điểm sai trái về cái gọi là sự cần thiết phân định các chức năng của tổ chức đảng và tổ chức kinh tế quốc dân, cái gọi là lồng các chức năng của tổ chức kinh tế vào chức năng của tổ chức đảng. Nhiều người trong ban lãnh đạo cao cấp của đảng biết bài báo này ám chỉ quan điểm của Gorbachev. Tư tưởng các bài báo này được rút ra từ bài học liên quan tới khủng hoảng chính trị ở Ba Lan. Còn M. S. Gorbachev thì không mấy thích thú các bài báo của K. V. Chernenko.
Đến cuối năm 1984, đầu năm 1985, ở cương vị lãnh đạo của mình,V. Andropop đã tiếp tục phê phán vấn đề này. "Trong điều kiện, nếu các bí thư thứ nhất trao cho các nhà kinh tế quyền làm gì thì làm, thì mọi thứ của chúng ta sẽ tan nát hết. Trong trường hợp đó thì phương án Ba Lan sẽ dành cho chúng ta”.
Rõ ràng, trước khi giành được chức Tổng Bí thư, không phải tình cờ khi Gorbachev đã tiến hành việc tách và gạt bỏ Đảng Cộng sản Liên Xô khỏi vai trò lãnh đạo đời sống kinh tế của đất nước.
Raisa Makximovna Gorbachev - phu nhân của Gorbachev là người đã tham gia một cách bình đẳng vào việc thông qua các quyết định ở cấp cao nhất. Theo những đề nghị của bà, người ta đã hạ bệ nhiều quan chức cao cấp, nhiều chuyên gia giỏi để dành những vị trí đó cho những kẻ không hề hình dung nổi nhiệm vụ được giao phó, những người không hợp với bà ta không hề có giới hạn. Quan điểm, tính cách của bà vợ đã đóng một vai trò nhất định trong số phận của Gorbachev thậm chí là cả trong số phận của Đảng, của toàn bộ đất nước. Trong mọi trường hợp bà ta nhanh hơn cả việc Gorbachev cảm nhận được mình thực sự là Tổng Bí thư của Đảng và nguyên thủ quốc gia. Không hề e ngại, bà ta đã gọi điện thoại và giao việc cho các trợ lý Tổng Bí thư và một số thành viên lãnh đạo đất nước, đặc biệt là cho những người bà ta từng biết đến. Nói chung suốt nhiều năm dài "đệ nhất phu nhân ấy đã quản lý không chỉ công việc nội trợ mà cả vũ hội cải tổ. Bà ta đã tham gia vào việc hình thành đường lối, thậm chí nếu có thể, vào việc bố trí nhân sự. Nhưng điều chủ yếu nhất, đó là bà ta đã định hình nên tính cách của một vị Tổng Bí thư - Tổng thống đã giúp cho chồng tìm kiếm đường đi trong biển bão của những dòng chảy chính trị”.
Gorbachev từ Ủy viên dự khuyết trở thành Ủy viên chính thức Bộ Chính trị BCHTƯ ĐCS Liên Xô thật đơn giản. Có thời Kim Nhật Thành không muốn tiếp đoàn đại biểu ĐCS Liên Xô do M. S. Gorbachev, Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị BCHTƯ ĐCS Liên Xô cầm đầu sang tham dự Đại hội Đảng Lao động Triều Tiên năm 1980. Kim Nhật Thành cho rằng đoàn đại biểu của ĐCS Liên Xô phải do một Ủy viên Bộ Chính trị dẫn đầu. Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư thứ nhất Khu ủy Matxcơva V. V. Grisin sau khi đi thay chỗ của Gorbachev từ Triều Tiên về, đã đề nghị chuyển Gorbachev làm Ủy viên chính thức Bộ Chính trị do anh ấy còn trẻ, sẽ dễ dàng đi lại bằng máy bay. Đã nói là làm. Hội nghị toàn thể lần thứ nhất BCH TƯ Đảng đã thông qua đề nghị này.
Những âm mưu phản động và cơ hội đã đóng vai trò to lớn đưa Gorbachev lên vị trí Tổng Bí thư của Đảng. Các nhà Kremli học đã áp dụng nước cờ “biến con tốt thành hoàng hậu” trong trường hợp Gorbachev và một số Ủy viên Bộ Chính trị phe cánh Gorbachev. Các “Trung ương thần kinh” chống Nhà nước Xô viết đã triệt để lợi dụng được tình hình để kết hợp động cơ muốn lên lắm quyền của M. S. Gorbachev và ý định được điều hành từ nước ngoài. Trong khi Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô đang lúng túng bầu Tổng bí thư mới ra sao thì phương Tây đã có những tác động đúng lúc, thực hiện nhanh chóng âm mưu tạo dựng vị thế xấu đối với G. V. Romanov và thuận lợi cho M. S. Gorbachev cùng ekip của ông ta khai thác thông tin định hướng biết trước về vị thế nội bộ của các Ủy viên Bộ Chính trị khác, cho thấy đâu là những lợi ích trùng hợp với người khác trước hết là với những Ủy viên Bộ Chính trị già và Ủy viên Bộ Chính trị có uy tín trong Đảng. Phiên họp Bộ Chính trị hoàn toàn có thể cần một sự lựa chọn những thủ lĩnh khác như G. V. Romanov hay V. V. Grisin. Hình như tất cả đã được sắp xếp một cách có ý đồ. Theo lời đề nghị của ai đó, họ đã làm chậm chuyến bay từ Mỹ trở về của Ủy viên Bộ Chính trị Xerbitxk - người biểu quyết loại bỏ Gorbachev. Họ cũng không thông báo việc bầu cử này cho Ủy viên Bộ Chính trị Romanov đang đi nghỉ dưỡng. Nếu thêm hai phiếu chống này, Gorbachev đã không thể trở thành Tổng Bí thư. Ông ta đã đạt do hơn đúng một lá phiếu.
Việc đăng quang của Gorbachev đã được chuẩn bị từ lâu. Trong quá trình leo lên ngôi vị cao nhất, Gorbachev đã áp dụng nhiều chiến thuật loại bỏ những ai không ăn cánh có khi loại bỏ hoàn toàn, có khi phải cách ly tạm thời. Như với D. F. Uxtinov bằng mọi cách phải loại bỏ hoàn toàn. Hồ sơ sau này đã tiết lộ chính Uxtinov đã phải chấp nhận lùi xuống vị trí thứ 2 trong Đảng sau Chernenko. Điều này có một mục tiêu duy nhất là chặn đứng con đường thăng tiến chính trị đối với Romanov - người chống quyết liệt việc bầu Gorbachev giữ chức Tổng Bí thư.
Còn A. A. Gromyko đã quyết định tiến cử M. S. Gorbachev vào vị trí cao nhất của Đảng vì đã có thỏa thuận "chết người” với Gorbachev để đổi lại một sự tiến cử mình vào cương vị Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô. Trong sâu thẳm, chính A. A. Gromyko đã biết trước mong muốn của ngài cựu giám đốc CIA G. Bush được nhìn thấy M. S. Gorbachev trên cương vị Tổng Bí thư hoặc chí ít ông ta được đề cử vào danh sách ứng cử viên. A. A. Gromyko đã bị kéo vào ''trò chơi” từ rất lâu, lần cuối là tháng 1/1985 khi gặp Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ G. Sults, trước khi ông ta tới dự kỳ họp Bộ Chính trị và đã từng tuyên bố về việc ủng hộ ứng cử viên M. S. Gorbachev. Gromyko đã phản bội dân tộc.
Phương Tây đã sớm biết về việc M. S. Gorbachev sẵn sàng lên nắm chức vụ cao nhất trong Đảng. Tiểu sử của M. S. Gorbachev đã xuất hiện ở New York vào đúng ngày ông ta được bầu làm Tổng Bí thư BCH TƯ ĐCS Liên Xô. Mỹ đã vội vã tạo dựng uy tín cho "Gorby” mà không để chậm trễ một phút nào khi cho xuất bản cuốn sách đó. Hơn nữa, trong con mắt của phương Tây ông ta đã ngay lập tức thực sự trở thành ''người bạn tốt nhất”. Và cũng như phép thần thông biến hóa, mọi tổ chức chống Xô viết, đặc biệt là Liên minh Bảo vệ người Do Thái lập tức im bặt mọi lời chống đối ông ta.
M. S. Gorbachev ở cương vị Tổng Bí thư đã sử dụng hết khả năng nghệ sĩ của mình. Ông ta đã thể hiện cùng một lúc vài vai diễn trước mọi tầng lớp dân chúng, và trước một số người cần thiết đến mức không ai có thể phê phán ông ta. Ông ta càng bị những người "dân chủ" phê phán mạnh bao nhiêu thì cán bộ cao cấp của Đảng càng lúng túng bấy nhiêu, càng bảo vệ Gorbachev vì họ cảm thấy Gorbachev đang cùng họ bảo vệ đất nước. Đây chính là thảm kịch của những người cộng sản và của nhân dân Xô viết. Gorbachev luồn lách như con lươn để tiếp tục đường lối phản bội của mình, phá hoại Đảng Cộng sản Liên Xô, song lại làm ra vẻ như mình phải nhượng bộ do áp lực mạnh mẽ của "những người dân chủ", nhằm đánh lạc hướng dư luận.
Gorbachev tìm mọi cách thủ tiêu những dấu vết sai lầm trước đó của mình. Chính M. S. Gorbachev là người đầu tiên thủ tiêu vai trò của KGB để tránh hiểm họa cho sự phản bội Đảng, phản bội Tổ quốc của ông ta. M. S. Gorbachev khi còn ở cương vị Tổng Bí thư đã nói: "Tôi đã buộc phải hành động. Tôi có lo sợ KGB không à? Không, tôi không sợ. Nếu như tôi sợ họ thì tôi chẳng thể làm được gì. Nhưng tôi biết sức mạnh của họ. Và bây giờ tôi đã có thể nói những gì mà trước đây tôi không thể nói ra. Tôi phải chơi trên cơ họ”.
Liệu Bộ Chính trị, Ban Chấp hành TƯ Đảng Cộng sản Liên Xô lúc đó nhất là sau khi Gorbachev vô hiệu hóa KGB, có biết gì về những nguy cơ của "thời kỳ Gorbachev" không? Nhờ tài năng nghệ sĩ tuyệt vời và cách biết thực hiện khẩu hiệu “dậu đổ bìm leo" mà cho mãi đến nay, các công trình nghiên cứu mới có thể nói rằng Gorbachev đã có ý đồ phá hoại Liên Xô từ lâu. Đến thời điểm nhất định Gorbachev đã hành động theo những kế hoạch phá hoại được vạch ra từ trước ngay từ trong nước. Chỉ đến sau này vào giai đoạn cuối các kế hoạch phá bỏ Liên Xô đó mới bám rễ vào các kế hoạch của phương Tây. Đó là lúcGorbachev công khai cầu cứu nước ngoài và từ phương Tây đã kê sẵn đơn thuốc đưa vào giết chết CNXH ở Liên Xô nhanh hơn mong đợi.
3. Sự lươn lẹo của Gorbachev
Sau khi M. S. Gorbachev giữ được vị trí cao nhất trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, ông ta đã dốc hết sức thực hiện vai trò hai mặt. Là Tổng bí thư nhưng cũng là một kẻ phản bội làm theo những gì mà phương Tây giao phó. Những gì mà vây cánh của ông ta nhận thấy được chỉ mới là phần tồi tệ nhất của trò chơi quyền lực. Trên thực tế, đã thành sự phản bội.
Sự “sáng tạo” đặc biệt của M. S. Gorbachev trong lĩnh vực điều hành là bề ngoài tỏ ra hành động theo đường lối “cải tổ” đã được lựa chọn đúng đắn, song thực chất, ông ta thường thông qua những quyết định nước đôi và rất khéo léo, những quyết định đó thường có lợi cho những kẻ phá hoại. Còn bản thân ông ta, trong những tình huống căng thẳng, bị dồn ép lại rất biết cách phòng thủ và lảng tránh.
Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng CH Gruzia G. D. Mgeladeze kể lại: vào một buổi tối muộn tại Văn phòng của Bí thư thứ nhất BCH T.Ư Đảng D. I. Patiasvili đã có cuộc thảo luận về tình hình chính trị tại Tbilisi. Tại Hội nghị đã đưa ra vấn đề sao Trung ương chưa cho phép bắt giữ các thủ lĩnh cực đoan. Ban lãnh đạo Gruzia đang bị lửa đốt dưới chân, vậy mà Trung ương vẫn yêu cầu họ chờ đợi luật mới ra đời làm cho cuộc khủng hoảng chính trị ở Tbilisi tiếp tục thêm căng thẳng. Cũng như vậy, khi ở vùng Bal xảy ra trường hợp tương tự thì ở đó họ cũng chỉ nhận được sự “an ủi”: “Không để bị khiêu khích, không được can thiệp. Đó chỉ là đám bèo bọt trên làn sóng cải tổ lành mạnh. Chính chúng sẽ bị cuốn trôi”.
Liên Xô là quốc gia đa dân tộc. Thế lực chống cộng phương Tây, nhất là Mỹ luôn có âm mưu chia rẽ các dân tộc trong Liên bang Xô viết. Trong những năm tháng cải tổ, M. S. Gorbachev lập lờ trước tình trạng mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc bùng lên dẫn đến phong trào ly khai đòi độc lập ở một số nước cộng hòa. Chính thái độ của M. S. Gorbachev đã dẫn đến hậu quả đẩy nhanh sự sụp đổ của thể chế chính trị Xô viết.
Chẳng những thế, trong thời kỳ diễn ra “cuộc cách mạng nhung” ở Tiệp Khắc, Gorbachev đã gọi điện thoại yêu cầu Thủ tướng Tiệp Khắc Adamets không được áp dụng những biện pháp trấn áp. Vì sự can thiện của Gorbachev mà có các cuộc đàm phán của đảng cầm quyền với phe đối lập ở Tiệp Khắc để rồi kết cục bằng sự đầu hàng vô điều kiện của những người cộng sản.
Sau này, nhận xét về thái độ của Gorbachev về các sự kiện nêu trên, John Poidekster (người Mỹ) đã nhận xét rằng, “thật ngu xuẩn khi cho rằng Moscow nói chung đã đoán ra việc chúng ta làm. Họ đã từng phản đối chính sách của mình”.
Chính vì chương trình phá hoại từng bước về chính trị mà kinh tế Liên Xô gặp phải khủng hoảng nặng nề nhất. Đó cũng là lúc, M. S. Gorbachev công khai cầu viện Mỹ. trong “báo cáo” chuyển cho Tổng thống Mỹ G. Bush, ông ta viết: Tôi và ngài đã không ít lần phải hành động một cách cương quyết trong những tình huống khó khăn để giữ vững phát triển các sự kiện theo đúng hướng. Trong tương lai có thể có những bước ngoặt lớn nhưng sẽ không phản lại ngài trong bất kỳ trường hợp nào. Nhưng trước hết giờ đây nước Nga đang cần sự ủng hộ và giúp đỡ. Chính nước Nga đang trong tình hình nặng nề nhất”.
4. Chống phá Đảng từ bên trong
Bất kỳ một âm mưu nào nhằm vào Đảng thì nhất định sẽ ảnh hưởng xấu đến vận mệnh quốc gia. M. S. Gorbachev và Yakovlev cùng bộ sậu của họ biết rõ điều đó khi chúng phá hoại Đảng từ bên trong.
Sự phản bội lớn nhất của M. S. Gorbachev là thủ tiêu vai trò của ĐCS Liên Xô đối với xã hội, cổ vũ hình thành các tổ chức chính trị đối lập, thực hiện đa nguyên, đa đảng.
Vào đầu thời kỳ cải tổ, việc đầu tiên mà Gorbachev và êkíp của ông ta làm là đẩy hệ thống điều hành vào trạng thái bất ổn định. Rối loạn hệ thống sẽ có những hậu quả khôn lường. Cú đột phá đầu tiên là hút nguồn lực quốc gia vào lĩnh vực chế tạo máy do Gorbachev đề xướng vào năm 1985. Với chương trình hào nhoáng này, Liên Xô đã “đốt” 60 tỷ rúp, do đó các lĩnh vực kinh tế quốc dân khác bị suy thoái, xã hội bất ổn, xuất hiện tình trạng tổ chức đảng không kiểm soát được các hoạt động kinh tế.
Cái gọi là cải tổ kinh tế ngay từ đầu đã thất bại, tiêu cực xã hội ngày càng tăng cao, được lý giải như là một thứ học phí của quá trình cải tổ. Nhân cơ hội này, M. S. Gorbachev làm phức tạp hoá tình hình và tiếp tục sai lầm, đẩy mạnh cải cách chính trị với khẩu hiệu công khai hoá, dân chủ hóa.
Dư luận xã hội và trong nội bộ ĐCS Liên Xô đã không ít người nhận rõ những sai lầm rõ rệt có tính tổ chức của cái gọi là cải tổ do Gorbachev khởi xướng và điều hành. Trong bối cảnh hỗn loạn, thông tin chính thức lên Ban lãnh đạo cấp cao bị vô hiệu hoá, trong nội bộ đảng vẫn còn luồng ý kiến cảnh báo: “Chúng ta đã bắt đầu nhận ra khuynh hướng nguy hiểm của việc các nhà lãnh đạo chính trị thiếu quan tâm tới công tác tình báo, những nhiệm vụ chính trị trở nên ít hơn, mối quan hệ ngược đã hoàn toàn bị cắt đứt”.
Còn người có trách nhiệm cao nhất, M. S. Gorbachev lúc đó như thế nào? Về điều này, M. S. Gorbachev đã có lần bày tỏ một cách lấp lửng với phóng viên truyền hình vào tháng 3-1991: “Tình hình càng phức tạp thì tôi càng thích làm việc hơn. Thật tuyệt vời”.
Trong hơn sáu năm trên cương vị Tổng Bí thư, M. S. Gorbachev đã thay đổi hoàn toàn Bộ Chính trị và bộ phận chủ yếu của BCH T.Ư. Chỉ trong năm đầu tiên cầm quyền, ông ta thay 14 trong 23 lãnh đạo trong Ban Bí thư, 39 trong 101 bộ trưởng.
5. Cái gọi là tư duy chính trị mới
Cải tổ làm xã hội bất ổn. Nhằm thích ứng với cải tổ hơn nữa, M. S. Gorbachev tiếp tục phạm sai lầm nguy hiểm khi tung ra cái gọi là “tư duy chính trị mới” thực chất là xoá nhoà ý thức hệ tư tưởng, tạo ra cuộc “diễn biến hoà bình” ngay trong lòng xã hội Xô viết và ĐCS Liên Xô.
Các nhân tố của “tư duy chính trị mới” đã trở thành nền tảng để cải tổ chính sách quân sự và đối ngoại. Những quan điểm sai lầm đó được phương Tây chào đón nhiệt thành. Có thể thấy rõ, trong “tư duy chính trị mới” này, bao hàm những nguồn gốc phá hoại nền quốc phòng và nền an ninh, đối ngoại của Nhà nước Xô viết, phá hoại về chính trị và tư tưởng. “Tư duy chính trị mới chỉ là ẩn danh, song không quá khó khăn để phát giác những dấu vết của những cố vấn bí mật cho Gorbachev. Những kẻ đó hàng chục năm ròng được nuôi dưỡng từ nhà bếp chính trị học phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Những sản phẩm đó chỉ cung cấp cho nơi đặt hàng là Lầu Năm góc và CIA.
Những người trong “đội quân thứ năm” cố vấn đặc biệt cho Gorbachev có thể kể trước hết Yakovlev. Shevardnadze, Primakov, Arbatov, Amlaski, G. Sakhnadarov…Những cộng sự đắc lực đó của Gorbachev đều đã từng nhận những chỉ dẫn của Mỹ và đã cùng với Gorbachev thực hiện thành công đường lối phản bội nhân danh cải tổ để tiêu diệt chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô.
Liên Xô sụp đổ. Tháng 2 năm 1992, phát biểu tại Nghị viện Israel, M. S. Gorbachev tuyên bố: Tất cả những gì tôi làm với Liên Xô tôi đã làm!
Cũng trong năm đó, tại Quốc hội Mỹ, ông ta đã báo cáo thần tượng của chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ.
Sau này, năm 1999, tại trường đại học Mỹ ở Thổ Nhĩ Kỳ, M. S. Gorbachev đã tự thú nhận: Mục tiêu của toàn bộ đời tôi là tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản. Chính vì để đạt được mục tiêu này tôi đã sử dụng địa vị của mình trong Đảng và trong Nhà nước. Khi trực tiếp làm quen với phương Tây, tôi đã hiểu rằng tôi không thể từ bỏ mục tiêu chống cộng sản đã đặt ra. Và để đạt được nó, tôi đã phải thay đổi toàn bộ Ban lãnh đạo ĐCS Liên Xô và Xô viết Tối cao cũng như Ban lãnh đạo ở tất cả các nước Cộng hoà. Tôi đã tìm kiếm những người ủng hộ để hiện thực hoá mục tiêu đó, trong số này đặc biệt có A. Yakovlev, Shevardnadze…