-Tác giả : Y Phương
+ Ông nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại sở văn hóa và thông tin tỉnh Cao Bằng
+ Năm 1993 là chủ tịch hội văn nghệ Cao Bằng
+ Năm 2007 ông được nhận giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật. Đây quả là một giải thưởng cao quý rất xứng đáng với những gì ông đã cống hiến cho nền văn học nước nhà
+ Các tác phẩm tiêu biểu: “Người hoa núi”, “Lời chúc”, “Đàn then”…
- Phong cách sáng tác:
+ Thơ ông thể hiện tâm hồn mạnh mẽ, chân thực và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người dân tộc miền núi, mang đậm bản sắc vùng cao.
Y Phương (24 tháng 12 năm 1948 –) là một nhà văn Việt Nam, người dân tộc Tày, có tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, quê ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa VI. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi.
Bài thơ “Nói với con” tôi viết năm 1980. Đó là thời điểm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn. Thời kỳ cả nước mới thoát ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mỹ lâu dài và gian khổ.
Thể thơ: tự do
Phương thức biểu đạt: biểu cảm
Y Phương có tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, quê ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa VI. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi.
Tác phẩm:sáng tác 1980, thể tự do,mạch cảm xúc Mượn lời nói với con, Y Phương gợi về cội nguồn sinh dưỡng mỗi con người, bộc lộ niềm tự hào về sức sống bền bỉ của quê hương mình. Bài thơ đi từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra là tình cảm quê hương, từ những kỷ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên thành lẽ sống. Cảm xúc, chủ đề của bài thơ được bộ lộ, dẫn dắt một cách tự nhiên, có tầm khái quát nhưng vẫn thấm thía.
nhà thơ Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, sinh năm 1948, thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi
Tác giả :Y Phương
+ Ông nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại sở văn hóa và thông tin tỉnh Cao Bang
+ Năm 1993 là chủ tịch hội văn nghệ Cao Bang
+ Năm 2007 ông được nhận giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật. Đây quả là một giải thưởng cao quý rất xứng đáng với những gì ông đã cống hiến cho nên văn học nước nhà
+ Các tác phẩm tiêu biểu: “Người hoa núi", “Lời chúc”, “Đàn then"...
- Phong cách sáng tác. Thơ ông thể hiện tâm hon mạnh mẽ, chân thực và trong sang, cách tư duy giàu hình ảnh của người dân tộc miền núi, mang đậm bản sắc vùng cao.
Y Phương (sinh năm 1948) tên thật là Hứa Vĩnh Sước
- Quê quán: Trùng Khánh - Cao Bằng, ông là người dân tộc Tày
- Sự nghiệp sáng tác:
Ông nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại sở văn hóa và thông tin tỉnh Cao Bằng
Năm 1993 là chủ tịch hội văn nghệ Cao Bằng
Năm 2007 ông được nhận giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật. Đây quả là một giải thưởng cao quý rất xứng đáng với những gì ông đã cống hiến cho nền văn học nước nhà
Các tác phẩm tiêu biểu: “Người hoa núi”, “Lời chúc”, “Đàn then”…
- Phong cách sáng tác:
Thơ ông thể hiện tâm hồn mạnh mẽ, chân thực và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người dân tộc miền núi, mang đậm bản sắc vùng cao.
-Hoàn cảnh sáng tác:Bài thơ được sáng tác năm 1980, khi đất nước mới hòa bình thống nhất nhưng gặp rất nhiều khó khăn thiếu thốn. Từ hiện thực ấy nhà thơ sáng tác bài thơ như lời tâm sự, động viên chính mình đồng thời nhắc nhở con cái sau này.
-Thể thơ: tự do
- Mạch cảm xúc của bài thơ nói với con là
Mượn lời nói với con, Y Phương gợi về cội nguồn sinh dưỡng mỗi con người, bộc lộ niềm tự hào về sức sống bền bỉ của quê hương mình.
- Bài thơ đi từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra là tình cảm quê hương, từ những kỷ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên thành lẽ sống. Cảm xúc, chủ đề của bài thơ được bộ lộ, dẫn dắt một cách tự nhiên, có tầm khái quát nhưng vẫn thấm thía.
+ Nhà thơ Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, dân tộc Tày sinh năm 1948, quê huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
+ Phương nhập ngũ năm 1968, năm 1981 chuyển công tác về sở văn hóa – Thông tin Cao Bằng. Từ năm 1983, ông là chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng. Năm 2007, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
+ Thơ ông thể hiện một tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh mang đặc trưng của người dân tộc miền núi.
+ Tác phẩm chính: Người hoa núi (kịch bản sân khấu, 1982), Tiếng hát tháng giêng (thơ, 1986), Lửa hồng một góc (thơ, in chung, 1987), Lời chúc (thơ, 1991), Đàn then (thơ, 1996).
*Tác giả:
Ông nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại sở văn hóa và thông tin tỉnh Cao Bằng
Năm 1993 là chủ tịch hội văn nghệ Cao Bằng
Năm 2007 ông được nhận giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật. Đây quả là một giải thưởng cao quý rất xứng đáng với những gì ông đã cống hiến cho nền văn học nước nhà
Các tác phẩm tiêu biểu: “Người hoa núi”, “Lời chúc”, “Đàn then”…
-Thơ ông thể hiện tâm hồn mạnh mẽ, chân thực và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người dân tộc miền núi, mang đậm bản sắc vùng cao.
*Tác phẩm:
-Bài thơ được sáng tác năm 1980, khi đất nước mới hòa bình thống nhất nhưng gặp rất nhiều khó khăn thiếu thốn. Từ hiện thực ấy nhà thơ sáng tác bài thơ như lời tâm sự, động viên chính mình đồng thời nhắc nhở con cái sau này.
-Thể thơ: tự do
-PTBD :biểu cảm
Y Phương (sinh năm 1948) tên thật là Hứa Vĩnh Sước
- Quê quán: Trùng Khánh - Cao Bằng, ông là người dân tộc Tày
- Sự nghiệp sáng tác:
Ông nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại sở văn hóa và thông tin tỉnh Cao Bằng
Năm 1993 là chủ tịch hội văn nghệ Cao Bằng
Năm 2007 ông được nhận giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật. Đây quả là một giải thưởng cao quý rất xứng đáng với những gì ông đã cống hiến cho nền văn học nước nhà
Các tác phẩm tiêu biểu: “Người hoa núi”, “Lời chúc”, “Đàn then”…
- Phong cách sáng tác:
Thơ ông thể hiện tâm hồn mạnh mẽ, chân thực và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người dân tộc miền núi, mang đậm bản sắc vùng cao.
1.Tác giả: Y Phương, là một nhà thơ trưởng thành trong khánh chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ ông chân thực, mạnh mẽ trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi
2. Tác phẩm: Thể thơ: Tự Do
HCST: Đây là thời kì đờ sống công việc và tinh thần của Nhân dân nói chung và ĐB dân tộc thiểu số nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, gian khổ
-Bắt nguồn từ tình cảm gia đình nâng lên thành tình cảm quê hương. Từ những khái niệm thân thương lên thành lẽ sống để gửi gắm tình yêu, niềm tin và mong ước của người cha đối với con, với thế hệ mai sau
Tác giả : Y Phương là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ . Thơ của ông thể hiện tâm hồn chân thật , mạnh mẽ và trong sáng , cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi . Thể thơ : Tự do . PTBĐ chính : Biểu cảm . Hoàn cảnh sáng tác : bài thơ được viết năm 1980.Bố cục : 2 phần
Nhà thơ Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước . Ông nhập ngũ năm 1968, phục vụ cho quân đội đến năm 1981 và chuyển về công tác tại Sở Văn Hoá- Thông tin Cao Bằng. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.Bài thơ được sáng tác năm 1980, khi đất nước mới hòa bình thống nhất nhưng gặp rất nhiều khó khăn thiếu thốn. Từ hiện thực ấy nhà thơ sáng tác bài thơ như lời tâm sự, động viên chính mình đồng thời nhắc nhở con cái sau này. Thể thơ: tự do
Tác giả : Y Phương
+ Ông nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyền về công tác tại sở văn hóa và thông tin tỉnh Cao Bằng + Năm 1993 là chủ tịch hội văn nghệ Cao Bằng
+ Năm 2007 ông được nhận giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật. Đây quả là một giải thưởng cao quý rất xứng đáng với những gì ông đã cống hiến cho nền văn học nước nhà
+ Các tác phẩm tiêu biểu. Người hoa núi”, “Lời chúc Đan then Phong cách sáng tác.
+ Thơ ông thể hiện tam hòn mạnh mẽ, chân thực và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người dân tộc miền núi, mang đậm bản sắc vùng cao.
Tác giả, tác phẩm
Nhà thơ Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, dân tộc Tày sinh năm 1948, quê huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
Phương nhập ngũ năm 1968, năm 1981 chuyển công tác về sở văn hóa – Thông tin Cao Bằng. Từ năm 1983, ông là chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng. Năm 2007, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Thơ ông thể hiện một tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh mang đặc trưng của người dân tộc miền núi.
Tác phẩm chính: Người hoa núi (kịch bản sân khấu, 1982), Tiếng hát tháng giêng (thơ, 1986), Lửa hồng một góc (thơ, in chung, 1987), Lời chúc (thơ, 1991), Đàn then (thơ, 1996).
Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ được sáng tác vào năm 1980, khi thế hệ nhà thơ vừa thoát ra khỏi cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài 21 năm. Nền kinh tế nước ta lúc ấy như người trọng bệnh mới hồi dậy. Cái nghèo khó phủ lên từng con phố, bản làng, gương mặt… Nhà thơ đã viết Nói với con nhằm động viên tinh thần và tôn vinh dân tộc Tày của mình qua hình thức tâm sự của người cha với con (lúc này con gái nhà thơ mới được một tuổi). Tình yêu con lớn dần cùng tình yêu dân tộc, vừa xúc động, thiêng liêng, vừa chân thành, mạnh mẽ, sáng trong.
- Tác giả : Y Phương là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ . Thơ của ông thể hiện tâm hồn chân thật , mạnh mẽ và trong sáng , cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi .
- Tác phẩm :
+Thể thơ : Tự do .
+ PTBĐ chính : Biểu cảm .
+ Hoàn cảnh sáng tác : bài thơ được viết năm 1980.
+ Bố cục : 2 phần
1. Tác giả : Y Phương (1948)
-Là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
-Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi
2. Tác phẩm :
-Thể tơ: Tự do
-PTBĐ chính: Biểu Cảm
-HCST: Năm 1980
-Bố cục: 2 phần
+ Đoạn 1 : Phần1: Người cha nói với con về tình cảm cội nguồn của con
+Đoạn 2: Phần 2: Người cha nói với con về lòng tự hào, bền bỉ, truyền thống cao đẹp của quê hương
Tác giả: Y Phương (sinh năm 1948) tên thật là Hứa Vĩnh Sước. Quê quán Trùng Khánh- Cao Bằng. Ông nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại sở văn hóa và thông tin tỉnh Cao Bằng. Năm 1993 là chủ tịch hội v ăn nghệ Cao Bằng. Năm 2007 ông được nhận giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật. Đây quả là một giải thưởng cao quý rất xứng đáng với những gì ông đã cống hiến cho nền văn học nước nhà. Thơ ông thể hiện tâm hồn mạnh mẽ, chân thực và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người dân tộc miền núi, mang đậm bản sắc vùng cao.
Tác phâm:
HCST: Bài thơ ra đời vào năm 1980 – khi đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân cả nước nói chung, nhân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi nói riêng vô cùng khó khăn, thiếu thốn.
Thể thơ tự do
Mach cảm xúc của bài thơ: Mượn lời nói với con, Y Phương gợi về cội nguồn sinh dưỡng mỗi con người, bộc lộ niềm tự hào về sức sống bền bỉ của quê hương mình. - Bài thơ đi từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra là tình cảm quê hương, từ những kỷ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên thành lẽ sống.
1, Tác giả: Y Phương
- Ông là một nhà thơ trưởng thành trong khánh chiến chống Mỹ cứu nước.
- Phong cách thơ: chan thực, mạnh mẽ, trong sáng, cách tư duy hình ảnh đậm chất con người miền núi.
2, Tác phẩm
- HCST: Năm 1980 - là thời kì đất nước vực dậy sau chiến tranh, đời sống Nhân dân nhất là miền núi còn nhiều khó khăn, gian khổ
- Thể thơ: Tự do
- PTBĐ chính: Biểu cảm
- Bắt nguồn từ tình cảm gia đình nâng lên thành tình cảm quê hương. Từ những khái niệm thân thương lên thành lẽ sống gửi gắm tình yêu, niềm tin và mong ước của người cha đối với con và đối với thế hệ mai sau.
Y Phương là một nhà văn Việt Nam, người dân tộc Tày, có tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, quê ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa VI. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi.
Nhà thơ Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước . Ông nhập ngũ năm 1968, phục vụ cho quân đội đến năm 1981 và chuyển về công tác tại Sở Văn Hoá- Thông tin Cao Bằng. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.Bài thơ được sáng tác năm 1980, khi đất nước mới hòa bình thống nhất nhưng gặp rất nhiều khó khăn thiếu thốn. Từ hiện thực ấy nhà thơ sáng tác bài thơ như lời tâm sự, động viên chính mình đồng thời nhắc nhở con cái sau này. Thể thơ: tự do
Nhà thơ Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước . Ông nhập ngũ năm 1968, phục vụ cho quân đội đến năm 1981 và chuyển về công tác tại Sở Văn Hoá- Thông tin Cao Bằng. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.Bài thơ được sáng tác năm 1980, khi đất nước mới hòa bình thống nhất nhưng gặp rất nhiều khó khăn thiếu thốn. Từ hiện thực ấy nhà thơ sáng tác bài thơ như lời tâm sự, động viên chính mình đồng thời nhắc nhở con cái sau này. Thể thơ: tự do
Nhà thơ Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước . Ông nhập ngũ năm 1968, phục vụ cho quân đội đến năm 1981 và chuyển về công tác tại Sở Văn Hoá- Thông tin Cao Bằng. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.Bài thơ được sáng tác năm 1980, khi đất nước mới hòa bình thống nhất nhưng gặp rất nhiều khó khăn thiếu thốn. Từ hiện thực ấy nhà thơ sáng tác bài thơ như lời tâm sự, động viên chính mình đồng thời nhắc nhở con cái sau này. Thể thơ: tự do
Nhà thơ Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước . Ông nhập ngũ năm 1968, phục vụ cho quân đội đến năm 1981 và chuyển về công tác tại Sở Văn Hoá- Thông tin Cao Bằng. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.Bài thơ được sáng tác năm 1980, khi đất nước mới hòa bình thống nhất nhưng gặp rất nhiều khó khăn thiếu thốn. Từ hiện thực ấy nhà thơ sáng tác bài thơ như lời tâm sự, động viên chính mình đồng thời nhắc nhở con cái sau này. Thể thơ: tự do
*Tác giả: Y Phương nhập ngũ năm 1968, năm 1981 chuyển công tác về sở văn hóa – Thông tin Cao Bằng. Từ năm 1983, ông là chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng. Năm 2007, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
*Tác phẩm:
-HCST: Bài thơ được sáng tác năm 1980, khi đất nước mới hòa bình thống nhất nhưng gặp rất nhiều khó khăn thiếu thốn. Từ hiện thực ấy nhà thơ sáng tác bài thơ như lời tâm sự, động viên chính mình đồng thời nhắc nhở con cái sau này.
- Thể thơ: Tự do
_ Bố cục:
+) Phần 1: Cội nguồn sinh dưỡng của con (11 dòng đầu)
+) P2: Quê hương và gia đình nuôi con khôn lớn (còn lại)