Nhân dịp kỉ niệm ngày thành lập quân đội nhân dân và quốc phòng toàn dân, ngày 22 tháng 12, để chúng tôi hiểu thêm về lịch sử chiến đấu của dân tộc, nhà trường đã mời đoàn cựu chiến binh về thăm và trò chuyện. Trong đoàn đại biểu đó, tôi bắt gặp một người lính trên ngực gắn nhiều huân chương và trong buổi lễ chú đã giới thiệu mình là người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Cuối buổi, tôi đã lân la đến gặp và có cuộc nói chuyện thú vị với chú.
Các bạn có lẽ không thể hình dung được, người chiến sĩ lái xe trẻ trung, sôi nổi năm xưa giờ đĩnh đạc, oai nghiêm trong bộ quân phục mới. Chú có giọng nói khoẻ, ấm áp và tiếng cười âm vang. Cùng tháng năm, khuôn mặt tuy đã già dặn nhưng vẫn có vẻ hóm hỉnh, yêu đời của người lính. Qua trò chuyện, có thể thấy chú là người rất vui tính, nhiệt tình, đặc biệt là khi chú kể cho tôi về cuộc đời người lính trên tuyến đường Trường Sơn năm ấy. Chú kể với tôi, năm 1969 là năm chú thường cùng các anh em trong tiểu đội lái xe qua đây, cũng là năm mà Mĩ đánh phá rất ác liệt trên tuyến đường này. Bởi đường Trường Sơn, tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử là tuyến đường quan trọng nhất, là đầu mối giao thông, liên lạc hai miền Bắc - Nam
Chúng quyết phá cho bằng được. Chúng thả hàng ngàn tấn bom, cày xới những khung đường, đốt cháy những khu rừng. Hàng nghìn cây đã đổ, muông thú mất chỗ ở. Đã có nhiều người ngã xuống để bảo vệ con đường. Tuy Mĩ đánh phá ác liệt thật, nhưng những đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm nối đuôi nhau trên con đường, đem theo bao lương thực, vũ khí đạn dược cho chiến trường miền Nam. Kể một lúc, chú lại mỉm cười và nói với tôi:
- Cháu thấy đấy, cuộc chiến đấu của các chú trải qua biết bao gian khổ, khó khăn. Những năm tháng ác liệt đó đã khắc hoạ cả một thời kỳ lịch sử của dân tộc ta oanh liệt hào hùng. Trên tuyến đường Trường Sơn giặc Mĩ đánh phá vô cùng ác liệt; bom Mĩ cày xới đất đai, phá hỏng những con đường, đốt cháy những cánh rừng, phá huỷ biết bao nhiêu những rừng cây là lá chắn của ta. Nhưng không vì "bom rơi đạn lạc" như vậy mà các chú lùi ý chí, các đoàn xe tải ngày đêm nối đuôi nhau ra tiền tuyến, các chú còn phải đi trong bóng đêm theo sự hướng dẫn của các cô thanh niên xung phong để tiến về phía trước trong màn đêm sâu thẳm của rừng hoang. Có hôm trời tối Mĩ phát hiện ra, ta chuyên chở qua rừng, bọn chúng đã thả bom để không cho ta qua, phá vỡ chiếc cầu nối Bắc - Nam. Nhưng đặc biệt hơn cả là đoàn xe vận tải không có kính vì bị "bom giật bom rung kính vỡ đi rồi". Bom đạn trải xuống hàng loạt khiến nào là kính, nào là đèn vỡ, mui xe bẹp, nào là thùng xe xước... Không có đèn vượt qua dãy Trường Sơn đầy nguy hiểm như thế mà các chú vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ đánh Mĩ, chạy dọc Trường Sơn. Chẳng khác nào "châu chấu đá xe", Mĩ với bao nhiêu thiết bị tối tân đế đánh ta nhưng chúng ta đã vượt qua những gian khổ để đánh chúng. Chú còn nhớ trên các cabin những chiếc xe như thế, bọn chú không cỏ vật gì để che chắn cả, gió táp vào mặt mang theo bao nhiêu là bụi. Gió bụi của Trường Sơn làm mắt cay xè, tóc bạc trắng như người già còn mặt thì lấm lem như thằng hề vậy, thế mà không ai cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc hút ngang nhiên, ai nấy nhìn nhau rồi cười giòn giã vang khắp dãy Trường Sơn.
Với những ngày nắng là như vậy nhưng đến lúc mưa thì các chú còn khổ hơn nhiều, Trường Sơn mỗi lúc mưa là mưa như trút nước cộng thêm vào đó là những giọt sương muối ở rừng hòa vào dòng nước mưa phả vào da thịt của các chú tê rát cả da mặt, áo thì ướt hết. Lắm lúc lạnh quá các chú phải tì sát vào nhau mà nghĩ thầm: "Vì bảo vệ Tổ quốc phải vượt qua được thiên nhiên thì mới là những người lính của bộ đội Cụ Hồ". Vì những lời nhủ thầm đó mà chú và các đồng đội mới trải qua được sự khắc nghiệt của thiên nhiên, thiên nhiên trong thời kỳ đó lắm lúc cũng là kẻ địch của mình đấy cháu ạ. Thế nhưng các chú vẫn cầm vô lăng lái một cách hăng hái hàng trăm cây số nữa có đâu cần thay người lái, gió lùa rồi quần áo lại khô thôi.
Cháu biết không: Người lính Trường Sơn năm xưa giản dị, đơn sơ lắm. Để trải qua những ngày tháng ấy các chú phải vượt qua biết bao nhiêu gian lao vất vả mà đặc biệt là phải biết vượt qua chính mình, có ý chí chiến đấu cao. Vượt qua những khó khăn như thế con người mới hiểu được sức chịu đựng của mình thật kỳ diệu. Xe không kính cũng là một thú vị vì ta có thể nhìn cả bầu trời, không gian rộng lớn khoáng đạt như ùa vào buồng lái, những ngôi sao đều nhìn thấy và những cánh chim chạy thẳng vào tim. Tâm hồn người chiến sĩ vui phơi phới, thật đúng là:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước ,
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Trên con đường Trường Sơn, mỗi khi các chú gặp nhau thì thông qua cửa kính bắt tay. Đó là sự động viên, truyền thêm sức mạnh cho nhau để vượt qua khó khản. Mỗi khi giữa rừng, bên bếp Hoàng cầm sưởi ấm bao trái tim người chiến sĩ, các chú nghĩ từng chung bát chung đũa tức là một gia đình, là người trong một nhà rồi đấy cháu ạ. Một cử chỉ nhỏ của người chiến sĩ cũng làm cho họ gắn bó thêm, xiết chặt tình đồng đội.
Được nghe chú kể những vất vả ấy tôi thật khâm phục hơn tình đồng chí đồng đội, lòng dũng cảm hiên ngang của người chiến sĩ. Tôi thầm mơ ước trên thế giới không còn chiến tranh để cuộc sống mãi thanh bình.
Bạn tham khảo bài này(đúng đề tổ bọn mik làm)
Hôm nay, ông ngoại tôi dậy từ rất sớm. Ông vừa tập thể dục vừa huýt sáo rất vui vẻ. Từ trong phòng mình tôi cũng có thế nghe thấy giai diệu của những bài hát Cách mạng thật hùng tráng. Tôi sực nhớ ra sáng hôm nay là ngày 22 tháng 12, ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam và cũng là ngày đơn vị cũ của ông tôi tổ chức họp mặt các cựu chiến binh. Ông tôi lấy bộ huân huy chương của ông ra, lau tỉ mỉ từng chiếc cho sáng bóng lên, là bộ quân phục cũ thật phẳng phiu, sẵn sàng cho buổi họp trang trọng này. Thật may mắn, tôi được theo ông đến dự buổi họp mặt bởi ông ngoại muốn tôi hiểu rõ hơn về cuộc kháng chiến oanh liệt đã qua.
Khi ông và tôi đến thì hội trường đã chật cứng người. Niềm vui của mỗi người cũng lộ rõ trên từng ánh mắt, nụ cười. Đã lâu rồi mọi người trong đơn vị mới được gặp lại nhau. Cả hội trường tràn ngập tiếng hỏi han, tiếng cười vui sướng. Các ông bà nay đều đã già nhưng vẫn rất vui vẻ. lạc quan và rất khỏe mạnh. Ông ngoại tôi dẫn tôi đến và giới thiệu tôi với tiểu đội trưởng của ông ngày xưa - ông Nguyên. Ông Nguyên có khuôn mặt phúc hậu với nụ cười rất hiền từ, trìu mến. Ông có mái tóc bạc trắng, làn da đỏ au và giọng nói sang sảng, khỏe khoắn. Thoạt nhìn ông tôi đã cảm thấy ông là một người rất dễ mến. Khi biết tôi muốn tìm hiểu về cuộc sống chiến đấu của bộ đội ta thời chiến tranh, ông xoa đầu tôi và bảo: “Cháu biết vậy là tốt lắm. Thế hệ trẻ bây giờ cần phải biết cha ông ta khi xưa đã phải gian lao thế nào để bảo vệ nền độc lập cho Tổ quốc”. Ông tôi và ông Nguyên đều là những chiến sĩ lái xe trên con đường Trường Sơn lịch sử mà chiến công của họ đã từng được đưa vào thơ văn. Điển hình là Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Tôi hỏi ông Nguyên “Ông ơỉ, cháu thấy các ông thật là giỏi, xe không có kính mà vẫn lái được. Như chúng cháu bây giờ thì làm sao mà chịu nổi bụi bặm như vậy, chưa kể chúng cháu còn được đi trên những con đường được trải nhựa hết sức bằng phẳng. Ông Nguyên nhìn tôi rồi cười và nói: “Chiến tranh mà cháu, bom đạn đã cướp đi tính mạng biết bao con người huống chi là cái kính xe ô tô. Các ông phải lái xe trong mưa bom bão đạn, ranh giới giữa sự sống và cái chết mỏng manh lắm. Lúc đó cái chết kề cận các ông còn không sợ thì bụi chỉ là chuyện nhỏ thôi, cháu gái ạ. Thực sự thì xe không có kính cùng kéo theo nhiều phiền toái lắm: Gió và bụi cứ thế ùa vào buồng lái, nhiều lúc mắt ông cay xè tưởng như không nhìn rõ đường nữa. Chưa kể có những hôm trời mưa, nước mưa tuôn xối xả vào buồng lái. Uớt lạnh kinh khủng nhưng vẫn cố lái, không hề ngừng nghỉ. Rồi ông hắng giọng đọc to:
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điểu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Tôi nói : “Cháu đã đọc Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật, cháu thấy nhà thơ viết rất chân thực về cuộc sống gian khổ của các ông. Bài thơ đã để lại cho cháu ấn tượng rất sâu sắc”. Ông Nguyên tiếp lời ngay: “Đúng, bài thơ hay lắm, vì Phạm Tiến Duật cũng là lính Trường Sơn, tận mắt chứng kiến bộ đội ta chiến đấu như thế nào. Nhưng theo ông thì không có thơ văn nào diễn tả hết được đâu cháu. Một trong những nỗi khổ của bộ đội các ông chính là phải xa gia đình - mái ấm thân yêu. Từng lá thư gia đình gửi lên, từng món quà hiếm hoi các ông cũng chia sẻ với nhau cho vơi bớt nỗi nhớ nhà. Và trong hoàn cảnh như vậy thì tình đồng đội đã giúp các ông rất nhiều, các ông cùng nhau ăn ngủ, kể cho nhau nghe những câu chuyện vui, chia sẻ những tiếng cười nhưng xúc động nhất là được bắt tay nhau thật nhanh, thật chặt qua cái cửa không kính ấy. Bởi vì mình cần sống và được chứng kiến rằng bạn mình vẫn sống, khoẻ mạnh. Chiến tranh khốc liệt đã cướp đi bao nhiêu sinh mạng con người, nhiều đồng đội cũ hằng chiến đấu cùng ông và ông ngoại cháu đã vĩnh viễn nằm lại trên chiến trường, có những người hài cốt vẫn chưa được tìm thấy. Mỗi lần nhớ đến họ, ông lại rất thương cảm, xót xa”. Sau một khoảng im lặng, tôi tiếp tục hỏi ông: “Vậy ông thích câu thơ nào nhất trong bài thơ ạ?” Ông Nguyên nhăn trán lại suy nghĩ rồi đáp: “Hai câu cuối cháu ạ: Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước – Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Hai câu này thật giàu ý nghĩa, chính tấm lòng yêu nước, ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam đã thúc đấy bộ đội ta vượt lên trên mọi gian khổ, hi sinh. Chiếc xe ở đây không phải chạy bằng xăng, dầu mà chạy bằng nhiên liệu vĩnh cửu đó là lòng yêu nước của những người lính lái xe đấy”. Ông Nguyên lại xoa đầu tôi rồi nhìn thẳng vào mắt tôi, ông nói:
“Hiểu được những gian khổ mà cha ông ta phải trải qua để bảo vệ đất nước khỏi ách nô dịch của giặc ngoại xâm, các cháu phải cố gắng học thật giỏi, đem lại vinh quang cho đất nước, xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp nhé!”.
Về đến nhà rồi mà trong đầu tôi vẫn âm vang những lời dặn dò của ông Nguyên. Vâng, thế hệ trẻ chúng ta phải luôn ghi nhớ công ơn của cha ông từ thời xưa giữ nước, chúng ta phải làm rạng danh cho non sông để đền đáp công ơn như trời biển ấy.